VỀ MỘT QUÃNG ĐỜI TRỊNH CÔNG SƠN (9-10) - Tác giả: Nguyễn Thanh Ty (Hoa Kỳ)

Leave a Comment

 

VỀ MỘT QUÃNG ĐỜI

TRỊNH CÔNG SƠN (9-10)

*

9.

Vẫn Ông Già Thống:

(Tác giả Nguyễn Thanh Ty)

Nếu cứ trưa thứ sáu Sơn "dọt", sáng thứ hai về thì cuộc đời rất phẳng lặng không có gì để nói. Đằng này Sơn không có thói quen đều đặn về giờ giấc. Thời gian của Sơn chậm lại, có khi trễ từ 24 tiếng đến 48 tiếng đồng hồ mỗi tuần là thường. Cứ mỗi lần trễ như vậy, tôi lại nghe tiếng xe gắn máy cũ kỹ của ông già Thống chạy xành xạch vô ngõ. Những bận như thế, sau khi ca cẩm, than thở một lúc, ông lại nhờ tôi nói hộ với thầy Sơn, đừng đi lâu quá, khổ cho thân già ông. Có lần tôi phát cáu, gắt lại ông:

- Bác Thống này! Bác nhờ tôi nói hộ. Tôi đã nói với ông Sơn y như lời bác. Cớ sao khi gặp ông Sơn bác lại bảo không có gì, chuyện nhỏ mà! Thầy có công việc cứ đi, để lớp tôi trông cho. Ông Sơn lại cự nự tôi cho tôi đặt chuyện.

Đang lúc bực, tôi tuôn một hơi dài. Nhưng khi nhìn cái miệng méo xệch bị trúng phong từ lâu thành tật của ông cố phân bua:

- Thầy nghĩ xem! Ông ấy là "sếp" của tôi mà! Khó cho tôi nói quá!

Lòng tôi lại chùng xuống, bất nhẫn với mình, và cảm thông cho ông.

Dạo gần nghỉ hè niên khóa 1965, Sơn ở luôn trên Đà Lạt hơn một tháng. Ông Thống kham hết nổi. Con ngựa già "đã mỏi vó trên đồi quê hương" buộc lòng ông phải đến Ty báo cáo sự vắng mặt cuả ông sếp mình. Ông Lê Cao Lợi phải điện một công văn khẩn nhờ đài phát thanh Đà Lạt thông báo cho Sơn về nhiệm sở gấp. Hạn cho một tuần, kể từ ngày loan báo, nếu không trình diện coi như đào nhiệm.

Hôm sau đã thấy Sơn lò dò về trình diện. Chắc chắn kỳ này Sơn sẽ lãnh cái búa tạ của ông Lợi giáng xuống do hai vụ cộng lại. Vụ trước làm ông mất mặt với tòa Tỉnh. Nặng ký thì thuyên chuyển vô trong núi xa như Tân Rai hay Tân Lú tha hồ nghe chim kêu vượn hú. Nhẹ thì chế tài hành chánh, ngưng thăng trật một năm. Nhẹ nữa thì thư khiển trách lưu hồ sơ. Nhưng ông Lợi chỉ khiển trách sơ sơ rồi bỏ qua, chỉ bằng miệng chớ không ghi hồ sơ cá nhân.

Khi nghe tin Trưởng giáo về, ông Thống vội đến ngay để "thăm" ông sếp của mình. Cố tạo một khuôn mặt thật tươi, ông Thống cười nói, hỏi thăm rất sốt sắng, nhiệt tình. Sơn tỏ vẻ biết lỗi nên nhỏ nhẹ:

- Chắc trong thời gian tôi vắng mặt khá lâu, bác vất vả lắm phải không?

Tôi nhìn ông Thống chờ xem phản ứng của ông. Nhưng tôi nhầm. Ông Thống vần cười nói thản nhiên:

- Ối giời! Tôi thì tôi lo cho thầy đi đường có bất trắc gì không, bởi thầy đi lâu quá. Chứ cái đám học trò thì có gì mà mệt. Thầy đừng có quan tâm. Tôi đã từng mấy chục năm giời trong nghề này rồi. Như ăn cơm bữa ấy mà!

Tôi trố mắt nhìn ông, kinh ngạc. Thì mới hôm qua, ông đến đây, vò đầu bứt tai than vãn làm như sắp chết đến nơi. Ông cứ rền rĩ cái điệp khúc quen thuộc: - Ối giời ơi! Tôi chết mất! Tôi chết mất! Thế mà bây giờ lại hoàn toàn trái ngược, coi như chuyện hôm qua, chuyện bữa trước, chuyện tháng trước ông nói với tôi không có gì xảy ra hết. Sơn lại dò dẫm:

- Này bác Thống! Bây giờ tôi còn nhiều việc phải làm trên Đà Lạt, vài hôm nữa, nếu tôi về không kịp, bác trông hộ lớp cho tôi nhé!

- Vâng! Vâng! Thầy cứ đi. Thầy cứ lo cho xong công việc của thầy. Thầy cứ để mặc đấy cho tôi. Mấy cái đứa học trò ranh ấy mà. Chả có gì phải lo sốt.

Ông Thống sốt sắng đáp. Sơn kín đáo quay sang tôi, nháy mắt. Thế là xong. Ông Thống lại vào tròng. Sơn tiễn khách:

- Thôi bác về nghỉ nhé. Cám ơn bác đã đến thăm.

Ông Thống cầm nón đứng lên toan ra cửa, nhưng làm như sực nhớ ra điều gì. Ông lục cặp, lôi ra một xấp giấy tờ, lật qua, lật lại vài trang rồi đưa cho Sơn và nói:

- A! còn cái này nữa chứ, xuýt nữa là tôi quên khuấy mất. May quá lại nhớ. Nhờ thầy xem qua một tị.

Sơn cầm xấp giấy xem qua một lượt rồi nói với ông Thống:

- À! Phiếu phê điểm hằng năm của bác đây mà.

- Vâng! Phải ạ. Nhờ thầy phê cho mấy chữ và cho điểm bên cạnh.

Ông giải thích thêm:

- Trước kia, trường mỗi mình tôi. Hàng năm ông thanh tra đến khám xét và phê điểm. Năm nay có thầy về thì cái việc này do thầy quyết định ạ.

Sơn tần ngần một lúc rồi nói:

- Bác Thống này! Bác muốn tôi phê như thế nào?

- Vâng! Thầy cứ xét xem năng lực và cách làm việc của tôi suốt niên khóa có chăm chỉ, đều đặn không, có bê trễ trong việc dạy dỗ học trò không thì thầy phê vào. 

Ông cố ý kéo dài những chữ chăm chỉ, bê trễ như để nhấn mạnh thêm trọng lượng của từng chữ. Sơn cảm thấy quá khó trong công việc này. Có lẽ Sơn tự thấy mình quá bê bối trong việc dạy dỗ học trò, lại còn trút gánh nặng cho đồng nghiệp, dù người ấy đã già, đáng bậc cha, chú của mình, thì lấy tư cách gì để xuống bút một lời phê. Sơn đưa mắt nhìn tôi, thầm hỏi ý kiến. Tôi đề nghị:

- Theo tôi, cứ để cho bác ấy tự phê mình thế nào thì tùy, ông chỉ cho điểm thôi. Thế là ổn.

Sơn thoát nạn, quay sang ông Thống, Sơn nói:

- Thế nhé! bác nhé! Bác về nhà muốn phê như thế nào thì tùy bác. Bây giờ bác muốn bao nhiêu điểm?

Ông Thống rụt rè:

- Tùy thầy cho bao nhiêu tôi nhờ bấy nhiêu!

Sơn xởi lởi, rộng rãi:

- Tôi cho bác 100/100 điểm nhé!

Ông Thống giật nẫy mình kêu lên:

- Chớ! Không được đâu thầy! Từ xưa đến giờ chưa có ai đạt được 99/100 điểm cả. Thầy cho như thế tôi lại chết.

Sơn cười cười:

- Thế thì bao nhiêu là hợp lý là hở bác?

Ông Thống thở dài:

- Thôi thì thầy cho tôi 98 điểm cũng được!

Sơn đồng tình:

- Ừ! Thì 98 điểm nhé! Bác nhé!

Sơn ngoáy con số 98 trên 100 rồi ký tên mình dài ngoằng ở dưới. Xong, đưa trả phiếu điểm lại cho ông Thống. Ông run run đưa tay đỡ và nhét xấp giấy vào cặp, miệng cám ơn Sơn mấy lần nữa mới ra khỏi cửa, dắt chiếc xe cà tàng ra ngõ. Nét mặt rạng rỡ chưa từng thấy từ trước đến giờ. Tôi tiễn ông ra cửa:

- Hôm nay bác Thống thích nhé! Từ giờ về sau đừng nhờ gì tôi nữa nhé!

Ông quay lại giơ tay khoát khoát ra hiệu ngụ ý đừng nói gì. Khi ông khuất sau hàng lau, tôi ôm bụng cười sặc sụa. Sơn cũng cười, hỏi tôi:

- Ông thấy sao?

- Thì trăng với sao gì nữa! Ngày nào ổng cũng đến đây nhăn nhó, cáu bực, ca bài ca con cá. Hôm nay lại nhũn như con chi chi. Hóa ra là vì cái phiếu phê điểm. Mà ông lại cho cái điểm "ác ôn côn đồ" làm ổng xuýt đứng tim.

Sơn cười khoái chí:

- Ối điểm trên trời mà. Quyền của mình, mình cứ cho thoải mái, mất gì cho cam!

 

Bài Ca Dao Bên Cồn Đá:

Một hôm Sơn bỗng hỏi tôi:

- Này ông! Không hiểu ông Phạm Duy suy nghĩ bằng cách nào mà ổng đặt được những lời ca hay quá chừng. Tôi không ngờ được !

Tôi tán đồng và phụ họa:

- Dĩ nhiên là như vậy rồi. Từ xưa tới giờ Phạm Duy là số một. Có ai hơn được ổng đâu!

Tôi nghe Sơn nhâm nhẩm hát vài câu rồi lại hỏi:

- Như cái câu "Đêm qua ra đứng bờ ao. Trông cá, cá lặn. Trông sao, sao mờ. Buồn trông con nhện giăng tơ. Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?" Ông thấy có tuyệt không?

Tôi bật cười:

- Tưởng ông đơn cử bài gì, chớ bài này thì ổng lấy ca dao ra phổ thành nhạc. Ổng đâu có đặt lời. Ổng còn lấy thơ của người khác phổ nhạc cũng tuyệt lắm. Tôi mê hai bài thơ của Phạm Thiên Thư "Đưa em tìm động hoa vàng" và "Ngày xưa Hoàng Thị" ổng cũng phổ nhạc thật tuyệt vời.

Sơn rất ngạc nhiên, hỏi lại:

- Mình có ca dao hay như vậy sao ?

Tôi đọc một mạch hết bài "Nhớ ai"- "Buồn trông chênh chếch sao mai..." Thuận miệng, tôi đọc luôn bài "Nụ tầm xuân"- "Trèo lên cây bưởi hái hoa..."

Sơn nói:

- Đó! đó bài nữa đó! Sao lâu nay tôi không biết cà?

Đến phiên tôi ngạc nhiên:

- Từ đệ ngũ đến đệ tam, học sinh nào chẳng học môn văn chương bình dân, trong đó có ca dao, tục ngữ, hát đố, truyện cổ... Chẳng lẽ ông không biết chút gì à?

Sơn thú thật:

- Từ nhỏ tới giờ, tôi học chương trình Pháp, nên không biết gì về ca dao, tục ngữ hết.

Tôi đùa:

- Thôi rồi! Thế nào ông cũng có học câu "Tổ tiên ta là người Gaulois(*) phải không?

Sơn cười, gật đầu:

- Đó là bài học đầu tiên!

Sơn đậu Bac I chương trình Pháp, bỏ ngang việc học khi cha bị tai nạn chết. Khi lên Bảo Lộc, Sơn cùng chúng tôi cố gắng học hàm thụ để có thể tiến thân thêm trong nghề nghiệp. Năm nào đầu niên khóa, Sơn cũng hăm hở mang một lô sách về đọc. Một thời gian ngắn sau khi đi đi, về về Sài Gòn -Đà Lạt, Sơn lại vất sách vào xó cho bụi bám. Năm 1966, Hảo Tâm đã xong cử nhân văn chương. Cuối năm, anh bị động viên vào Thủ Đức trước bọn tôi.

Sau cuộc nói chuyện về ca dao, tục ngữ, đêm nào Sơn cũng yêu cầu tôi đọc cho nghe vài bài. Lần nào Sơn cũng xuýt xoa khen hay. Từ đó Sơn mê ca dao, tục ngữ và sưu tầm tài liệu về đọc. Sau này có dịp, Sơn đưa chữ ca dao vào nhạc như bài "Ca Dao Mẹ" có câu "Bài ca dao bên cồn đá" chẳng hạn. Đến lượt tôi chịu thua. Không hiểu nổi- "Ca dao bên cồn đá" là ý nghĩa gì!

(*) Nos ancêtres sont des Gaulois

 

Sinh Tử Phù:

Sau vụ rao tìm trên Đài phát thanh Đà Lạt và bị quở trách tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn. Ít đi lại Sài Gòn, Đà Lạt hơn. Thỉnh thoảng có đi cũng về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này, Sơn nhận được rất nhiều thư từ. Phong nào cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu điện, tôi biết được là thư gửi đi từ Huế. Đó là thư của bạn Sơn. Cái tên người gửi ở góc trái phong bì lần đầu tôi được nghe, được thấy, lạ lắm. Đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Từ lúc nhận được những thư đó, Sơn bỗng nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn, lo lắng. Ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi thẩn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc tàn, Sơn chỉ rít một hai hơi, rồi quên bẵng đi để nó cháy trên hai ngón tay đến lúc rụi đi. Chiếc gạt tàn chưa hết ngày đã đầy ứ lên, tràn ra cả bên ngoài. Sơn đi mua khóa về khóa chặt vali để cất kỹ những bức thư ấy. Có thư vừa đọc xong, Sơn đem đốt ngay. Không ngăn nổi tò mò, một hôm tôi hỏi Sơn:

- Dạo này tôi thấy ông không được vui. Có chuyện gì vậy?

Sơn lãng tránh:

- Đâu có gì! Chuyện nhà mà.

- Sao dạo này ông có quá nhiều thư của ông Phủ, ông Tường gì đó, mà mỗi lần nhận thư, đọc thư xong, tôi thấy ông có vẻ lo lắng thế?

- À! Bạn tôi đó. Ảnh báo cho tôi biết những chuyện không vui của gia đình tôi.

Thấy nói chuyện gia đình, tôi không tiện hỏi thêm.

Trước kia Sơn hay kể cho tôi nghe về gia đình anh, về hai đứa em. Em trai là Trịnh Quang Hà, em gái là Trịnh Vĩnh Thúy. Sơn mấy lần rũ tôi về Huế chơi để biết thú ngủ đò trên sông Hương, bánh bèo Âm phủ, cơm hến Vĩ Dạ... Tôi cũng muốn biết cố đô Huế một lần. Hẹn mãi. Nhưng lần nào về Nha Trang, mê sóng nước và thú săn bắn dưới biển tôi lại quên mất chuyện ngủ đò trên sông Hương. Đến nay tôi cũng chưa biết cầu Trường Tiền "sáu vài, mười hai nhịp" ra sao. Bây giờ, đọc báo thấy nói Sơn có bảy anh em. Cô ca sĩ Vĩnh Trinh là út. Nếu cứ tính sinh năm một, năm 1957 ba Sơn mất, thì Vĩnh Trinh phải năm mươi tuổi hoặc hơn.

Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Nhưng không phải đến Đà Lạt. Sơn kể cho tôi nghe về một trang trại nào đó ở Phim Nôm, gần Đức Trọng, một quận của tỉnh Tuyên Đức. Sơn ở đó có khi hai, ba ngày với vài người bạn để bàn chuyện làm ăn. (Sơn không nói tên những người đó). Có lần Sơn rủ tôi làm ăn chung. Lương mỗi tháng mười ngàn. Tối trố mắt kinh ngạc:

- Công chuyện gì mà lương mỗi tháng mười ngàn? Họa là làm cho Việt Cộng ?

Sơn xua tay, gạt ngang:

- Nhảm! Ông không làm thì thôi. Nói bậy chết có ngày!

Tôi cười hì hì rồi quên đi. Một lần, Sơn về sau hai ngày bàn chuyện làm ăn, khoe với tôi mọi việc đều tốt đẹp và được đãi một chầu "Cà phê cứt chồn" nhớ đời. Sơn vui vẽ kể:

- Hồi giờ nghe nói cà phê chồn, mấy tiệm đều quảng cáo cà phê cứt chồn, giờ mới biết là láo hết. Làm gì có mà bán. Một đồn điền cà phê mênh mông, cho người đi nhặt cả tuần lễ, chưa chắc có được một ký. Chồn nó lựa những trái cà phê chín đỏ để ăn, rồi ỉa ra hột lẫn trong phân. Chủ đồn điền biệt phái một hay hai người đi lượm những hột đó, đem về phơi khô, rang, tẩm. Sau nhiều giai đoạn chế biến mới thành cà phê uống được. Không đủ biếu quan đầu tỉnh, đầu quận thì làm gì có mà bán ra thị trường. 

Tôi vẫn thắc mắc:

- Cả một rừng cà phê bạt ngàn mà ông nói lượm không được một ký?

- Đúng vậy! Người ta không đợi cà phê chín mới hái. Nó sẽ rụng xuống đất hết. Trái vừa già có màu xanh đen là người ta đã hái rồi. Nói là hái chứ thật ra tuốt hay suốt. Trái cà phê mọc thành từng chùm dài như tiêu hay chùm ruột.

- Ông uống thấy mùi vị nó ra sao? Có bay mùi chồn không?

- Không! Nó có mùi thơm đặc biệt lắm. Cái mùi nó quyện trong hơi nóng bốc khói là là trên miệng chén, tỏa hương chầm chậm, thơm lâu lắm. Tôi nhâm nhi từng chút một để cho cái lưỡi và cái lổ mũi tôi thưởng thức hết cái ngon của nửa tách cà phê. Chỉ có nửa tách thôi, suốt một đêm hai con mắt tôi thao láo, không nhắm được. Đến bây giờ, (lúc Sơn về kể) tôi vẫn tỉnh táo mà không cảm thấy mệt.

Nghe nói, tôi đâm thèm và ao ước:

- Ông có xin họ một ít không? Đem ra pha thử cho tôi uống một chút?

- Ở đó mà ham! Tôi lên xuống cả tháng nay, giờ mới được đãi có nửa tách. Một tách còn chưa có thì làm gì họ cho một ít mang về. Vả lại, ai mở mồm xin, "ốt dột" chết!

Hè năm 1965, tôi mãi mê vui đùa với nắng gió, sóng nước ở bãi biển Nha trang nên quên lời hẹn với Sơn ra Huế để Sơn dẫn tôi đi thăm thú các nơi. Hết hè, tuy vẫn còn luyến tiếc những ngày vui trôi qua quá mau, tôi cũng phải trở về Bảo Lộc để kịp ngày khai giảng niên học mới.

Trở lại ngôi nhà trọ, tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn thỉu. Toàn là tàn thuốc lá. Chổ nào cũng đầy tro tàn. Bao thuốc lá Bastos xanh trống không xếp đầy chung quanh tường, cao gần tới đầu gối. Sơn nằm dài trên đi văng. Mùng vẫn buông, ám khói vàng khè. Dưới gầm bàn giỏ rác đầy ứ. Giấy loại quay ronéo vàng xỉn, vo tròn, xé nát vất đầy mặt đất. Xác cà phê khô đóng mốc xanh, trắng vươn vãi chỗ này một nhúm, chỗ kia một tụm. Tôi la lên:

- Ông không về Huế nghỉ hè sao?

- Không! Tôi ở lại đây luôn. Cũng không về Sài Gòn. Sơn uể oải vừa chui ra khỏi mùng vừa nói.

- Còn lại một mình bà Phi có nấu cơm cho ông không? Tôi hỏi thêm.

- Không! Sơn lắc đầu. Tôi ăn cơm bữa ở Ngọc Sơn. Tám đồng một bữa. Siêng thì đi ăn, làm biếng thì ở nhà gặm bánh mì. Bà Phi về Sài Gòn cả tháng nay rồi. Cô người làm cũng về quê luôn. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn. Mặt hốc hác. Tóc râu bờm xờm. Người đã ốm o sẵn, nay lại càng gầy thêm. Gầy rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, nhàu nát, đen xỉn. Có lẽ ba tháng nay không giặt. Nhưng đặc biệt nét mặt Sơn rất vui và rạng rỡ. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình, tôi vừa trò chuyện:

- Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây tới ba tháng lận! Không buồn à?

Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe với tôi:

- Công trình ba tháng đó!

Tôi cầm xấp bản thảo, liếc qua trang đầu có nhan đề "CA KHÚC DA VÀNG". Lật thêm mấy tờ bên dưới thấy những bản nhạc có tựa đề rất lạ như "Gia tài của Mẹ"- "Đàn bò vào thành phố"- "Người già và em bé"- "Người con gái Việt Nam da vàng"... với những lời ca lạ lẫm, khác hẳn với những lời trong tình ca đến 180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người Sơn. Sơn đã lột xác. Tôi chăm chú nhìn Sơn để tìm xem cái gì khác trên khuôn mặt xương xương kia. Nhưng tôi không nhìn thấy gì cả. Chỉ trong đôi mắt, sau lần kính cận, ánh lên vẻ khác thường. Tôi chưa xác định được rõ ràng là cái gì. Có một cái gì đó mơ hồ lấp ló trong trí tôi rồi vụt biến mất. Cái mơ hồ đó tôi chưa kịp đặt tên cho nó, và cũng chưa nghĩ ra được một chữ thích hợp cho trạng thái đó trong lúc này. Thấy tôi im lặng lật hết tờ này qua tờ khác, Sơn hỏi:

- Ông thấy sao? Được chứ?

- Tôi mới đọc lời thôi! Chưa biết nhạc ra sao! Chưa có ý kiến được. Thôi bây giờ ta đi ăn cơm. Tối nay ông hát cho tôi nghe thử vài bài được không?

Sơn đồng ý. Chúng tôi ra Ngọc Sơn ăn cơm chiều. Cơm nước xong, chúng tôi lững thững đi ngược về hướng bờ hồ để lên Câu lạc bộ uống cà phê, ngắm lại cảnh sương chiều bốc dần lên từ chân cầu nhà Thủy Tạ hình bát giác sơn màu đỏ chói và cái cây chết khô giữa hồ. đứng một mình, cô độc.

Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập "Ca khúc da vàng". Đến những đoạn như "Gia tài của Mẹ: một bọn lai căng... một lũ bội tình" hay như "Đại bác đêm đêm dội về thành phố! Người phu quét đường dừng chỗi lắng nghe" hoặc như "Tôi có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ..." tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động. Nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm can, tỏa lan dần cơ thể làm cho tứ chi bãi hoải. Sơn ngừng hát, đưa mắt hỏi tôi. Đột nhiên trong óc tôi lóe lên một tia chớp: tôi đã thấy rõ hình dáng của nó và tìm ra được cái tên của nó mà buổi chiều tôi chỉ cảm biết mà không nghỉ ra được. Tôi buột miệng la lên: Sinh tử phù.

Sơn ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi, chặp lâu mới hỏi:

- Ông nói "sinh tử phù" là ý nghĩa gì?

Thời gian đó Sơn chỉ đọc sách Pháp. Hình như đang đọc "Cánh cửa hẹp" và "Buồn nôn". Tôi thì mê luyện chưởng Kim Dung. Tôi giảng giải sơ lược về môn pháp cấy sinh tử phù cho Sơn nghe. Sơn càng thắc mắc:

- Vậy thì cái chuyện cấy sinh tử phù của ông ăn nhập gì đến tôi?

Tôi chậm rãi, buồn rầu trả lời Sơn:

- Ông đã bị cái ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nào đó cấy "sinh tử phù" vào người rồi.

Ông còn nhớ có lần ông rủ tôi làm việc với nhóm của ông ở Phim Nôm, trả lương tháng mười ngàn không? Tôi nói đùa: họa may làm cho Việt Cộng, ông giãy nãy la oai oái. Và những lần ông đốt những xấp thư của ông Tường không? Bây giờ trong vòng ba tháng, ông đã sáng tác một đống nhạc, chẳng bù với hai bài "Chiều một mình qua phố" và "Lời buồn thánh" phải mất hơn sáu tháng? Bây giờ trong nhạc ông không còn những sợi nắng thủy tinh, những lá me bay, những tay gầy guộc nhỏ, những sõi đá biết nhớ biết đau mà toàn những xác chết, những bom đạn, mìn chông, bội phản... Những loại từ này không hợp với con người ông. Tôi e rằng ông đã bị tiêm nhiễm sinh tử phù Việt Cộng của ông Tường cấy vào người ông quá lậm rồi!

Sơn phản đối kịch liệt:

- Thôi đừng giỡn cha nội! Cha giỡn kiểu đó chết tôi nghe!

Từ đó, chúng tôi im lặng không ai nói với ai lời nào nữa cho đến lúc tắt đèn đi ngủ.

Dần dà trong bọn chúng tôi ai cũng biết Sơn vừa sáng tác một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ "phản chiến" để chỉ loại nhạc này. Chúng tôi cứ ngâm nga mỗi bài vài câu. Phe thích thì cứ khoái... "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày..." ca cẩm suốt ngày. Phe chê thì:

- Xí! nhạc Việt Cộng! Cha nội Sơn theo Việt Cộng rồi!

Tuy nhiên, sau đó lại quên lãng đi. Chúng tôi vẫn lại bù khú cà phê, bi da, xập xám, vui vẻ ồn ào như trước. Nhưng không ai để ý thấy rằng khi đám nhà binh như Vĩnh, Ngự, Tinh, Thành nhập bọn là Sơn tìm cách lãng tránh. Nhất là lúc có mặt hai chàng Thành, chi khu phó và Tinh, an ninh quân đội. Có lần trong bữa nhậu vui vẻ, không biết vô tình hay hữu ý, Trung úy Thành vừa cười vừa nói:

- Này mấy ông giáo! Tôi xin nói trước, bạn thì bạn, chơi thì chơi, nhưng ông nào theo Việt Cộng thì chúng tôi vẫn cứ bắt như thường đó!

Nói xong, anh ta cười hì hì, rồi giơ cao ly lên:

- Nào dô! Dô!

Lúc về, Sơn nói riêng với tôi:

- Chơi với mấy cha nhà binh, ghê thấy mẹ!

Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về, Sài Gòn, Đà Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường, lớp hơn trước. Nhưng thời gian đi không lâu. Có khi hai ngày. Có lúc ba ngày. Ông già Thống từ ngày được ông trưởng giáo hào phóng cho 100 điểm, há miệng mắc quai, không còn biết than thở với ai, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập "Ca khúc da vàng" và khoe với tôi là giới sinh viên thích lắm. Họ đang yêu cầu có những buổi hát ngoài trời gọi là "du ca". Và Sơn cũng hé cho tôi biết một vài sinh viên có nhiệt tâm đấu tranh như Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Toại...sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy.

Những điều Sơn kể và những cái tên xa lạ không ăn nhập gì đến đời sống đang tươi đẹp của tôi nên nó từ tai này qua tai kia trôi tuột đi, chốc lát tôi quên hết. Khi Sơn đi vắng, tôi còn vô khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Bạch, Đạo, Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Hiện, Thao, Rầm, Nhượng... Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông Hiệu trưởng Ngọc hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn. Hai bên đường vào ấp trồng toàn hoa anh đào, nên còn có tên gọi rất thơ mộng là Đào Hoa thôn. Chúng tôi vào đây để đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Ông Tề tuy là nhà nông nhưng có tâm hồn nghệ sĩ. Trên gác Nghinh Phong của ông có đủ loại phong lan mà ông sưu tầm được. Trăm màu, trăm vẻ. Tuần khác lại cùng các cô giáo trẻ Nghiên, Châu, Hải, Trang...đi dạo suối Đại Bình, cách Bảo Lộc chừng vài cây số.

Cứ thế, ngoài việc dạy dỗ các em học sinh, tuổi trẻ của tôi đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống trong cái quận lỵ bé nhỏ, mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe đò một buổi chiều cuối tuần đìu hiu có mưa rả rích. Buồn thúi ruột.

 

10.

Tháng sáu năm 1966, Tâm nhập ngũ. Sơn chuyển qua phòng Tâm. Hai chúng tôi ở hai phòng riêng biệt. Trừ những lúc đi ăn cơm, uống cà phê, chơi bi da chung với nhau, Sơn ở lì trong phòng. Sơn không còn thú ngồi trước hiên nhà, chờ ngắm cô Ngà đi lễ mỗi buổi chiều với chiếc áo dài lụa màu mỡ gà sáng lóa trong ánh nắng xiên khoai sắp tắt. Bây giờ chỉ còn tiếng chuông nhà thờ quyện bước chân đi và gió chiều nhẹ đuổi theo, khẽ rung tà áo. Hai bên đường, đám lau trắng đã nở hết bông chỉ còn lại những thân xương khô quắt chỉa lên trời.

Giáng sinh năm đó tôi cưới vợ và thuê căn lầu của nhà may Tân Việt để ở. Sơn vẫn ở một mình trong căn nhà bà Phi. Mỗi buổi sáng đi dạy, đi ngang nhà chúng tôi, thỉnh thoảng Sơn tạt vào xin vợ tôi ly sữa dằn bụng. Nhất là những ngày cuối tháng. Bây giờ Sơn không còn tươi vui như xưa. Sơn mệt nhọc trong dáng đi và nhiều suy tư, âu lo hằn trên vầng trán.

 

Chia Tay:

Hè 1967. Chúng tôi đang mỗi người mỗi nơi nghỉ hè, bỗng đồng loạt nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới bức điện chua thêm hàng chữ: "Nếu trình diện trễ hạn sẽ bị đưa ra trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế". Thế là không hẹn mà chúng tôi gặp nhau một ngày tại Ty. Tay trái nhận lệnh tổng động viên, tay phải nhận phong bì lương, Ty ứng trước một tháng để ăn đi đường. Không thấy Sơn đâu. Hỏi anh Thành, phát ngân viên, anh cho biết:

- Sơn đã đến đây hôm qua nhận lệnh và lương đi rồi.

Tối hôm đó, chúng tôi gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị, Bạch, Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét và Thao què được miễn dịch) tụ tại nhà Nghị uống một bữa thật say để chia tay. Ai cũng ví mình như Kinh Kha đang ở bờ sông Dịch, một đi không trở lại. Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi đưa khúc sáo lên đường. Chúng tôi đang lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài "Những ngày xưa thân ái" của Phạm thế Mỹ. Cứ lặp đi, lặp lại điệp khúc..."Chỉ còn tay súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù. Những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho nhau..." Hát xong rồi cùng nhau khóc. Khóc như trẻ thơ. Khóc tự nhiên không một chút xấu hổ.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, chỉ còn lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi. Còn bao nhiêu thì đã đi rồi. Tôi ra bến xe. Nhìn lại quang cảnh vẫn y như cũ. Không có gì thay đổi. Nhưng hôm nay sao thấy buồn quá đổi. Cái gì cũng có vẻ xa vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang bờ hồ, tôi thì thầm:

- Giã từ Bảo Lộc mến yêu! Biết bao giờ mới gặp lại nhau!

Xe khuất dần, tôi cố ngoái đầu lại lần chót. Chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước mắt tôi lại ứa ra.

 

Cuộc Tái Ngộ Không Ngờ:

Năm một ngàn chín trăm bảy mươi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa, với kế hoạch "Bình Định và Xây dựng nông thôn" lấy nông thôn bao vây rừng núi, Việt Cộng bị triệt đường tiếp tế. Cán binh đói, đành lui về thế thủ. Cuộc chiến lắng dịu. Bộ Giáo Dục cùng các bộ khác như Y tế, Công Chánh, Kinh Tế... đồng thanh kêu gào thiếu nhân viên và xin Bộ Quốc Phòng trả lại người cho mình. Phó Tổng thống Trần văn Hương phải can thiệp với chính phủ để trả lại nhân viên cho các Bộ. Nhưng bộ Quốc phòng chỉ đồng ý với điều kiện tạm thời "biệt phái". Hễ quân đội cần là "lôi" đầu trở lại cầm súng. (Vì hai chữ "biệt phái", sau tháng tư, bảy lăm chúng tôi bị đày đi lao cải mút mùa lệ thủy. Có lẽ trong từ điển của Hà Nội hai chữ "biệt phái" định nghĩa là làm mật vụ cho Mỹ chăng? Chúng tôi đều bị khép tội làm C.I.A.).

Sau sự can thiệp, chúng tôi lần lượt trở về nhiệm sở cũ với áo mũ, cân đai. Anh nào bây giờ cũng có trên cổ áo một bông mai vàng thắm. Đi đứng chững chạc kiểu nhà binh, trông oai ra phết. Chúng tôi không ngờ lại có ngày gặp được nhau đông đủ thế này. Từ khắp bốn vùng chiến thuật, hằng ngày đùa với tử thần và súng đạn, chúng tôi vẫn còn nguyên vẹn, không một ai sứt mẻ. Vậy mà năm xưa ra đi, ai cũng khẳng khái ngâm câu:

Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Những cuộc vui lại nối tiếp. Đậm đà hơn xưa. Chỉ thiếu mỗi một Trịnh Công Sơn. Anh Thành cho biết:

- Mấy tuần sau ngày hạn trình diện, Nha Động viên có điện lên Ty hỏi mấy lần về Sơn. Ty có điện trả lời cho Nha là Sơn đã ký nhận lệnh nhập ngũ và chính thức rời nhiệm sở ngày...tháng...Như vậy Sơn đã thật sự trốn lính.

Ông Thống đã về hưu. Ngôi trường Bảo An trên đồi ngày xưa, giờ đây có một giáo viên Thượng tên K’Brí làm trưởng giáo.

Trong Ty Tiểu Học chỉ có một thay đổi nhỏ. Nhỏ mà lớn. Còn lại mọi việc vẫn như cũ. Ông Lợi vẫn Ty trưởng. Ông Lương vẫn thanh tra. Ông vẫn ngồi xếp hồ sơ ngay ngắn, từng tờ, từng tờ cho hết giờ hành chánh. Anh Thành vẫn cùng ông Đạt phát lương. Cô Lan, "người vợ không bao giờ cưới" của Nguyễn Văn Ba, buồn, chịu không nổi với những kỷ niệm tình đầu ngày nào cũng chạm mặt, nên đã xin thuyên chuyển về Sài Gòn.

Cái thay đổi nhỏ mà lớn là chuyện một giáo viên người Thượng, hiệu trưởng trường Cộng Đồng Thượng Bảo Lộc, bỗng chốc nhảy lên chức Phó Tỉnh Trưởng. Số là, để chiêu dụ người Thượng Tây nguyên chống lại bọn FULRO đang quấy phá miền cao nguyên, chính phủ lúc bấy giờ đặt thêm một bộ nữa chuyên trách về vấn đề này gọi là Bộ Sắc Tộc. Mỗi tỉnh thuộc vùng cao phải có thêm một ông Phó tỉnh người Sắc Tộc. Nhưng đào đâu ra người Thượng biết chút ít chữ nghĩa? Nếu không là một trong những giáo viên Thượng? Thế là anh giáo viên K"Breo nghiễm nhiên trở thành nhân vật quan trọng. Ngày xưa, mỗi lần đến Ty để lãnh lương hay tiếp nhận công văn, khúm na, khúm núm. Ông Lợi thì cứ réo:

- Này K"Breo! Vào đây bảo!

Bây giờ thì K"Breo lúc nào cũng áo vest, cà vạt, đi xe Jeep có tài xế lái. Bây giờ mỗi lần K"Breo đến Ty thì ông Lợi phải một điều: - Dạ vâng! Hai điều: - Dạ vâng! Thưa ông Phó phải ạ!

Khi K"Breo vừa ra khỏi cửa Ty, anh Thành rít một hơi dài thuốc lào, móp sâu hai má, ngữa mặt nhả khói lên trần nhà xong, buông một câu gọn lõn:

- Đéo mẹ đời!

Ông Lợi ngồi trong văn phòng cười nhếch mép, tay gõ gõ ống vố vào gạt tàn.

Trịnh Công Sơn và Tình Bè Bạn....

Sau một tuần, anh em lục tục lên đủ mặt.

Bữa tiệc tẩy trần thật tưng bừng. Chúng tôi thầu hết tầng lầu trên của Câu Lạc bộ. Bây giờ thì ăn nói thoải mái, không còn phải e dè mấy tên du đãng tép riu. Sau vài ly máy nóng, chúng tôi tha hồ kể "chuyện nhà binh". Chuyện khói lửa bốn vùng chiến thuật nguội dần. Có anh sực nhớ tới Trịnh công Sơn, hỏi trống không:

- Có ai biết anh chàng Sơn nhà mình bây giờ ở đâu, làm gì không hè?

Hiện đáp:

- Tôi biết. Sơn bây giờ nổi tiếng lắm. Không những trong nước mà cả thế giới cũng biết.

Bạch không tin:

- Thôi cha! Xạo vừa vừa thôi! Thằng chả trốn lính, làm ăn gì được mà nổi tiếng!

Hiện vẫn bằng cái giọng rề rà bỡn cợt, nửa đùa nửa thật:

- Tôi làm việc ở cơ quan ninh quân đội, địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn, nên biết một ít về ông Sơn nhà mình. Đầu tiên ông ta được một tay có cở trong không quân che chở, cấp cho một cái thẻ "Chứng chỉ tại ngũ" chức vụ binh nhì lèo.

Có tiếng lao nhao:

- Ai vậy? Ai vậy? Ông biết không?

- Sao lại không! Đại Tá Lưu Kim Cương chớ ai vào đây nữa! Cảnh sát biết thừa đi chứ. Nhưng không dám đụng vào ổ kiến lửa.

Hiện cười cười, tợp thêm một ngụm bia rồi tiếp:

- Sau tay này tịch. Cụ Sơn nhà mình bèn làm một bản nhạc để tạ ơn người che chở mình. Bản nhạc có tên là "Cho một người nằm xuống".

Tín nhảy vô vòng chiến:

- Ông rề rà bỏ mẹ! Thế thì tôi hỏi ông nhé! Bao nhiêu năm ông già Thống còng lưng dạy thế cho ông ấy, để ông ấy lo việc công danh của mình, ông ấy có làm bản nhạc nào tên là "Cho một người dạy thế" để tạ ơn ông Thống không?

Hiện vẫn đũng đỉnh:

- Ấy! Cái này thì tôi không biết. Nhưng ông Thống chưa tịch thì làm gì có nhạc để tặng? Còn ông Sơn sẽ làm hay không thì có dịp gặp mặt tôi sẽ hỏi lại rồi cho ông biết sau.

Tín thở hắt ra:

- Nói như ông chán bỏ mẹ!

Đạo sốt ruột:

- Sau khi Lưu Kim Cương chết rồi thì ai là cái ô dù của ông Sơn?

- Cái ô dù hãy còn bé lắm. Phải nói là cây đa cổ thụ mới đúng.

Nói tới đây, Hiện dừng lại, thong thả rót bia vào ly mình một cách chậm rãi để bọt khỏi tràn miệng ly rồi nâng ly lên làm mấy tợp, mặc cho bao nhiêu con mắt đang hau háu chờ đợi.

Nghị nóng nảy văng tục:

- Mẹ! Cứ vờ vịt! Ông đấm buồi vào!

Hiện khà một tiếng sảng khoái, đưa tay chùi mép rồi mới tiếp:

- Cây đa cổ thụ là tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đấy.

- À ra thế đấy! Nhiều tiếng xì xào.

Lãng từ đầu đến giờ vẫn ngồi im lặng nhâm nhi ly bia lắng nghe anh em kể chuyện "đường xa xứ lạ" thích lắm vì không được cái "hân hạnh", "Tòng quân giết giặc" để "Dong vó ngựa trên đường chinh chiến", bây giờ mới lên tiếng:

- Moa...moa thì "mo phú" tay nào che chở cho ông Sơn. Việc bắt ông Sơn là việc của mấy ông "cớm". Moa... moa thì moa bực cái ông Sơn nhà mình. Bực lắm cơ. Moa có mua mấy tập nhạc của ông ấy khi mới xuất bản. Tập nào cũng ghi tiểu sử có đủ thứ trên đời mà không thấy tập nào ghi lấy một dòng như "dạy học tại Bảo Lộc từ năm 1964 đến 1967" họặc "Học Sư phạm Qui Nhơn" chẳng hạn.

Moa bực là nghĩ: Chẳng lẽ ông ta có mặc cảm xấu hổ với nghề dạy học chăng?

Võ Đôn Thao cười hề hề, rút cây Paker trong túi áo ra, lấy một tờ giấy lau tay, tính toán một lúc rồi nói:

- Nè! Mấy ông nín hết đi. Nghe tôi công bố một con số kinh khủng về ông Sơn.

Mọi người nghe Thao nói, lấy làm tò mò. Tất cả đều im lặng chờ. Thao hắng giọng:

- Này nhé! Cứ lấy đổ đồng lương ổng là 5.200 đồng một tháng, nhân lên ba năm. Tức là ba mươi sáu tháng. Vị chi là 187.200 đồng. Gạo ba đồng một ký. Ổng đã ăn hết 62.400 ký lô gạo Quốc Gia trong ba năm. Ghê chưa!

Nghị cà khịa:

- Ăn gạo được rồi! Bày đặt văn vẻ thêm hai chữ Quốc Gia sau đuôi! Khéo vẽ!

Thao phản đối:

- Tôi chưa nói hết ý, sao ông lại kê tủ đứng trong họng tôi?

Nghị cười há há:

- Chứ không phải sao?

- Phải làm sao được! Thao cương quyết.

Lãng chen vô can:

- Thì... thì để ông Thao nói hết đã, hẳn hay.

- Ừ, thì nói hết đi xem nào! Nghị đấu dịu.

Bây giờ Thao mới tủm tỉm cười:

- Sỡ dĩ tôi phải nói ăn cơm Quốc Gia là vì ông ấy thờ ma Cộng Sản. Ổng lãnh lương Quốc Gia, dùng thì giờ dạy học để làm nhạc có lợi cho Việt Cộng.

Lãng có vẽ không tán thành quan điểm đó:

- Cái đó thì chưa có gì rõ rệt để kết luận ông Sơn theo Cộng Sản. Nhưng tôi cứ bực ông Sơn. Bao nhiêu năm nhờ ông Lợi khoan dung mà không một lời ơn nghĩa.

Thao vẫn thẳng thừng khẳng định:

- Mấy ông sống ở Sài Gòn làm gì biết Cộng Sản ra sao mà nói! Gia đình tôi nè! Nhiều đời sống ở Phú Yên. Cái đất Phú Yên là cái ổ của Việt Cộng. Các ông đã từng nghe bốn chữ Nam, Ngãi, Bình, Phú chưa? Đó là bốn cái "nôi" của "cách mạng" tức bốn cái ổ của Việt Cộng đó.

Đạo thơ ngây hỏi lại:

- Ông nói bốn chữ Nam, Ngãi, Bình, Phú nó là nghĩa gì vậy?

Thao cười ngất:

- Ông là giáo viên mà không biết bốn chữ đó làm sao dạy địa lý, sử ký cho học trò?

Đạo đỏ mặt ngồi im. Được thể, Thao hăng lên:

- Đó là bốn tỉnh miền trung gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Dân ở đó, phải nói là nhà nào cũng có chồng hoặc con đi tập kết tức là theo Cộng Sản. Trừ một ít ở thành phố mới không. Nên dân tụi tôi rành sáu câu. Anh nào mở miệng ra có mùi Cộng Sản là biết liền.

Tâm mập bây giờ mới lên tiếng:

- Tôi dạy ở trường Chiến tranh Chính trị Đà Lạt cũng có lúc đem vấn đề này ra tranh cãi, chưa ngã ngũ đâu vào đâu. Nhưng các đài phát thanh cứ phát nhạc của họ Trịnh, nhất là đài quân đội mới chết chứ.

Thấy không khí càng lúc càng căng, Bạch chuyển đề tài:

- Thôi! Dẹp ba cái vụ cộng, trừ đó đi. Dô một cái "chăm phần chăm" đi. Nào dô!

Mọi người đồng loạt giơ cao ly: Dô! Dô!

Tiếng cười nói lại xôn xao, náo nhiệt. Sực nhớ ra điều gì, Tín vùng nói lớn giữa tiếng ồn ào:

- Này các cụ! Còn em bé Đỗ thị Nghiên "cúng" cây đàn ghi ta cho ông Sơn ba năm có được xơ múi gì không?

Đạo là người rời Bảo Lộc sau cùng nên biết chuyện này, đáp ngay:

- Em Nghiên trước khi theo chồng về Huế có đến đòi lại cây đàn. Cũng còn may! Nếu không thì ông Sơn cũng đã quên.

Tín quay sang tôi móc lò:

- Còn ông mãnh này! Ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu ba năm trời có được xơ múi gì không?

Tôi thật thà trả lời:

- Có! Hồi đầu tiên Sơn có tặng cho tôi và ông Lợi, mỗi người một bản "Chiều Một Mình Qua Phố".

Tín vặn:

- Bấy nhiêu thôi à! Thế mấy tập Tình ca-Ca khúc da vàng không tặng sao?

- Sơn nói nhà xuất bản cho ít quá nên không đủ tặng.

Hiện tiếp lời:

- Mấy ông đừng trách! Ông Sơn bây giờ bạn đông lắm, đếm không hết. Ông ấy bây giờ đi đâu cũng có một đám bu quanh như nhặng xanh bu c. ngựa vậy.

Anh chàng Sang ngồi im từ đầu đến cuối, bây giờ như cóc mở miệng :

- Mấy cha cứ nói chuyện trên trời, dưới đất. Hồi còn ở đây, ông Sơn đã dự đoán sau hai mươi năm nội chiến, những người còn lại đều là một "lũ bội tình". Thì ông ấy có chút bạc ơn với nghề dạy học và chút bạc nghĩa với những người bạn ở cái xứ Thượng heo hút này cũng là chuyện nhỏ trong cuộc đời vĩ đại của ông ấy mà thôi. Có đáng gì đâu mà nhắc tới !

Câu chuyện nhạt dần, không khí cũng lắng dần. Có lẽ mọi người đã ngấm say. Lần đầu tiên trở lại Bảo Lộc, sau ba năm, tôi thấy anh Lãng không còn đòi về trước để trùm mền và xoa dầu Nhị Thiên đường như xưa. Có lẽ anh đã từ chức "ông Trùm" rồi chăng? Mừng cho anh.

 

Lại Chia Tay:

Cuối niên khóa 1970, chúng tôi đồng loạt nộp đơn lên Bộ Giáo Dục xin thuyên chuyển về nguyên quán. Trừ những anh phải lòng với ngươì đẹp xứ sương mù thì ở lại làm rễ như Nguyễn Văn Chất cưới cô học trò năm xưa của mình, hoa khôi Di Linh. Lâm Văn Rầm làm rễ hiệu trà Bạch Tượng, đối thủ của trà Đổ Hữu, nối nghiệp ướp, sấy, chế biến trà lài, trà sói...

Đầu niên học 1971, chúng tôi đều nhận được lệnh thuyên chuyển theo đơn xin. Đó là nỗi vui mừng chung cho chúng tôi, nhưng cũng là nỗi buồn riêng cho ông Ty Trưởng Lợi và bác Trạch, Hiệu trưởng trường Nam Bảo Lộc. Hai ông buồn vì mất một lúc cả đám chúng tôi. Một đám trẻ năng động, vui nhộn mà hai ông đã có một thời gian dài gắn bó như anh em, cha con trong một gia đình. Hai ông sẽ không còn thời gian nữa để làm "một cuộc tình mới". Tóc hai ông đã bạc nhiều lắm rồi.

Ngày chia tay, cũng lại một bữa linh đình. Lần này không phải hát "Những ngày xưa thân ái" mà là những cái xiết tay rất chặt, rất lâu.

Những ánh mắt long lanh, những nụ cười rạng rỡ, những lời hứa hẹn thắm thiết sẽ gặp lại nhau tại Sài Gòn, Nha Trang, Long An và tận Phú Yên xa tít mù của Võ Đôn Thao.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Chuyện làng văn0

- Kho sách0

- Về nhạc sĩ Trịnh Công Sơnl

- Các bài viết về khoa Tử Vi0

- Các bài viết về khoa Tướng thuật0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Mạnh Hảo0

- Các bài viết của (về) tác giả Nguyễn Hoàng Đức0

 

Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ PHÍA KHÔNG EM:

*.

NGUYỄN THANH TY

Địa chỉ: 69 Edwin St.N. Quincy, MA.02171. USA

Điện thoại: (617) 328- 9833

 

 

 

 

 

..........................................................................................................

- Cập nhật từ email: phudoan56@gmail.com ngày 31.08.2022

- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. 

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét