Về
TRỊNH CÔNG SƠN
*
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Tác
giả: Lã Xưa
TRỊNH CÔNG SƠN TỪNG
CƯỚI VỢ NĂM 26 TUỔI
Dường
như mỗi người đàn bà đi qua cuộc đời cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đều để
lại một bài hát.
Một
loạt bóng hồng từng xuất hiện trong lời ca như Diễm (Diễm Xưa), Nguyệt (Nguyệt
Ca) hay Quỳnh (Quỳnh Hương)… và người ta cho rằng cả đời Trịnh Công Sơn không
hề lấy vợ. Nhưng theo tiết lộ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì Trịnh Công Sơn
không hề độc thân cả đời, mà ông đã từng lấy vợ.
Đồn thổi những bóng hồng
trong nhạc Trịnh
Dường
như có nhiều người tình ngang qua âm nhạc Trịnh Công Sơn. Mỗi người đàn bà đi
qua cuộc đời cố nhạc sĩ tài hoa đều để lại một bài hát cho cuộc đời âm nhạc của
nhạc sĩ đa sầu, đa cảm và đa tài Trịnh Công Sơn.
Người
tình của ông có khi là Diễm (bài hát Diễm Xưa): “Chiều nay còn mưa sao em không lại”; có khi tên là Nguyệt (bài
Nguyệt Ca): “Từ khi trăng là Nguyệt, đèn
thắp sáng trong tôi/ Từ khi em là Nguyệt cho tôi bóng mát thật là/ Từ khi em
thôi là Nguyệt, coi như phút đó tình cờ”. Có khi bóng hồng đó lại tên là
Quỳnh (bài hát Quỳnh Hương): “Ta mang cho
em một đóa Quỳnh/ Quỳnh thơm hay môi em thơm”; khi thì lại tên là Tường Vi:
“Một đêm bước chân về ngõ nhỏ/ chợt nhớ
đóa hoa Tường Vi”.
Những
bóng hồng ấy hiện lên trong thơ nhạc Trịnh thật đẹp, thật buồn để rồi một lần
nhạc sĩ từng thốt lên một cách bồi hồi, xao xuyến đến nao lòng: “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông
nhỏ/ Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa”.
Tên
tuổi của cố nhạc sĩ từng một thời gian gắn liền với nữ ca sĩ có giọng hát liêu
trai Khánh Ly. Những ai đã từng nghe Sơn Ca 7 hẳn sẽ không bao giờ quên và buộc
phải nghĩ rằng, nếu không có một tình yêu thật nồng cháy giữa nhạc sĩ và ca sĩ
thì không thể có một sự kết hợp tuyệt vời đến thế. Nhưng giữa họ có một tình
yêu ngoài cuộc đời hay không thì không ai dám khẳng định.
Có
lần nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo hỏi Trịnh Công Sơn về điều này thì ông chỉ cười và
hát “Áo xưa dù nhầu, cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau”.
Còn
Khánh Ly thì 13 năm sau khi ra nước ngoài đã phát biểu trên một tờ báo ở
Mỹ (1988) rằng: “Tôi yêu Huế bởi từ Huế
tôi mới biết thế nào là tình yêu. Tôi không muốn nhắc đến những điều đã được
viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi chỉ muốn viết về Huế của riêng tôi và như
vậy cũng có nghĩa là mở ra cánh cửa của kỷ niệm, của những hân hoan đau đớn,
những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh tôi suốt 13 năm qua.
Mười ba năm trước đã không thành, không nói
thì bây giờ lẽ ra càng không nên nói. Bởi dù có thêm 100 năm nữa “hai mái đầu
xanh giờ đã bạc” cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng nữa thì cũng
là kiếp sau. Nhưng “tình đã tưởng yên mà tâm còn động vọng”. Thì ra 13 năm với
tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa thoát ra được. Không thoát ra được. Không muốn
thoát ra.
Còn cố gắng bao che, tự lừa dối mình cũng chỉ
là một cơn mộng. Đêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy tóc vẫn xanh với lời
dặn xưa: Qua đèo Hải Vân nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em!”.
Sau
này có một số ca sĩ chọn nhạc Trịnh Công Sơn cho giọng hát của mình như Hồng
Nhung, Thùy Dung... Và như cố nhạc sĩ tài hoa thường nói, những giọng hát mới
ấy đã làm cho âm nhạc của ông trẻ lại.
Lễ cưới “bí mật” sau Nhà
hát Sài Gòn
Báo
giới đã tốn không ít giấy mực để bàn về cuộc đời độc thân với vô số bóng hồng
đi qua đời nghệ sĩ tài danh. Có người cho ông là người lập dị, có người cho đó
là sự cống hiến trọn đời cho nghệ thuật. Nhưng sự thật, có rất ít người biết
được rằng Trịnh Công Sơn từng cưới vợ từ năm ông 26 tuổi. Đó là một câu chuyện
lạ có thật.
Nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo từng hỏi thẳng Trịnh Công Sơn khi ông còn sống về chuyện
này và Trịnh Công Sơn thú nhận rằng, lễ cưới của ông từng được tổ chức tại một
nhà hàng sang trọng phía sau Nhà hát lớn Sài gòn cuối năm 1964. Cô dâu chính là
người đẹp Thanh Thúy.
Thanh
Thúy là một vũ nữ gốc Hoa đẹp nổi tiếng thời bấy giờ, người ta thường gọi cô là
Thanh Thúy Tàu hoặc Hoa Cưng. Cô làm vũ nữ ở nhà hàng Catinat nơi Trịnh Công
Sơn thường lui tới và tình yêu đã nảy nở giữa hai người.
Đám
cưới diễn ra rất đơn giản, ngoài cô dâu, chú rể chỉ có hai người bạn thân thiết
của ông là họa sĩ Trịnh Cung và họa sĩ Đinh Cường.
Nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng từng kể lại với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo rằng,
trong một cuộc trò chuyện với Trịnh Cung về những người yêu “toàn nói giọng
bắc” của Trịnh Công Sơn, anh mới biết chuyện này. Hai người liền đến Quán Trịnh
tìm Sơn để hồi ức về lễ cưới kỳ lạ đó.
Đấy
là một buổi tối đẹp trời, tiệc cưới được bày trên một cái bàn ngoài ở ngoài sân
cỏ. Trên bàn thắp nến. Người đẹp Thanh Thúy mặc áo đầm trắng nhảy tung tăng
trên thềm. Trịnh Công Sơn rất vui, nói với Trịnh Cung và Đinh Cường: “Nhí nhảnh như một con chim”. Tiệc đến
nửa chừng thì nến tắt. Hai người bạn nhắm mắt lại để Trịnh Công Sơn đeo nhẫn
cho cô dâu. Đó là chiếc nhẫn mà Trịnh Cung và Đinh Cường góp tiền mua chung để
mừng lễ cưới của bạn.
“Một giọt nước nóng bỏng rơi xuống lưng bàn
tay làm Sơn suýt co tay lại. Đấy chính là giọt lệ của Thanh Thúy”, Trịnh
Công Sơn hồi tưởng lại với bạn và anh nói rằng: “Sơn không bao giờ quên giọt
nước mắt hạnh phúc của người đẹp rơi xuống đám cưới của đời mình”.
Đêm
hôm đó, Trịnh Cung và Đinh Cường đưa cô dâu, chú rể về phòng tân hôn là phòng
riêng của Thanh Thúy. Đến cửa phòng thì hai anh quay về.
Nhưng
đi được một quãng khá xa thì họ chợt nghe tiếng giầy lóc cóc đuổi theo sau
lưng. Hai người ngoảnh lại nhìn, hóa ra người đuổi theo chính là chú rể Trịnh
Công Sơn! Sơn vừa thở hổn hển vừa thanh minh: “Bỗng dưng ở lại một mình với một người đàn bà trước mặt, mình hoảng
quá, không biết làm gì, đành bỏ chạy cho khỏe!”. Năm ấy Trịnh Công Sơn bước
vào tuổi 26.
Giờ
đây người nhạc sĩ tài hoa đã vĩnh viễn dừng lại ở tuổi 63. Người ta còn viết
nhiều về anh, về những “bí mật” của anh, cũng như người ta còn hát mãi hàng
trăm ca khúc tuyệt vời của anh.
Phải
chăng, những cuộc tình như những vết thương đã làm nên tình sử Trịnh Công Sơn,
khiến cho âm nhạc của anh sâu sắc và độc đáo khi ngợi ca tình yêu và phận
người: “Lòng tôi có đôi lần khép cửa/ Rồi
bên vết thương tôi qùi/ Vì em đã mang lời khấn nhỏ/ Bỏ tôi đứng bên đời kia...”.
(Ghi theo lời kể của Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo)
Tác
giả: Dũ Cát
VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ MÀ
TRỊNH CÔNG SƠN YÊU
NHẤT
Bước
qua ngưỡng tuổi 70, Khánh Ly tự nhận mình đã già lắm rồi và mường tượng ra viễn
cảnh một ngày nào đó sẽ còn già hơn nữa. Cũng bởi “thấy giờ ai cũng già rồi,
người thì đã đi khỏi cuộc sống này, người thì sắp sửa đi” nên Khánh Ly quyết
định nói ra nhiều điều về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mà bấy lâu nay bà vẫn giữ ở
trong lòng để mọi người hiểu và yêu thêm người như ông.
Lý do Khánh Ly và Trịnh
Công Sơn không yêu nhau
Khánh
Ly bảo suốt bao nhiêu năm qua, đi đâu bà cũng nhận được một câu hỏi quen thuộc,
đó là tình cảm giữa bà và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn liệu có phải là tình yêu. Đáp
lại, nữ danh ca quả quyết “thường nếu tin thì người ta không hỏi, mà hỏi nghĩa
là không tin” nhưng dù thế nào thì việc được vị nhạc sĩ tài ba này yêu hay yêu
được ông cũng là diễm phúc.
Khổ
nỗi, nói như lời Khánh Ly thì trái tim có lý lẽ riêng của nó và bà tin rằng yêu
một người như Trịnh Công Sơn là tự chuốc khổ vào mình bởi ông quá nổi tiếng, mà
phàm đã là người nổi tiếng thì làm sao của riêng ai được. Thế nên ai mà khôn
ngoan và biết tính toán thì sẽ không yêu ông.
Về
phần mình, Khánh Ly tự thấy không “đọ” nổi với các cô gái xung quanh Trịnh Công
Sơn bởi họ đều quá đẹp, quá trẻ, quá tài năng, trong khi bà chẳng có gì. Có
điều, không yêu được vị nhạc sĩ họ Trịnh mà chỉ đi bên cạnh và đi dưới “bóng
mát” cuộc đời ông, với bà lại là một may mắn. “Ông ấy là bóng mát che cho tôi, nên tôi thấy mình còn sung sướng hơn
những người được ông ấy nói tiếng: Anh yêu em” – Khánh Ly bộc bạch.
Khi
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời, có không ít người quen tự nhận là người yêu của
ông, trừ Khánh Ly. Khánh Ly bảo bà cũng có thể nói như vậy mà không ai thắc mắc
nhưng không vì “như thế là nhận vơ, là
ngộ nhận, xấu hổ lắm”.
Nữ
danh ca hài hước nói vui bà mà yêu Trịnh Công Sơn thì đã yêu ngay từ lúc đầu
tiên hai người gặp nhau chứ không để tới mấy chục năm sau gặp lại mới yêu vì
tình yêu mà chậm như thế thì… “ăn” cái gì. Vả lại, bà vẫn tin nếu có điều gì đó
xảy ra giữa hai người thì chắc chắn không giữ được tình cảm trân trọng dành cho
nhau mà nhìn nhau ê chề lắm.
Thành
ra, mặc cho ai còn băn khoăn về tình cảm giữa Khánh Ly – Trịnh Công Sơn, bà vẫn
kiên định với suy nghĩ yêu cũng được, không yêu cũng được, điều đó nhiều khi
không quan trọng bởi: “Nếu người đó ở
trong trái tim của mình, không đi đâu cả thì dẫu người đó không ôm mình ở trong
tay đi chăng nữa thì mình vẫn là của người đó và người đó vẫn là của mình”.
Về
phía nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Khánh Ly quả quyết ông không bao giờ yêu bà, mà
nếu yêu được cũng không yêu. Lý do là bởi Trịnh Công Sơn có nguyên tắc là tuyệt
đối không bao giờ yêu người phụ nữ đã có gia đình. Trong khi thời điểm hai người
gặp nhau, Khánh Ly đang có chồng con. Tự bản thân Khánh Ly nhận thấy khi ấy, bà
ít nhiều gì cũng yêu người chồng của mình, cũng chưa biết gì về vị nhạc sĩ họ
Trịnh này để manh nha ý định hy sinh gia đình vì ông. Vì thế tình cảm đôi bên
chỉ đơn thuần là sự đồng điệu và trân quý.
Người phụ nữ mà nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn yêu nhất
Nhắc
đến chuyện tình yêu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Khánh Ly bảo nếu quả thực vị
nhạc sĩ này có yêu một ai đó hay có ai đó yêu ông thì đó là điều đáng mừng. Bởi
lẽ cứ bắt ông phải sống một mình vì mọi người, trong khi ai cũng có đôi có cặp
thì tội lắm. Dù tới giờ chẳng ai biết rõ đã có bao nhiêu người phụ nữ đi ngang
qua cuộc đời của vị nhạc sĩ tài ba này nhưng Khánh Ly tiết lộ thật ra người phụ
nữ mà Trịnh Công Sơn yêu nhất chính là mẹ của ông. “Đó là tình yêu lớn nhất của ông ấy” – Khánh Ly quả quyết.
Cũng
theo lời kể của Khánh Ly thì ngoài mẹ ra, đặc điểm chung của những cô gái khiến
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rung động là có mái tóc dài, có đôi vai gầy guộc nhỏ. Đó
cũng là lý do ông từng giận Khánh Ly chỉ vì thấy mái tóc ngắn mà bà vừa cắt.
Nhớ
lại, Khánh Ly bảo lần đó bà cãi nhau với chồng nên đi cắt phăng mái tóc dài,
sau đó hẹn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đi cà phê trò chuyện cho khuây khỏa. Vừa nhìn
thấy bà ở đằng xa, vị nhạc sĩ họ Trịnh đã quay lưng đi. Sau khi đuổi theo để
hỏi cho ra nhẽ thái độ lạnh nhạt này thì Khánh Ly nhận được câu trả lời ngụ ý
trách móc chuyện bà cắt tóc: “Anh không
muốn gặp người điên”.
Từ
bấy trở đi, Khánh Ly mới biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất thích con gái để tóc
dài. Ông từng kể với bà về cảm hứng sáng tác ca khúc “Như cánh vạc bay” là khi ông đi chơi với một cô người yêu ở Cam
Ly. Đi qua con suối nhỏ, trên là nắng vàng ruộm, dưới là nước long lanh, cô gái
khẽ vén gấu quần dài lên, nhón chân đi rất điệu. Lần đó trở về, ông viết bài
hát này.
Điềm gở trước khi nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn qua đời
Khánh
Ly thổ lộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người rất hiền lành và không biết giận hờn
ai bao giờ. Nói đúng hơn, người nào để ông giận, tức là ông quý lắm, nhưng ông
cũng chẳng giận được lâu vì không thể sống thiếu bạn bè.
Nhẩm
tính lại, Khánh Ly bảo suốt mấy chục năm quen nhau, bà và vị nhạc sĩ họ Trịnh
chưa bao giờ giận nhau dù có thể lúc nào đó bà làm việc gì khiến ông cảm thấy
không hài lòng và ngược lại, nhưng cả hai đều không bao giờ nói ra. Tuy
nhiên cách đây 17 năm, khi Khánh Ly về nước và ghé qua nhà nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn chơi, trong lúc anh em đàn hát cho nhau nghe, bà buột miệng nói vui: “Ai anh Sơn cũng vẽ hết, chỉ có em là anh Sơn
chưa vẽ bức nào cho”.
Nghe
thế, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bỗng dưng nổi giận đùng đùng và quát: “Đứa mô cũng vậy” (ý chỉ mấy đứa em của
ông cũng hay đòi ông vẽ như thế). Bất chợt bị quát nạt, bà khựng lại không biết
nói gì, nhìn ông với ánh mắt đầy ngạc nhiên rồi lẳng lặng bỏ về trong tâm trạng
vừa buồn vừa giận.
Cả
đêm hôm đó, bà không ngủ, sáng sớm hôm sau thì điện thoại cho người cháu đi
uống cà phê dù trong lòng rất sốt ruột muốn đến hỏi thăm ông. Giữa lúc tâm
trạng rối bời thì bà nhận được điện thoại của ông hỏi đang ở đâu và gọi tới và
cả hai lại chuyện trò vui vẻ như chưa có chuyện gì xảy ra.
Sau
lần đó, trở về Mỹ, nghĩ lại thái độ lạ lùng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, bà có
linh tính chẳng lành. Nhớ lại lời mọi người vẫn bảo rằng người sắp “đi” thì
tính tình thay đổi, bà thấy nóng ruột vì sợ lần giận dữ của ông với bà có khi
là điềm gở. Và rồi không lâu sau đó, ông đột ngột qua đời.
Cho
tới giờ, Khánh Ly vẫn giữ mãi nỗi ân hận và tự trách mình sao không nhận ra sự
thay đổi đó ở ông cũng có nghĩa là người này sắp bỏ mình đi để làm cho ông
những điều tử tế và đẹp đẽ, có khi chỉ là mời ông ăn một cốc chè hay gọt cho
ông một đĩa trái cây – những điều mà bà chưa từng làm cho người anh nhạc sĩ
đáng kính này.
Trong
dòng hồi ức về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Khánh Ly kể khi còn trẻ, từng có lần ông
suýt nữa bỏ mạng vì bà. Đó là vào quãng thời gian năm 1972, khi bà hẹn ông tới
một phòng trà ở thành phố Hồ Chí Minh để nghe nhạc. Tối hôm đó, ông chưa tới
thì bất ngờ phòng trà này bị nổ, chỗ gác lửng mà bà hẹn ông bị sập xuống khiến
nhiều người thiệt mạng. “Cũng may lần đó,
ông Sơn chưa kịp tới, nếu không thì tôi ân hận biết bao nhiêu” – Khánh Ly
ngậm ngùi nhớ lại.
Dạo
gần đây, lần nào trở về Việt Nam, Khánh Ly cũng rong ruổi với những chuyến từ
thiện đến với nhiều vùng miền khác nhau, từ các tu viện đến những ngôi chùa,
đến với người bị bệnh phong cùi đến các em nhỏ bị nhiễm HIV/AIDS. Khánh Ly bảo
ước mong duy nhất của bà lúc này là được hát, được làm thật nhiều việc thiện
nguyện để nối dài vòng tay nhân ái đến với mọi người. Vì vậy, bà quyết định dành
những năm cuối đời để làm việc thiện. Đây cũng đồng thời là ý nguyện khi còn
sống của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Bởi lẽ chính từ những tháng ngày tuổi trẻ rong ruổi cùng ông ca hát khắp nơi, Khánh Ly nhận ra ở người nhạc sĩ này một điều thật vĩ đại, vĩ đại hơn cả những tác phẩm mà ông sáng tác, đó là nhân cách và nhân phẩm. Và vì chẳng bao giờ bà quên được lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dặn mình là phải ráng sống với một tấm lòng, sống với mọi người bằng sự tử tế và làm những điều gì tốt đẹp nhất cho quê hương.
Tác giả: Văn
Thao
TRỊNH CÔNG SƠN VÀ
VĂN CAO
Văn
Cao, Trịnh Công Sơn, hai nhạc sĩ, hai thế hệ. Nhạc sĩ Văn Cao sinh năm 1923,
còn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh năm 1939. Hơn Trịnh Công Sơn 16 tuổi, Văn Cao
coi Sơn như một người bạn vong niên, bạn nghề, bạn rượu, bạn đời. Họ thương
nhau, họ yêu nhau và kính trọng nhau.
Tôi
nhớ lần đầu tiên hai người gặp nhau. Vào khoảng đầu năm 1980, tôi từ Trường Đại
học Mỹ thuật công nghiệp về thăm ông. Hai cha con đang ngồi tâm sự với nhau thì
thấy nhạc sĩ Hồng Đăng cùng nhạc sĩ Trần Tiến mở cửa vào, đằng sau là một thanh
niên đội chiếc mũ vải mềm, một chiếc kính trắng gọng đồi mồi to ngự trên khuôn
mặt bé nhỏ. Dáng vóc gầy gò khép nép, chàng trai chắp tay cúi gập người chào
cha tôi với chất giọng Huế nhỏ nhẹ: "Dạ!
Con chào chú". Nhạc sĩ Hồng Đăng vội giới thiệu: "Thưa anh Văn. Đây là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
ở trong Nam ra. Sơn rất ngưỡng mộ anh, bọn em đưa Sơn đến thăm anh".
Cha
tôi chăm chú nhìn Trịnh Công Sơn giây lát rồi nhổm người lên bắt tay: "Trịnh Công Sơn đây hả? Tớ gặp cậu rồi...”.
Thấy mọi người có vẻ ngạc nhiên, cha tôi cười nói: “Gặp qua tác phẩm! Tớ đã nghe nhạc của cậu từ lâu, từ ngày đất nước còn
chưa thống nhất". Trầm ngâm giây lát, ông nói: "Một lần có mấy anh bạn trẻ rủ mình đến nhà
uống rượu, vui lên, họ hát cho mình nghe những ca khúc của Sơn mà họ học được
qua những buổi phát thanh của đài Sài Gòn. Họ hát say sưa, hát thâu đêm. Âm
nhạc và lời ca của Sơn đi vào lòng mọi người như thế đấy".
Trịnh
Công Sơn gỡ kính ra, lấy mùi xoa thấm mắt, rồi chắp tay cúi đầu: "Dạ! Con cám ơn chú".
-
Mình là thế hệ trước, cậu là thế hệ sau. Chúng ta cùng nghề không phân biệt
tuổi tác làm gì, từ giờ hãy gọi nhau là anh em cho thân mật.
Trịnh
Công Sơn cảm động chắp tay: "Dạ!
Dạ!... Cháu... à... em, em cám ơn anh".
Buổi
gặp gỡ giữa cha tôi với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng nhạc sĩ Hồng Đăng,
nhạc sĩ Trần Tiến ngày hôm đó diễn ra vui vẻ và ấm áp. Họ nói với nhau nhiều
chuyện, bàn luận sôi nổi về nghệ thuật. Không còn khái niệm của tuổi tác. Tôi
cảm nhận được cha tôi và Trịnh Công Sơn đã trở thành đôi bạn tri kỷ theo đúng
nghĩa của nó. Tôi ngồi nhìn mọi người nói, chỉ biết nghe và nghe.
Từ
đấy, hằng năm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đều ra Hà Nội thăm nhạc sĩ Văn Cao. Không
những thế, Trịnh Công Sơn còn đưa những người bạn của mình là các nhạc sĩ Tự
Huy, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Hiên, Tôn Thất Lập... đến với Văn Cao. Ngôi nhà
108 Yết Kiêu trở thành nơi tụ hội của anh em nhạc sĩ trẻ miền Nam. Mỗi lần ra
Hà Nội, Trịnh Công Sơn thường thuê những khách sạn ở gần nhà Văn Cao để bất cứ
lúc nào rỗi là có thể đi bộ đến thăm và uống rượu cùng ông. Với Trịnh Công Sơn,
Văn Cao bao giờ cũng dành những loại rượu đặc biệt và ngon nhất để uống cùng.
Nhạc sĩ Văn Cao có một loại rượu "quốc lủi" nút lá chuối trong vắt
được nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng, mỗi khi rót ra tăm nổi lên như mắt cua đóng
vòng quanh chén như một chiếc đai ngọc. Trịnh Công Sơn rất mê loại rượu này,
ông gọi nó là "Rượu Văn Cao".
Sau
khi cha tôi mất, mỗi lần có dịp đi Sài Gòn, tôi đều mang "Rượu Văn
Cao" vào biếu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông trân trọng đặt lên ban thờ thắp
hương cẩn thận xong rồi mới gọi bạn bè đến uống. Ông ôm lấy tôi: "Mình nhớ anh Văn quá, Thao ơi...".
Cả
nhà tôi đều yêu quý Trịnh Công Sơn, coi anh như một thành viên trong gia đình.
Một
ngày thu năm 1985, cửa nhà tôi bật mở. Trịnh Công Sơn ôm cây đàn guitar bước
vào, reo lên: "Anh Văn! Em vừa sáng
tác xong một bài hát về mùa thu Hà Nội. Vội sang đây đàn và hát cho anh nghe
thử". Nói xong, Trịnh Công Sơn vừa đàn vừa hát:
“Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng
lá đỏ/ Nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu/ Hà Nội mùa thu, mùa
thu Hà Nội/ Mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió/ Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay
nhỏ/ Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua/ Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay,
bờ xa mời gọi/ Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời...”.
Trịnh
Công Sơn hát. Hát một cách say sưa. Chiếc kính rơi ra khỏi mắt, hai bàn tay gầy
guộc lướt trên dây đàn...
“Hà Nội mùa thu đi giữa mọi người/ lòng như
thầm hỏi, tôi đang nhớ ai/ Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi/ Sẽ
có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi...”.
Cho
đến lúc ấy, chén rượu vẫn lửng lơ trên tay cha tôi. Ông lặng đi nghe Trịnh Công
Sơn hát. Nghe tới đây, chợt ông bừng tỉnh, đưa mắt nhìn Trịnh Công Sơn. Hình
như ông định nói điều gì đó thì bất chợt giọng hát của Sơn lại khe khẽ vang lên
“Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội/ Nhớ đến một
người... để nhớ mọi người”.
Tiếng
đàn rung lên run rẩy trôi vào hư vô. Trịnh Công Sơn từ từ buông tay khỏi hộp
đàn. Ông nhặt kính lên đeo trở lại, rồi nhìn cha tôi "lòng như thầm hỏi"...
Cha
tôi lặng lẽ nhấp một ngụm rượu rồi nhìn Sơn: "Bài hát của Sơn viết về mùa thu Hà Nội hay quá, mình nghĩ câu kết ở câu
"Sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi" là được rồi, sao
lại còn thêm mấy câu vĩ thanh vào làm gì?”.
Trịnh
Công Sơn cười: "Đúng là em đã định
kết ở đó rồi nhưng lại nhớ đến anh nên em đã làm thêm câu vĩ thanh "Hà Nội
mùa thu, mùa thu Hà Nội, nhớ đến một người... để nhớ mọi người". Câu
"Nhớ đến một người" là nhớ đến anh đã... Anh thấy có được không?”
Cha
tôi nhìn Sơn cười: "Thế thì được!".
Bài
hát “Nhớ mùa thu Hà Nội” của
Trịnh Công Sơn sáng tác năm đó chưa được trình diễn. Sau này, khi Trịnh Công
Sơn xuất bản tập nhạc “Em còn nhớ hay
em đã quên”, nhạc sĩ Văn Cao đã viết lời bạt cho Sơn: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca
(Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là
chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng
của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau
của Tổ quốc mẹ hiền... Trong âm nhạc của Sơn ta không thấy dấu vết của âm nhạc
cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc tự
nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh
Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh
Công Sơn có lẽ chính là ở chỗ đó, ở chỗ không định ra một trường phái nào, một
triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp
và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của
dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim
không chỉ ở trong nước mà cả ở ngoài biên giới nữa...".
Ngày
lễ tang của cha tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bay ra Hà Nội từ hôm trước. Xuống
sân bay, ông đến thẳng nhà tôi. Ông chạy lên cầu thang ôm lấy mẹ tôi khóc tức
tưởi...
Nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn đã viết về nhạc sĩ Văn Cao như sau: "Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một
ông hoàng,
Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước
mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi.
Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên
bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và
chìm trong thân phận riêng tư.
Quanh anh Văn là tranh. Là thơ. Là nhạc.
Vốn liếng cạnh tôi cũng là tranh, là thơ, là
nhạc.
Anh và tôi đi trên cùng một con đường. Nhưng,
anh là anh mà tôi vẫn là tôi. Cái lớn vô cùng và cái nhỏ cũng vô cùng...
Anh đã từng nhiều năm nặng nợ với âm nhạc, thi
ca, hội họa. điều ấy có thật nhưng nhiều khi tôi vẫn băn khoăn và tự hỏi: Anh
là ai mà lưu lạc giữa chốn Thiên Thai này?”.
Tác giả: Ngô
Nhật Đăng
TÔI VÀ TRỊNH
Cuối
tháng 5 năm 75, cha tôi từ Sài Gòn về Hà Nội, ông mang theo một cái máy
cassette chạy bằng pin (mua ở chợ) và mấy cuộn băng “Da vàng” và “Trường
Sơn số 6”, ông nói với tôi: “Mấy
cuộn băng là do một sỹ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa tặng bố, ông ấy nói:
‘Chúng tôi buông súng không phải là vì đánh dở mà là vì những thứ này”. Ông
cũng kể có gặp nhạc sỹ Trịnh Công Sơn ở Sài Gòn và đến phòng trà Khánh Ly. Năm
sau nhạc sỹ họ Trịnh ra Hà Nội, có đến thăm bố tôi, đó là lần đầu tiên tôi nhìn
thấy ông và cũng là lần duy nhất.
Tôi
đang học ôn để chuẩn bị thi đại học, buông sách vở xuống là ôm lấy cái máy
cassette và nghe Trịnh Công Sơn, nghe đến nhão cả băng :
“Anh nằm xuống
Sau một lần
Đã đến đây
đã vui chơi trong cuộc đời này
đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống
Không bạn bè
Không có ai....”
Thỉnh
thoảng, chúng tôi học nhóm ở nhà một cô bạn, cái biệt thự 2 tầng trong con phố
yên tĩnh không quá hiếm ở Hà Nội ngày ấy. Bố mẹ cô đi công tác ở nước ngoài
mang theo 2 đứa em còn nhỏ, cô bạn ở nhà với bà nội, một bà giáo già về hưu, bà
làm thêm việc phơi táo tàu và long nhãn giao cho mấy nhà bán thuốc bắc phố Lãn
Ông. Mỗi khi giải lao, thằng Huy “lắc đầu” lại bảo tôi: “‘Anh nằm xuống’ đi mày”, tôi ôm guitare và hát:
“Anh nằm xuống
cho hận thù
vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
Rồi từ đó
trong trời rộng đã vắng anh
Như cánh chim bỏ rừng, như trái tim bỏ tình
Nơi đây một lần nhìn anh đến
những xót xa đành nói cùng hư không...”
Cả
bọn ngồi lặng, bà giáo già thì thở dài.
Lứa
chúng tôi thích nhạc Trịnh bởi một lẽ, chiến tranh nếu kéo dài 1 năm nữa, thậm
chí vài tháng là chúng tôi đủ tuổi vào lính, ngay hồi tháng 3 mấy thằng học đúp
cũng đã phải lên đường và cái tương lai “Anh
nằm xuống...không bạn bè, không có ai...” chẳng xa xôi gì. Và thêm một tò
mò, tại sao miền Nam lại để cho một người như Trịnh Công Sơn được tự do, tự do
sáng tác và tự do đi hát khắp nơi, một điều không thể có ở miền Bắc, bài học
Nhân văn Giai phẩm và “xét lại” vẫn còn nóng hổi. Người ta bị đi tù bởi những
điều còn “nhẹ nhàng” hơn nhiều.
Mấy
năm sau, tôi đi lính còn thằng Huy “lắc đầu” đi...Đức, trên chốt tôi vẫn hát
Trịnh Công Sơn: “Gió heo may lại về,
chiều tím loang vỉa hè...” và nhớ Hà Nội da diết, thằng Huy viết thư
cho tôi: “Tao bỏ nhạc Trịnh rồi, mấy
thằng Tây bảo: ‘Mày đã xa nhà mà lại nghe thứ nhạc này thì làm sao sống nổi?’”.
Ngoài
Bắc, nhiều người mê nhạc Trịnh lắm, tôi quen một nhà văn, ông rất ghét ai nói
“nhạc Trịnh”, với ông là phải đầy đủ “nhạc Trịnh Công Sơn”, hay một nhạc sỹ,
mỗi lần nhắc đến là: Anh Sơn... thế này, anh Sơn thế kia... Bố tôi cũng thích
nhạc Trịnh, có lần ông bảo tôi: “Với bố,
tất cả các nhạc sỹ trong Nam ngoài Bắc, Trịnh Công Sơn cao hơn hẳn một đầu”.
Nhưng rồi một hôm, khi đi uống cafe với một người bạn của bố tôi, chú ấy nói: “Bố cháu tuyệt giao với Trịnh Công Sơn rồi”.
Ông kể, một buổi mấy anh em văn nghệ đang ngồi uống bia với nhau thì một ông
quan lớn cách mạng đi tới, Trịnh Công Sơn đứng bật dậy chạy đến ôm ông ta “Bố
mày tái mặt đứng dậy đi về luôn”- Ông nói. Quả là tôi không thấy cha tôi nghe
nhạc Trịnh nữa, nhưng một hôm tôi thấy ông nghêu ngao: “Nhân dân cho tiền để uống bia ôm - Ta đi bia ôm cho đời trẻ lại - Ai
không bia ôm vô cùng khờ dại - Kệ bố nhân dân dù đói hay nghèo”. Một người
tôi quen kể: “Anh Sơn ốm, cô vào bệnh
viện thăm, hát bài ‘nhân dân cho tiền...’ và bảo: “Ông Xuân Sách chế lời bài hát của anh như vậy. Anh Sơn chỉ
cười ‘Hay hè”.
Tôi
không cực đoan đến thế, tuy nhỏ nhưng chúng tôi cũng biết quan sát và nhận xét,
những văn nghệ sỹ ở miền Bắc đông đến vậy mà có mấy người giữ được khí tiết như
Hữu Loan? Chúng tôi đôi khi cũng bàn vụng về cha ông mình sau lưng, có lần sư
tỷ tôi nói: “Chị nghĩ vừa thương vừa giận
các cụ, ngày trẻ ngang tàng không biết sợ cái gì, thế mà....”. Cũng
chẳng lạ, trong quá trình tiến hóa về tư tưởng, tự nhiên nảy nòi ra chủ nghĩa
cộng sản, người cộng sản có muôn vàn thủ đoạn, trăm ngàn mưu kế và cạm bẫy để
hạ thấp nhân phẩm và bẻ gãy khí tiết người khác nên anh hùng thời này cực kỳ
hiếm. Trịnh Công Sơn cũng chẳng nên lạ, khác đi mới lạ.
Rồi
tôi tự nhiên cũng chán nghe nhạc Trịnh, nói ra thì buồn cười, tôi không nghe
nổi nhạc Trịnh Công Sơn do bất kỳ ai hát ngoài Khánh Ly cho đến lần bà về Việt
Nam, con gái tôi không hiểu bằng cách nào kiếm được cặp vé, nó bảo: “Bố đi nghe thần tượng của mình đi” - Tôi
từ chối làm nó ngạc nhiên. Với tôi, ai quay về Việt Nam cũng được, Phạm Duy
cũng được, Du Tử Lê cũng được (tôi có gặp cả hai người) nhưng Khánh Ly thì
đừng, bà đừng nên bao giờ quay về - “Của
tin gọi một chút này làm ghi” - Kiều.
Nên
tôi không xem và cũng không muốn xem bộ phim làm về Trịnh Công Sơn, cũng không
muốn tham gia vào việc sỉ vả ông. Những người chưa từng hoặc đã từng sống dưới
thể chế Việt Nam Cộng Hòa nên đặt câu hỏi: “Ở
địa vị Trịnh Công Sơn mình sẽ thể hiện thế nào?” và một điều quan trọng hơn
cả: Việt Nam Cộng Hòa đối với một người chống phá chế độ như Trịnh Công Sơn mà
vẫn để ông tự do, hơn nữa lại được tự do sáng tác và phổ biến tác phẩm của
mình. Nếu không có Việt Nam Cộng Hòa thì cũng sẽ không có Trịnh Công Sơn. Tôi
lại nhớ lời bố tôi khuyên tôi vào Nam “Trong
đó dù sao cũng có một thời được trải qua nền dân chủ”.
Tác giả: Mẫn
Nhi
CUỘC ĐỜI TRỊNH CÔNG
SƠN
- “KẺ GHÉT NGƯỜI
THƯƠNG”
Chắc
hẳn quý độc giả không còn xa lạ gì với những ca khúc иổi tiếng như: Để gió
cuốn đi, Cát bụi, Diễm xưa, Hạ trắng, Tình nhớ, Một cõi đi về, Biển
nhớ, Em ở nông trường em ra biên giới, Đêm thấy ta là thác đổ,… của
cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn được xem là một trong những nhạc sĩ
lớn của âm nhạc đại chúng, tân nhạc Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ, ông
đã để lại cho đời hơn 600 bài hát. Hơn thế nữa, ông còn được xem là một nhà
thơ, một họa sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên.
Cố
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không những là người để lại cho đời lời ca tiếng hát
sống mãi với thời gian, mà cнíɴн bản thân ông cũng đã trở thành một biểu tượng
văи hóa đại chúng. Hàng năm, nhiều người yêu mến âm nhạc của ông vẫn tổ chức
những đêm nhạc để tưởng nhớ cố nhạc sĩ. Mặc dù, có rất nhiều các nghệ sĩ thể
hiện nhạc Trịnh như Thái Thanh, Ngọc Lan, Tuấn Ngọc, Quang Dũng, Lân Nhã, Lệ
Quyên, Trần Thu Hà, v.v… nhưng thành côɴԍ nhất vẫn là hai “bóng hồng”
Khánh Ly và thế hệ sau là Hồng Nhung.
Trịnh
Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939. Quê ông thuộc làng Minh Hương, xã Vĩnh
Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thuở
nhỏ Trịnh Công Sơn theo học trường Lycée Français và Providence ở
Huế, sau đó ông vào Sài Gòn theo học triết học tại trường
Tây Lycée Jean Jacques Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú
tài tại đây.
Năm
1957, khi 18 tuổi một biến cố xảy ra, ông bị một tai nạn khi đang
tập judo với người em trai của mình khiến ông bị thương nặng ở ngực,
suýt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Thời gian dưỡng
bệnh, ông đọc nhiều sách về triết học, văи học và tìm hiểu về dân ca. Ông
từng chia sẻ: “Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một niềm đam mê khác –
âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát
khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức,
trỗi dậy“.
Năm
17 tuổi, Trịnh Công Sơn sáng tác bài Sương đêm và Sao chiều. Nhưng tác
phẩm được công bố đầu tiên của ông là ca khúc Ướt mi, do nhà xuất bản An
Phú in năm 1959 và qua giọng ca của nữ ca sĩ Thanh Thúy, từ đó tên
tuổi của ông được nhiều người biết đến.
Năm
1961, ông thi và theo học ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường Sư phạm
Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp Trịnh Công Sơn dạy tại một trường tiểu học
ở Bảo Lộc, Lâm Đồng.
Từ
cuối năm 1966, tên tuổi của Trịnh Công Sơn được nhiều người biết đến hơn, từ
khi ông cùng ca sĩ Khánh Ly hát tại Quán Văи, một quán cà phê đơn sơ dựng
trên bãi đất cỏ sau Trường Đại học Văи khoa Sài Gòn. Lúc này, nhạc của ông
được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là ca
sĩ Khánh Ly. Ông từng chia sẻ: “Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một may mắn tình
cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát
ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa иổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù
hợp với những bài hát của mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra ca sĩ nào
ngoài Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của Khánh Ly rất
hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà
không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung viết
cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi
cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly“. Ca sĩ Khánh Ly sau
này cũng нồi tưởng về giai đoạn những năm thập niên 1960 đó và tâm sự:
“Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với
anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ,
chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm
thấy mình thực là hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi mình được hát những tình
khúc của Trịnh Công Sơn”
Trinh
Công Sơn là một trong những trí thức đấu тʀᴀɴн tích cực cho phong trào hòa bình
tại miền Nam. Năm 1968, ông đã gặp bộ đội Cụ Hồ trong 26 ngày đêm Cách
mạng giải phóng Huế. Năm 1970, ông tham gia phong trào Tự
quyết với Ngô Kha, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn và Thái Ngọc
San.
Cũng
trong năm 1970, một số bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với công chúng Nhật
Bản như Diễm Xưa, Ca dao Mẹ, Ngủ đi con. Riêng ca khúc Ngủ
đi con đã được phát hành trên hai triệu đĩa than.
Trưa
ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trịnh Công Sơn lên Đài phát thanh
Sài Gòn hát bài “Nối vòng tay lớn”. Ông cũng chính là người trưa
ngày 30/4 đã đứng lên phát biểu trực tiếp trên đài phát thanh Sài Gòn sau
lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văи Minh. Trong bài phát biểu
của mình, ông đã kêu gọi người dân miền Nam ủng hộ Chính phủ Cách mạng lâm thời
miền Nam Việt Nam:
“Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả chúng ta…
Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này… Những điều mơ ước
của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì
hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả kết quả đó… Hôm nay tôi yêu cầu các văи
nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm
thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước… Chính phủ Cách mạng lâm
thời đến đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ
hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội ᴅuy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam
được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước
suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người
chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách мạиɢ lâm thời
để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam này…”
Sau
năm 1975, Trịnh Công Sơn làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí
Minh, tạp chí Sóng nhạc. Những năm đầu thập niên 1980, ông bắt đầu
sáng tác lại, ban đầu một số tác phẩm của ông gởi qua cho Khánh Ly và chỉ phát
hành tại hải ngoại. Lúc bắt đầu được phép lưu hành nhạc trong nước, ông viết
một số bài có nội ᴅung ca ngợi những chủ trương của chế độ mới như: Thành
phố mùa xuân, Ngọn lửa vĩnh cửu Moskva, Em ở nông trường em ra biên
giới, Huyền thoại Mẹ… Sau đó nhà nước Việt Nam đã nới lỏng quản lý văи
nghệ, ông lại tiếp tục sáng tác nhiều bản tình ca có giá trị.
Ngoài
vai trò là một nhạc sĩ kiêm ca sĩ, Trịnh Công Sơn còn là một diễn viên điện ảnh
nghiệp dư. Năm 1971 ông tham gia đóng phim và thủ vai chính trong phim Đất
khổ của cố đạo diễn Hà Thúc Cần. Sau khi phim được hoàn tất năm 1974
thì chỉ được chiếu cho công chúng xem 2 lần với thời lượng 102 phút, rồi bị cấm
không được phép trình chiếu ở Miền Nam Việt Nam. “Đất khổ” là bộ phim
nói về một câu chuyện của tình yêu, tình ruột thịt, lòng yêu nước, sự gắn bó
với văи hóa và tiếng nói của giống nòi; cũng như về một mối tình trong trắng
nhưng vô cùng ngang trái vì chiến tranh. Phim còn có sự góp mặt của kỳ nữ Kim
Cương, nhà văи Sơn Nam, diễn viên Bạch Lý và Nghệ sĩ Ưu tú Thành Lộc (khi đó
mới 8 tuổi).
Sau
năm 1975, bộ phim này lại được chọn là phim Việt Nam chính trong Liên hoan
phim Á Mỹ năm 1996. Năm 1997, ông cùng nghệ sĩ Thanh Bạch và ca
sĩ Trịnh Vĩnh Trinh thực hiện album băиg hình VHS của mình mang tựa
đề Ru tình được Hãng phim trẻ sản xuất năm 1996. Sau đó năm
2004, Hãng phim Phương Nam sản xuất lại dưới
dạng VCD và DVD . Năm 1998, Hãng phim Phương Nam cũng thực
hiện cho ông và nhạc sĩ Văи Cao trong chương trình “Văи Cao và
Trịnh Công Sơn” dưới định dạng băиg VHS, sau đó là VCD & DVD. Từ đó
về sau, ông cùng bà Trịnh Vĩnh Trinh góp mặt trong những CD nhạc do ông sáng
tác và được Hãng phim Phương Nam sản xuất trong giai đoạn này như: Ru
tình, Tình yêu tìm thấy, Vì tôi cần thấy em yêu đời, Cho đời chút
ơn,…
Trong
sự nghiệp sáng tác của mình, Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca
khúc, tuy nhiên cho tới tháng 4 năm 2017 chỉ có 77 bài được Cục Nghệ thuật Biểu
diễn cấp phép, những tác phẩm có ca từ độc đáo, mang hơi hướng suy niệm. Theo
Trung tâm Bảo vệ tác quyền âm nhạc Việt Nam Chi nhánh phía Nam, nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn vẫn là tác giả được trả tác quyền nhiều nhất với hơn 820 triệu đồng
trong năm 2015. Ông luôn đứng trong top 5 nhạc sĩ có tiền trả tác quyền cao
nhất.
Đối
với những tác phẩm của Trịnh Công Sơn, có một đánh giá cho rằng phần nhạc của
Trịnh Công Sơn quá đơn điệu về đề tài, chủ yếu tập trung vào tâm trạng mơ
нồ và mộng tưởng. Tuy nhiên, đánh giá này lại trùng khớp với lời lý giải
của ông về sự sáng tác của mình: “Tôi chỉ
là 1 tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về
những giấc mơ đời hư ảo…”. Hai chủ đề lớn nhất trong âm nhạc Trịnh Công Sơn
là tình yêu và thân phận con người.
Nhạc
tình của Trịnh Công Sơn đa số là những bản nhạc buồn, thường nói lên tâm trạng
buồn bã, cô đơn như: Sương đêm, Ướt mi, Diễm xưa, Biển
nhớ, Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn nhớ hay em đã
quên, Hoa vàng mấy độ, Cỏ xót xa đưa, Gọi tên bốn mùa, Mưa
hồng… Khả năиg viết nhạc tình của ông tưởng chừng không biết mai một
theo năm tháng. Những bài hát về nhạc tình của ông thường mang giai điệu nhẹ
nhàng, dễ hát, thường được viết với tiết tấu chậm, thích hợp với
điệu Slow, Blues hay Boston. Phần lời được đánh giá cao nhờ
đậm chất thơ, nhiều chiêm nghiệm nhờ những biện pháp ẩn dụ, hoán dụ… đôi
khi pha lẫn hơi hướng siêu thực, trừu tượng tuy nhiên giai điệu gần gũi nên
nhạc của ông dễ dàng đi vào lòng côɴԍ chúng.
Nhạc
về thân phận con người của Trịnh Công Sơn thấm đượm màu sắc hiện sinh, buồn bã
của các tác giả văи học phương Tây thập niên 60 như Jean Paul
Sartre, Albert Camus,… Tiêu biểu là các ca khúc: “Cát bụi”, “Đêm
thấy ta là thác đổ”, “Chiếc ʟá thu phai”, “Một cõi đi về”, “Phôi
pha”,…. Bên cạnh đó, có những bài tuy là nhạc buồn nhưng có gợi nên tư
tưởng thiền như: “Một cõi đi về”, “Giọt nước cành sen”. Ông
từng tâm sự, khi còn trẻ ông đã luôn ám ảnh bởi cái cнếт nên âm nhạc của ông
mang trong đó một sự mất mát của những số phận con người.
Tên
tuổi của Trịnh Công Sơn còn gắn liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại
chiến tranh, kêu gọi hòa bình mà người ta thường gọi là “nhạc phản chiến”,
hay còn gọi là “Ca khúc da vàng” theo tên các tập nhạc của ông phát
hành những năm cuối thập niên 1960. Nhạc phản chiến của ông phần lớn viết bằng
điệu Blues, cộng với lời ca đậm chất hiện thực, rất đơn sơ, trần trụi đã
trở thành những bài hát gây xúc động mạnh mẽ. Những bản nhạc này được ông cùng
Khánh Ly trình diễn ở nhiều nơi tại miền Nam, được nhiều người ủng hộ nhất
là giới. Đây cũng là thể loại nhạc làm cho danh tiếng của Trịnh Công Sơn lan ra
khắp thế giới: nhờ nhạc phản chiến ông được một Đĩa Vàng (giải thưởng âm nhạc)
tại Nhật và có tên trong tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les
pays du monde của Pháp. Mãi cho đến nay, rất nhiều bài hát về thể loại nhạc này
của ông chưa được phép lưu hành cнíɴн thức tại Việt Nam. Mặc dù trước đó đã
từng rất phổ biến và được Khánh Ly phát hành băиg nhạc tại miền Nam như
những bài: Đi tìm quê hương, Chính chúng ta phải nói hòa bình, Gia tài của
mẹ, Cho một người vừa nằm xuống, Chưa mất niềm tin, Chờ nhìn quê hương
sáng chói, Ta đi dựng cờ,…
Ngoài
những thể loại nhạc trên, Trịnh Công Sơn còn để lại nhiều tác phẩm viết về quê
hương như “Chiều trên quê hương tôi”, “Huế - Sài Gòn - Hà Nội”, “Việt
Nam ơi hãy vùng lên” (1970), “Nối vòng tay lớn”, “Chưa mất niềm tin” (1972)…
Từ
đầu thập niên 1980, khi được phép lưu hành nhạc trong nước, ông viết một
số bài nhạc cách mạng như “Em ở nông trường em ra biên
giới“, “Huyền thoại Mẹ“, “Ánh sáng Mạc Tư Khoa“, “Ra chợ ngày
thống nhất”,…
Sau
này, Trịnh Công Sơn còn viết nhạc cho thiếu nhi (trong tập nhạc “Cho Con”, xuất
bản năm 1991), nhiều bài rất иổi tiếng như: “Em là hoa нồng nhỏ“,
“Mẹ đi vắng“, “Em đến cùng mùa xuân“, “Tiếng ve gọi hè“, “Tuổi đời mênh mông“,
“Mùa hè đến“, “Tết suối нồng“, “Khăи quàng thắp sáng bình minh“, “Như hòn
bi xanh“, “Đời sống không già vì có chúng em“.
Bên
cạnh thành côɴԍ trên con đường âm nhạc, Trịnh Công Sơn cũng khá có tiếng với
nhiều tác phẩm hội họa, bút tích. Những tác phẩm hội họa của ông đã được triển
lãm tại Nhà Hữu Nghị Tiệp Khắc - Việt Nam, từ 14/01/1989 đến 24/01/1989 cùng
với 2 họa sĩ Đinh Cường và Đỗ Quang Em, triển lãm tại nhà khách
Ritz, và Trang viên Con Nai Vàng, Thủ Đức, từ 15/12/1990 đến 20/01/1991
cùng với 2 họa sĩ Trịnh Cung và Đỗ Quang Em. Một số tác phẩm
trong đó, hiện còn được lưu giữ và trưng bày tại Hội Ngộ Quán.
Cố
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mất vào lúc 12h45, ngày 1/4/2001 tại thành phố Hồ Chí
Minh sau một thời gian dài chiến đấu với các bệnh về gan, thận và tiểu
đường. Thời điểm đó, ông được cho là vẫn cặm cụi sáng tác ngay khi nằm trên
giường вệин. Hàng ngàn người đã đến viếng ở lễ tang của ông, và có thể nói chưa
có một người nhạc sĩ nào mà sự ra đi của họ lại khiến côɴԍ chúng thương tiếc
nhiều đến như vậy. Ông được an táng tại Nghĩa trang chùa Quảng Bình
thuộc phường Bình Chiểu - quận Thủ Đức. Từ đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày
này làm ngày tưởng niệm người nhạc sĩ tài ba này.
Vào
năm 2001, nhà hát Hoà Bình cùng Hãng phim Phương Nam thực hiện Đại nhạc hội kỷ
niệm 100 ngày mất của ông mang tên “Như một lời chia tay “. Sau
đó các liveshow tưởng nhớ ông như “Đêm thần thoại” (2005) và “Rơi lệ ru
người” (2007)” cũng được thực hiện.
Tác giả: NP
Phan
TRỊNH CÔNG SƠN -
MỘT NGƯỜI CA THƠ
Một
nhận định có lẽ được nhiều người chấp nhận: Trịnh Công Sơn là một tài năng âm
nhạc, là một trong ba cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam đương đại. Đó là Văn
Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.
Tuổi
trẻ chúng tôi sinh ra và lớn lên giữa lúc cuộc chiến diễn ra vô cùng khốc liệt.
Ngay từ tuổi thiếu niên - những học sinh trung học, lẫn lộn giữa tiếng đạn bom,
chúng tôi đã nghe những bài hát, hoà cùng cuộc chiến có, chống lại cuộc chiến
có. Trong những bài hát phản đối chiến cuộc, có những bài hát của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn.
Trong
dòng nhạc phản chiến lúc bấy giờ của các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Miên Đức
Thắng… thì nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn đã thực sự đi vào lòng người.
Mặc
dù chúng tôi còn nhỏ, chỉ là lứa tuổi học sinh trung học nhưng mà chúng tôi đã
sớm tiếp nhận những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn. Chúng tôi đã nghe,
đã nhập tâm và hát theo đến độ thuộc lòng:
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày...”
(Gia
tài của mẹ)
“Ta đã thấy gì trong đêm nay
Cờ bay trăm ngọn cờ bay...”
(Ta
đã thấy gì trong đêm nay)
“Chiều đi lên đồi cao
Hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy...”
(Hát
trên những xác người)
Lớn
lên một chút thì chúng tôi có dịp tiếp xúc với những bản tình ca của Trịnh Công
Sơn. Chúng tôi bắt đầu làm quen với Ướt mi, Hạ trắng, Diễm
xưa, Tình xa...
Chúng
tôi đã thuộc lòng những câu hát, mà nhiều lúc chẳng hiểu gì mấy:
“Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao...”
(Diễm
xưa)
Hay:
“Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông
nhỏ
Ôi, những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những
cơn mưa...”
(Tình
xa)
Chúng
tôi chuyền tay những bản nhạc của Trịnh Công Sơn, chúng tôi chép những bài hát
của Trịnh Công Sơn trong lưu bút, trong những lá thư gửi cho bạn bè. Thực sự
chúng tôi xem Trịnh Công Sơn như là một thần tượng, thậm chí chúng tôi bắt
chước chữ viết của Trịnh Công Sơn lúc bấy giờ mà người ta gọi là chữ fantazy
tức là kiểu chữ viết bay bướm.
Đầu
những năm bảy mươi của TK 20. Lúc đó tôi đang học lớp 9, cô giáo dạy Tiếng Anh
(Cô đã mất) đã tập cho chúng tôi một bài hát, là bài “Để gió cuốn đi”. Bài hát được bắt đầu bằng:
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng.
Để làm gì, em biết không?
Để gió cuốn đi...”
Trong
lúc tập hát, cô giáo có hỏi:
“Các em có hiểu bài hát nói gì không?”.
Chúng
tôi trả lời:
“Dạ, không hiểu gì lắm”.
Cô
lại hỏi:
“Nhưng mà có hay không?”
Chúng
tôi đồng thanh:
“Rất hay cô ơi!”
Vậy
đó. Không hiểu gì cả, nhưng mà rất hay!
Thực
sự ca từ trong âm nhạc của Trịnh Công Sơn không phải ai cũng có thể hiểu được.
Tất nhiên chúng tôi, những đứa trẻ lứa tuổi mười lăm, mười sáu hầu như cũng
không hiểu gì lắm. Chúng tôi chỉ mang máng cảm nhận cái hay của ca từ và giai
điệu mà thôi.
Tôi
rất cảm ơn hoạ sĩ, nhà văn Tạ Tỵ, tác giả của hai bộ sách biên khảo “Mười khuôn mặt văn nghệ” và “Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay”.
Ông là một họa sĩ rất nổi tiếng, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương. Đồng thời ông cũng là một nhà văn, một nhà biên khảo rất có uy tín.
Trong bộ sách “Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay” có một bài viết về nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn và tôi đã có dịp đọc, tìm hiểu về Trịnh Công Sơn qua bài viết
này, đặc biệt là về ca từ trong các bản nhạc của Trịnh Công Sơn. Tôi đã coi Tạ
Tỵ như một người vỡ lòng cho tôi về ý nghĩa của những lời ca trong âm nhạc
Trịnh Công Sơn. Nhờ ông mà tôi tập tễnh những bước chân đầu tiên để tìm hiểu về
ca từ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Sau
năm 1975, lứa tuổi chúng tôi bước vào trường cao đẳng, đại học. Sau đó ra
trường lăn lộn với đời. Áo cơm cuộc sống đã níu kéo chúng tôi, làm cho chúng
tôi không còn đặt tâm trí nhiều cho niềm đam mê âm nhạc. Giai đoạn 1975 - 1985
là giai đoạn đất nước gặp muôn vàn khó khăn: thời kinh tế bao cấp, ngăn sông
cấm chợ, rồi chiến tranh phía Bắc, phía Nam. Mặc dù vậy chúng tôi vẫn nuôi
trong tâm hồn tình yêu đối với âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Cuối
những năm 70 đầu những năm 80, tôi cùng với bạn bè, những người yêu âm nhạc đã
lập thành một nhóm, khoảng năm bảy người. Vào những đêm trăng sáng, hay có khi
nhờ vào chiếc đèn dầu, chúng tôi nghe nhạc của Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Ngô
Thụy Miên... qua chiếc máy cassette. Giai đoạn đó là giai đoạn âm nhạc của
Trịnh Công Sơn là không được phép lưu hành. Bằng chiếc guitar gỗ, bạn bè chúng
tôi đã hát cho nhau nghe những bản tình ca , trong đó phần nhiều là những bản
tình ca của Trịnh Công Sơn.
Thời
gian sau đó, đất nước đổi mới, cuộc sống đã khá hơn rất nhiều so với những năm
trước, chúng tôi lại đến với âm nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng tôi có dịp sưu tầm
tất cả các bản nhạc của Trịnh Công Sơn và chúng tôi nghe nhạc Trịnh bằng nhiều
nhiều bản phối, bằng nhiều phương tiện nghe nhạc hiện đại hơn, nhưng có một
điều mà chúng tôi vẫn luyến tiếc đó là tiếng ca mộc mạc và tiếng guitar thùng
của bạn bè chúng tôi dạo trước, và đặc biệt là giọng hát của Khánh Ly, Lệ Thu
qua những cuốn băng catsette.
Có
một hôm trên lớp, trong khi giảng bài, tôi có đề cập đến âm nhạc Trịnh Công
Sơn, tôi có hỏi các em sinh viên:
“Các em có thích nhạc Trịnh Công Sơn
không ?”
Nhiều
em trả lời:
“Dạ, cũng thích.”
“Vậy các em có hiểu gì về ca từ trong âm nhạc
Trịnh Công Sơn không?”
“Dạ, không hiểu gì lắm.”
Chúng
ta biết một điều là giới trẻ hiện nay, đa số không thích nghe nhạc Trịnh Công
Sơn. Phải chăng nhạc Trịnh bi lụy quá, buồn quá hay là ca từ trong âm nhạc
Trịnh Công Sơn khó hiểu quá. Tôi nghĩ âm nhạc buồn thì vẫn có nhiều người muốn
nghe, nhưng hát một bài hát mà không hiểu gì về ca từ trong bài hát thì không gì
chán bằng.
Âm
nhạc của Trịnh Công Sơn, theo đánh giá của nhiều chuyên gia âm nhạc thì rất đơn
giản. Chính ca từ mới làm nên cái hồn của âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Nhạc
sĩ Văn Cao, khi đề tựa cho một ấn phẩm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết: “Trịnh Công Sơn là một người ca thơ”.
Âm nhạc của Trịnh Công Sơn là một sự phối hợp rất tài tình giữa nhạc và thơ.
Nhiều khi ta không biết giữa nhạc và thơ trong Trịnh Công Sơn đâu là chính, đâu
là phụ. Hầu như tất cả các bản nhạc của Trịnh Công Sơn, nếu bỏ đi phần nhạc thì
đó là những bài thơ độc lập. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến có viết rằng nếu chọn ra
một bài thơ hay nhất cho nền thơ Việt Nam trong một thế kỷ thì giáo sư sẽ chọn
bài “Đêm thấy ta là thác đổ”.
Hãy
thử đọc:
“Một đêm bước chân về gác nhỏ
Chợt nhớ đóa hoa Tường Vi
Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ
Giờ đây đã quên vườn xưa...”
...”Lòng tôi có đôi lần khép cửa
Rồi bên vết thương tôi quì
Vì em đã mang lời khấn nhỏ
Bỏ tôi đứng bên đời kia...”
Ca
từ của bản nhạc còn thơ hơn cả một bài thơ.
Ca
từ của nhiều bản nhạc của Trịnh thực sự là một bài thơ, có tứ thơ rất đẹp, rất
giàu hình ảnh và lấp lánh vẻ đẹp của ngôn từ mới mẻ. Và, có lẽ, không ai dám
nhận mình hiểu hết về ca từ của Trịnh Công Sơn.
Nếu
ai đó hỏi rằng bạn muốn nghe nhạc Trịnh Công Sơn qua giọng ca của ca sĩ nào thì
ta sẽ nhận được nhiều câu trả lời khác nhau. Nhưng riêng tôi thì chỉ có một câu
trả lời duy nhất. Những bài hát đầu tiên của Trịnh Công Sơn hầu như chỉ viết
cho ca sĩ Khánh Ly hát. Âm nhạc của Trịnh Công Sơn và giọng hát của ca sĩ Khánh
Ly có thể nói như trời sinh một cặp. Trịnh Công Sơn viết và Khánh Ly hát. Khánh
Ly từng thổ lộ “Mình thành danh hôm nay
là nhờ có âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Nếu không có Trịnh Công Sơn thì sẽ không
có Khánh Ly”.
Giai
đoạn sau này thì cũng đã có nhiều ca sĩ hát nhạc Trịnh Công Sơn. Trong nước có,
hải ngoại có. Nhưng đối với tôi và nhiều người trong bạn bè tôi, hầu như chỉ
thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn qua giọng hát của người tri kỷ của đời ông: ca
sĩ Khánh Ly.
Người
ta tôn vinh ông bằng nhiều danh xưng khác nhau. Còn tôi, tôi vẫn thích gọi ông
bằng cái tên mà cố nhạc sĩ Văn Cao đã đặt:
Trịnh Công Sơn - Người ca thơ.
Tác
giả: Trịnh Cung
TRỊNH CÔNG SƠN
KHÔNG
QUAN TÂM ĐẾN CHÍNH
TRỊ?
Đã
8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách
viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình
yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn,
tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham
vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ
“phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về
âm nhạc và tình người của ông anh vợ Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ
và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm
đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà
còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh Việt Nam)
của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một
toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca
Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội
Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?
Sự
thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ
sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là
tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải
Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của
Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn
sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều
tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có
Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà
văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa
bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã
lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải
được đền bồi…”. Và trong thư Trịnh Công Sơn gửi cho Ngô Kha - người bạn
cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến
đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ
nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là
trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa Trịnh Công Sơn và tổ chức cơ sở
thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không
thể nói là Trịnh Công Sơn không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ
Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư Trịnh Công Sơn gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư
này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).
Trước
khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái
độ chính trị của Trịnh Công Sơn thời chiến tranh Việt Nam, và cũng nhằm cung
cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính
trị phản chiến thân Cộng của Trịnh Công Sơn, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô
Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn
Nguyễn Đại Thức.
Vào
năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng
của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi
bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với
tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có
người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt.
Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế,
vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu
nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới
biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký
quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ
Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm
vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về
hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao
tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào
phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh
Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp
lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của
anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch
anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức,
tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc
như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật
năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để
thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên
này cầu Kiệu và nói với anh: “Ông thấy
con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào
căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm
Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó
lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị
bắt và chịu một cái chết bi thảm.
Về
Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?
Theo
Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng
Hòa ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát
tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành
động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại
Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do
anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của
Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân
báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ
chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ
lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly
khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi
thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để
đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ
tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.
Với
bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn
còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ
hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân
bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như Trịnh Công Sơn, thì chi
tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài
viết này như sau: “Vào đêm ngày
29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng - Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo),
Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng
nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự
chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con
đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.
Vậy
là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!
Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm
Quyền?
Vỡ mộng chính trị cầm
quyền
Những
ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí
hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê
liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm
tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà Trịnh Công Sơn để tìm một thông
tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì Trịnh
Công Sơn từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá
trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu - Kỳ, em trai Trịnh Công Sơn là
đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1).
Thế là xong, Trịnh Công Sơn sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn
Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân Giải Phóng đang bao vây Sài Gòn và
doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu Việt Nam Cộng Hòa không buông súng.
Thế
nhưng, Trịnh Công Sơn và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương
Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không
có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn
chính trị không lộ diện của Trịnh Công Sơn từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968,
một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của Trịnh Công
Sơn, đã vận động cho Trịnh Công Sơn vào chính phủ này như là đại diện của phe
Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống
đã phải rời khỏi nhà Trịnh Công Sơn ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà
Trịnh Công Sơn nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau
này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách
là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý
Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho Trịnh Công Sơn và Nguyễn
Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. Trịnh Công Sơn và gia đình đã bị
Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó Trịnh Công Sơn đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ
ghê tởm.
Một chút về Nguyễn Hữu
Đống
Nguyễn
Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng
không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn
vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng
kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà Trịnh Công Sơn những tháng trước
4/1975 với tư cách em rể Trịnh Công Sơn, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những
thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ Trịnh Công Sơn
vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc
ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của
Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.
Thế
nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi
tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ
thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì Trịnh Công Sơn
và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ
ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một
là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ
truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để Trịnh Công Sơn chủ trì như một giáo
đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc
thái Trịnh Công Sơn, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho Trịnh Công Sơn viết Kinh Việt
Nam. Dự án này tôi đã được Trịnh Công Sơn cho biết trước năm 1975 và sẽ xây
dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa
trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham
vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị
giữa anh và Trịnh Công Sơn thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư
luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và Trịnh Công Sơn được ông
Võ Văn Kiệt ủng hộ?
(Để
biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa Trịnh Công Sơn và Nguyễn Hữu Đống, xin độc
giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc
Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về Trịnh Công Sơn).
Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát
Trong Xã Hội Cộng Sản Việt Nam
Những Gáo Nước Lạnh Ngày
“anh em ta về”
Tuy
nhiên, sau sự thất bại ấy, Trịnh Công Sơn lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của
anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ
bay trăm ngọn cờ bay” và “anh em ta
về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân
đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-1975 không có một chỉ dấu nào cho thấy có
mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công
Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh
Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn
mừng chiến thắng lịch sử 30-4-1975, Trịnh Công Sơn, tác giả của ca khúc có tính
dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía Việt Nam Cộng
Hòa, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng
Bào đã thoát ly đi theo Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, đuổi ra khỏi phòng thu:
"Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…
Bị
bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, Trịnh Công Sơn thật
sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho
đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui
tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh
em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối
tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về Trịnh
Công Sơn, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy
trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.
Thật
ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt
trong âm nhạc và con người Trịnh Công Sơn của Ban Văn Hoá Tư Tưởng - Trung Ương
Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể
lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm Trịnh Công Sơn trong Cứ trước 1975 với
thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo Mặt trận Giải
Phóng Miền Nam như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần
Bạch Đằng.
Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài
Gòn
Sự
sợ hãi càng tăng cao khi Trịnh Công Sơn nhận được tin mình sẽ bị thanh toán.
Chỉ vài ngày sau, Trịnh Công Sơn đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe
đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những "người anh em” thân thiết
cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc
San,… hy vọng chắc được yên thân.
Trở
lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, Trịnh Công Sơn quây quần
với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo
Trịnh Công Sơn và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và
Trịnh Công Sơn phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này
cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể
thao tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là Trịnh Công Sơn đã tránh được vỏ dưa Sài Gòn
nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do Trịnh Công Sơn đã kỳ
vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế
của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang
phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả
của 2 ca khúc từng bị người Cộng Sản Việt Nam kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ
với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng
ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người Cộng Sản Việt
Nam và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá
không lực Việt Nam Cộng Hòa chết bởi đạn của quân Giải Phóng Miền Nam - người
bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa Trịnh Công Sơn lên Đà Lạt thăm
Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với Trịnh Công Sơn) tại Sài Gòn?
Lần
này ở Huế, tính tẩy chay Trịnh Công Sơn nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở
Đài Phát Thanh Cộng Sản vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim Trịnh Công Sơn sụp
đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi
thanh bình/ Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt.
Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, Trịnh Công Sơn sống như một con tin trong Hội
Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế
trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải
chịu cải tạo.
Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2
Tuy
nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà,
nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ - Thiệu
trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc
Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh
kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài
Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa Trịnh Công Sơn vào lại Sài Gòn
sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên
được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng
thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn
Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc Trịnh Công Sơn, cái hạn bị hăm
doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua
những “sự cố” như thế, có thể thấy Trịnh Công Sơn đã mắc những sai lầm với
người Cộng Sản như sau:
-
Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh Việt Nam và tính hai mặt trong
quan hệ xã hội.
-
Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
-
Không dám thoát ly đi theo Mặt trận Giải Phóng Miền Nam.
Và
những sai lầm của Trịnh Công Sơn với phía Việt Nam Cộng Hòa:
-
Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía Việt Nam Cộng Hòa.
-
Thiên về phía người Cộng Sản Việt Nam ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ
Tết Mậu Thân ở Huế.
-
Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự
do tư tưởng dù có bị chế độ Sài Gòn hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết
liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi
đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa che dấu,…)
để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75.
Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng
Hòa đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không
còn nhớ tên.
Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”
Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh
Cuối
tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại Trịnh Công Sơn. Lần nào đến nhà
anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch - Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy Trịnh Công Sơn
ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát
đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn
“mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan
Nguỵ đi tù về, không còn được Trịnh Công Sơn và gia đình coi là người thân như
ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới”
này của Sơn đã khiến tôi bị Trịnh Công Sơn và gia đình tẩy chay ngầm.
Thực
ra, tôi đã bị Trịnh Công Sơn và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi
đi lính Việt Nam Cộng Hòa mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn
(đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70,
Trịnh Công Sơn và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để
phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất
tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ
thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với Trịnh Công Sơn, do tôi kết
nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng Trịnh Công Sơn
rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự
số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc
rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về
Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19.
Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay
67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ
Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh Việt Nam Cộng Hòa,
Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào
việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống Việt Nam Cộng Hòa của nhóm Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công Sơn,.., nhiều năm trước.
Có
một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu
năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho
một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục
năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g
sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để
xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người
trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế
nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường
đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới
nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương
Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh
Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình
cấp cho Trịnh Cung cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập
tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy
để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch
thôi!”…
Với
Trịnh Công Sơn, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một
kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc
vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một
gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để
những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh
là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm Trịnh Công Sơn được nguỵ danh dưới
khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của
họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với Trịnh Công Sơn
thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông
chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri
thức, đó là chỗ mà Trịnh Công Sơn, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể
loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là
điều mà Trịnh Công Sơn trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể
đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến
tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.
Điều Đáng Tiếc
Trong
thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người
bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những
con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự
huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu
cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu,
thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng
ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói
với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào
những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận
Việt Nam 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá
bởi chính người Việt Nam chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống
yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất
quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn
nền Cộng Hòa trẻ tuổi miền nam Việt Nam, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều
làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm
khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi
bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may
mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn
một điều là tất cả những trí thức thiên tả Việt Nam như cậu cũng đều không chờ
đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ
trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của Trịnh Công
Sơn, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một Trịnh
Công Sơn mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm
no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra Trịnh Công Sơn
đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.
Ảo Tưởng Cuối Cùng
Dần
dà rồi Trịnh Công Sơn cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp
thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ
trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc thành phố Hồ Chí Minh như Xuân
Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do
họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và Trịnh Công
Sơn được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu
hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm.
Trịnh Công Sơn cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi
hàng đầu của nhạc cách mạng Việt Nam như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ
ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ Văn hóa và Thông tin Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người
từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn Trịnh Công
Sơn như một kẻ xấu.
Dù
gì thì thế đứng chính trị của Trịnh Công Sơn cũng đã được tốt hơn trước rất
nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng
vào hàng ngũ của đảng?
Sơn
đem ý định này nói với tôi, tôi liền can: “Không
nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh
hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành
đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may
cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với Trịnh Công Sơn như thế và Trịnh Công Sơn
im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà Trịnh Công Sơn không trở
thành đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng
Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc thành phố Hồ Chí Minh và cũng
là cán bộ có trách nhiệm quản lý Trịnh Công Sơn. Trong một lần bất bình vời
Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, Trịnh Công Sơn đã chửi thẳng vào mặt Hoàng
Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc thành phố Hồ Chí Minh: “Mày là thằng mặt lồn!”.
Đã
không những không được vào đảng, Trịnh Công Sơn còn được cho về hưu để vĩnh
viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.
Cái Chết - Vinh Quang Đích
Thực
Nếu
con đường chính trị đối với Trịnh Công Sơn là một con đường dẫn anh xuống vực
thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải
cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca
khúc Trịnh Công Sơn.
Không
chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm
nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt
trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà
Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ
tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự
đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California
ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình
cảm của mình với Trịnh Công Sơn ở chỗ đông người tại Mỹ.
Lời Kết
Sau
8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong
mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa
thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn
mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.
Bài
viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn
có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong
cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong
nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt
hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau
buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có
phải bị trả giá.
Đó
là về phần cá nhân tôi, còn đối với Trịnh Công Sơn, bài viết này tôi muốn bổ
sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về Trịnh Công Sơn ở Mỹ tôi đã
không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào
điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một Trịnh Công Sơn
được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ
trả lại một Trịnh Công Sơn thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để
mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con
người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng
lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những
người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó
theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến
nào.
Tất
nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải
qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của Trịnh Công
Sơn mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế
chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất
dấu bởi những người có quan hệ cận kề với Trịnh Công Sơn trong từng giai đoạn
của lịch sử Việt Nam từ 1954 đến hôm trước khi Trịnh Công Sơn qua đời mà họ vì
những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm
những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.
Sau
cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc
liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng,
xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử
Việt Nam mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài
viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.
Tác
giả: ca sĩ Khánh Ly
NỖI BUỒN NHỚ QUÊ
HƯƠNG
Tôi
là gái Bắc, lớn lên ở Sài Gòn, nhưng lạ lùng làm sao, tôi không nhớ Hà Nội bao
nhiêu. Không yêu Sài Gòn nhiều lắm. Mà chỉ xót xa đến Huế, Huế nghèo. Thành phố
chỉ có vài con đường chính. Huế nóng cháy da, mềm thịt. Huế lạnh buốt, lạnh từ
lòng lạnh ra. Dường như Huế chỉ thực sự huyền ảo, đẹp, nên thơ bời những nghệ
sĩ khi viết về quê hương của mình. Có lẽ đó là điều dĩ nhiên của mọi người, mọi
miền khi viết về nơi mình đã được sinh ra. Âu cũng không phải là điều làm cho
ta ngạc nhiên.
Nhưng
không phải vì những điều người Huế viết về Huế đã làm tôi yêu Huế. Vì nếu như
vậy thì tôi phải yêu Hà Nội nhiều hơn mới có lý. Phải yêu Sài Gòn nhiều hơn,
phải yêu Đà Lạt hơn mới phải. Vậy mà tôi yêu, thỉnh thoảng gặp lại một vài
người bạn, tôi năn nỉ "mi" "noái" cho tau nghe chút cho đỡ
"dớ". Con gái Huế nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép nhẹ nhàng.
Có một cái gì thật mong manh, như tơ, như sương, khói, như một điều không có
thật trong con người của các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng họ không phải là sự
hiện hữu. Một chút hương khói hư ảo chập chờn. Chỉ một tiếng động khẽ dù là
tiếng rơi của một chiếc lá, cũng đủ làm tan biến đi tất cả.
Mười
ba năm qua, chỉ xin nói cho nghe vài câu cho đỡ nhớ "nhà". Như thế là
yêu đấy, nhiều mới khổ chứ. Dù tôi chỉ biết Huế sau Tết Mậu Thân và không quá
10 lần ghé Huế. Nhưng tôi yêu Huế bởi từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu.
Tôi không muốn nhắc đến, những điều đã được viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi
chỉ muốn viết về "Huế của riêng tôi",
và như vậy cũng có nnghĩa là mở ra cánh cửa của kỷ niệm, của những huân hoan
đau đớn, những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh, đeo đuổi tôi trong
suốt 13 năm qua . Mười ba năm trước đã không thành, không nói. Thì bây giờ lẽ
ra càng không nên nói. Bởi vì dù có thêm 100 năm nữa "Hai mái đầu xanh giờ
đã bạc" cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng nữa, thì cũng là
kiếp sau. Nhưng "Tình tưởng đã yên
mà tâm còn động vọng". Thì ra 13 năm với tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa
thoát ra được. Không thoát ra được. Không muốn thoát ra. Còn cố gắng bao che,
tự lừa dối mình. Chỉ là một cơn mộng. Đêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy
tóc vẫn xanh với lời dặn xưa "Qua
đèo Hải Vân, nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em".
Mộng
đã tàn. Tôi đã tỉnh với đau đớn. Thì thầm một mình "khóc đi chứ". Còn
khóc được là biết mình còn sống, còn khóc được là biết Huế còn đó trong trái
tim, trong tận cùng đáy sâu thống khổ, khốn cùng của một kiếp người mà hạnh
phúc cùng đồng nghĩa với bất hạnh.
Tôi
vốn là một đước trẻ mồ côi cha. Cha tôi chết trong trại Đầm Đùn sau 4 năm giam
hãm. Học hành dở dang, vài năm trường tây, vài năm trường ta. Trường học chẳng
dạy tôi điều gì. Gia đình chẳng dạy tôi điều gì. Nên tôi tự dạy tôi ra đời năm
16 tuổi. Đi hát nhưng không bao giờ nghĩ mình lại trở thành ca sĩ. Hát vì thích
hát. Điều này tôi hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi ông bố có nhiều nghệ sĩ tính nhưng
lại đi theo kháng chiến và chết đau thương trong lao tù. Không có tình thương
của cha, không hợp tính với mẹ. Ngoài ý thích được hát, tôi không biết mình
phải làm gì. Đời sẽ cho tôi những gì và tôi sẽ có được những gì. Tôi quờ quạng
sống lang thang giữa đám bạn bè tốt bụng, nay đứa này cho bịch gạo, mai đứa kia
cho nửa chai nước mắm. Nghèo mà vui tôi không buồn vì nỗi bị gia đình hắt hủi,
từ bỏ. Tôi như một thằng con trai, giữa đám bạn trai. Tuy không có cái cảnh
vườn đào kết nghĩa nhưng cho đến giờ đây, gần 30 năm qua, có đứa đã ra đi mãi
mãi, có đứa nửa điên nửa dại, có đứa nhà cao cửa rộng, vợ con đề huề. Thỉnh
thoảng gặp lại, tưởng như 30 năm chỉ là một ngày. Cũng tưởng đời sẽ lêu bêu mãi
cho đến ngày cuối, nhưng nếu định mệnh là điều có thật, thì điều đó đã đến với
tôi một đêm mưa tại Đà Lạt.
Dáng
người mảnh khảnh, cặp kính trắng tròn, gọng đồi mồi, cặp mắt bồ câu, vầng trán
rộng, sống mũi thẳng, nụ cười đẹp, tươi với chiếc răng khểnh, người con trai đó
nói với tôi bằng giọng Huế. Dân Đà Lạt, đa số nói tiếng Huế tuy hơi lai, nhưng
Sơn là "Huế chay". Sơn với hai bàn tay gày guộc, những ngón tay dài
tài hoa, chắp cho tôi đôi cánh, xỏ vào chân tôi đôi hia bảy dặm. Cô bé lọ lem
lột xác. Lột xác để từ một đoạn trường này bước sang một đoạn trường khác.
Từ
Sơn, tôi đã thành danh, nhưng đó cũng chưa hẳn là điều tôi mong muốn. Tôi có
cảm tưởng như vậy. Có phải đời sống là như thế hay sao? Thế là đủ hay sao? Nếu
thiếu thì thiếu cái gì và tại sao thiếu? Đời sống tầm thường thế thôi sao? Một
đứa trẻ mồ côi, bị gia đình hắt hủi - luôn luôn thèm một mái ấm gia đình, một
lời nói ngọt ngào của mẹ, thèm từ một cái áo, một đôi giày. Mà phải là gia đình
nghèo khó gì cho cam. Chỉ vì ... đúng là tôi sinh ra dưới một ngôi sao không
mấy đẹp. Lúc sống lang thang như một người lãng tử, tôi thường tự hỏi mình nhu
cầu gì cho đời sống. Sống trong đời sống mình phải có những gì? Tình, tiền,
danh vọng? cho đến lúc nghĩ rằng mình đã có đủ những điều mơ ước, tôi vẫn luôn
luôn âm thầm. Hình như không phải như mình nghĩ. Cuộc sống, đời sống, con người
sống trong đời chỉ tầm thường thế sao?
Một
hôm tôi hỏi Sơn: Sống trong đời sống mình cần phải có gì? làm gì? Sơn cười ngón
tay dài khẽ đẩy cái gọng kính đang trễ xuống. Câu trả lời ngắn gọn: Cần có một
tấm lòng. Tôi nhìn Sơn: "Một tấm lòng?" ở giữa thế kỷ này, giữa thời
gạo châu củi quế, giữa thời giá trị của một con người được đánh giá bởi áo
quần, nhà cửa, vòng vàng, hột xoàn... Một tấm lòng để làm gì? Sơn nhìn tôi,
ngón tay lại đẩy cao gọng kính. "Sống
trong đời, ta luôn luôn phải sống với một tấm lòng, phải có một tấm lòng, dù
không để làm gì cả, dù chỉ để... gió cuốn đi.". Tôi nhìn sững Sơn
không nhớ bao lâu, nhưng chắc là lâu lắm. Cứ ngồi nhìn anh, nhìn vầng trán mênh
mông, cúi xuống thật thấp, ngón tay gầy trên nhựng sợi dây đàn. Chiều xuống lúc
nào không hay, gió từ sông Hương thổi mạnh. Hình như trời muốn chuyển mưa. Hình
như lòng tôi cũng đang chuyển động dữ dội. Một ánh sáng kỳ lạ nào đó vừa chiếu
rọi vào cõi tôi u tối, ngu muội. Hình ảnh con nhỏ bụi đời, lúc hàn vi chợt sừng
sững trước mắt tôi. Cái ngõ tối lầy lội đường Phan Thanh Giản, cái nhà sàn cầu
sắt Đa Kao. Những buổi chiều nằm trên đồi sân Cù Đà Lạt, khóc một mình. Tất cả
chợt sống lại hay đúng hơn, ở một lúc nào đó tôi đã chết rồi. Và chiều nay bên
dòng sông Hương êm đềm thơ mộng - vầng trán mênh mộng, giọng nói dịu dàng, ánh
mắt thăm thẳm, bao dung, Sơn kéo tôi khỏi cái chết ngu xuẩn. Sông vẫn chảy đời
sông, suối vẫn trôi đi đời suối, đời người cũng dễ sống và hãy thả trôi đi
những niềm đau.
Hai
mươi năm qua, tôi sống như lời Sơn nói, như điều Sơn muốn. Còn có ai thấy được
hay không, điều đó không cần thiết. Chỉ cần Sơn không thất vọng - điều đó đủ
rồi. Những ngày tháng ở Huế, gần Sơn và gia đình. Đó là khoảng thời gian hạnh
phúc nhất của đời tôi. Sáng Đông Ba, chiều Vỹ Dạ, tối họp nhau ở Cercle hoặc
nhà anh chị Lễ, đàn hát ngâm thơ. Sơn yêu thơ Nguyễn Bính, bắt tôi ngâm đi ngâm
lại bốn câu: "Mà sao giấc ngủ không
dài. Mà đêm xuống ngắn mà trời cứ mưa. ở đây tôi sống như thừa. Có đêm men rượu
tạm vừa lòng nhau." Có bao giờ Sơn hiểu rằng, dù rượu có hết mà sầu
vẫn không vơi. Sơn ơi, Huế ơi, "Nỗi
sầu như tóc bạc, cứ cắt lại dài ra”.
Tác
giả: Bằng Phong Đặng Văn Âu
TRỊNH CÔNG SƠN: 1
THỨ QUÁI THAI SINH RA ĐỂ HẠI NGƯỜI
Nhiều
năm nay, có khá đông người viết về Trịnh Công Sơn. Tôi cũng có một số ít kỷ
niệm với Trịnh Công Sơn, nhưng không viết ra vì ngại bị độc giả hiểu nhầm mình
muốn kiếm chút hơi hướm tên tuổi nơi một thiên tài nổi tiếng. Mới đây họa sĩ
Trịnh Cung - Nguyễn văn Liễu - viết một bài có nhan đề “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị” đăng trên trang mạng Da
Mầu, rồi sau đó có một số người viết “phản bác” về nội dung bài viết vừa nêu và
chê bai nhân cách của tác giả Trịnh Cung, tôi bèn mạo muội tham gia để bày tỏ
đôi chút cảm nghĩ cá nhân vể một thiên tài từng xem tôi là bạn.
Cuộc
chiến tranh giữa Tự Do và Cộng Sản bằng súng đạn đã chấm dứt hơn 30 năm, nhưng
vết thương vẫn còn rướm máu, mặc dầu bản thân đã có ý muốn chôn vùi quá khứ đau
buồn để hướng tới tương lai. Những gì tôi sắp sửa trình bày dưới đây không hề
có ý định làm tấy lên vết thương cũ. Vì dù sao, Trịnh Công Sơn đã trở về với
Cát Bụi.
Sau
khi tình hình chiến sự Tết Mậu Thân 1968 Đợt I đã lắng dịu, Đại tá Lưu Kim
Cương phái phi công Nguyễn Qúi Chấn bay ra Huế đón Trịnh Công Sơn vào Sài Gòn.
Tôi gặp lại Sơn tại Câu lạc bộ Mây Bốn Phương trong căn cứ Tân Sơn Nhất sau hơn
5 năm xa cách. Hồi tôi gặp Sơn lần đầu tại trường Sư phạm Quy Nhơn, Sơn chưa
nổi tiếng. Thật đáng mừng cho Sơn đã may mắn thoát khỏi sự lùng kiếm của Nguyễn
Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu lúc bấy giờ Sơn bị sa vào tay của hai nhà
cách mạng Xuân, Tường có thành tích “phủ
khăn sô lên đầu dân Huế” và bị dẫn lên núi theo chân Lê văn Hảo hoặc bỏ xác
nơi Bãi Dâu, thì chắc chắn sự nghiệp sáng tác nhạc của Sơn sẽ không có “bề dày”
như vào thời điểm 1975. Phải chăng Trịnh Công Sơn thoát khỏi bàn tay Việt Cộng
là nhờ được hưởng phúc đức từ bà mẹ nổi tiếng thờ Phật kính Tăng mà người dân
Huế nào cũng biết?
Từ
sau ngày gặp lại Sơn, tôi thường lui tới chơi với Sơn tại ngôi nhà nằm trên
đường Công Lý, đối diện Chùa Vĩnh Nghiêm. Sơn là người hiền lành, nói năng nhỏ
nhẹ. Mặc dầu là người có tài và có tiếng tăm, nhưng Sơn khiêm tốn, chưa bao giờ
tôi nghe Sơn bình phẩm hay chê bai nhạc sĩ khác. Tôi từng lái máy bay chở Sơn
ra Phú Quốc uống rượu với bạn Nguyễn văn Mãng Thiếu tá Quân Cảnh, Phạm Thọ
Trung tá Hải Quân; lên Đà Lạt thăm chị Sâm vợ anh Tốn; ra Huế nhậu với bạn hữu
của anh chị Hồ Đăng Lễ. Qua Sơn, tôi giáp mặt với các nghệ sĩ khác như Trịnh
Cung, Đinh Cường, Bùi Giáng, nhà báo Phùng thị Hạnh, Trùng Dương, kiến trúc sư
Nguyễn Hữu Đống, điêu khắc gia Lê Thành Nhơn, Bửu Tôn … Ngoài ra, còn có Bửu Ý
từ Huế vào tá túc ở nhà Sơn để lánh nạn … đi lính!
Bạn
bè nào cũng qúy mến Sơn, ngay cả những người lính đang ngày đêm hy sinh mạng
sống của mình để cho bọn ngụy hòa như ni sư Huỳnh Liên, thầy chùa Nhất Hạnh, giáo
gian Nguyễn Ngọc Lan hoặc bà Ngô Bá Thành được quyền biểu tình, lên tiếng đòi
chấm dứt chiến tranh.
Tôi
kể cho Sơn nghe câu chuyện của ông anh tôi - Đặng văn Châu, Giám đốc Đoàn hoa
tiêu (pilotage) sông Sài Gòn kiêm Giám đốc trường Hàng Hải thuộc Trung tâm Kỹ
thuật Phú Thọ - là người rất ái mộ Sơn, nhân chuyến đi công du Pháp quốc tình
cờ gặp cô cháu gái từ Hà Nội sang tu nghiệp tại Âm Nhạc Viện Paris. Hai chú
cháu mừng rỡ khôn xiết. Anh Châu tôi bèn lấy ra hai cuộn băng cassette nhạc của
Sơn để tặng. Cô cháu gái liền ném ngay hai cuộn băng vào thùng rác và nói: “Thưa chú, cháu rất yêu qúy chú nhưng rất
ghét nhạc Trịnh Công Sơn. Ở Hà Nội chúng cháu không thèm nghe loại nhạc ủy mị
than thân trách phận ấy!”. Anh Châu quá bẽ bàng trước phản ứng bất ngờ của
cô cháu. Nghe xong, nét mặt Sơn lộ vẻ thất vọng. Tôi nói để như an ủi: “Sơn ạ! Những ca khúc gọi là ‘phản chiến’ của
Sơn không hề làm lay chuyển hay nhụt chí những người lính như bọn moa, vì bọn
moa ý thức tại sao phải cầm súng chống lại chủ nghĩa chuyên chính vô sản. Bọn
moa có thể vừa nghêu ngao những câu ca thuộc loại “anh trở về trên đôi nạng gỗ
hoặc trong cỗ quan tài cài hoa” mà vẫn thản nhiên lao mình vào lửa đạn vì tự
biết mình đang trừ gian diệt bạo, chứ không phải vì lòng hận thù. Chính vì thế
mà có nhiều anh em quân nhân đánh giặc rất chì vẫn lui tới chơi với Sơn mà
không hề bị cơ quan an ninh của chế độ làm khó dễ. Hà Nội không bao giờ chấp
nhận Sơn gọi cuộc chiến này là Nội Chiến, vì họ rất tự hào là đội tiền phong
đang thi hành nghĩa vụ quốc tế để hoàn thành cuộc cách mạng vô sản toàn thế
giới. Chỉ có cán binh cộng sản mới bị Hà Nội cấm nghe nhạc của Sơn”.
Một
hôm, ngồi nhậu rượu với Sơn, không hiểu nguyên do nào đưa đẩy câu chuyện liên
quan đến Phong trào Nhân dân Cứu quốc do bác sĩ Lê Khắc Quyến lãnh đạo, tôi bực
bội nói: “Thú thực với Sơn, moa rất khinh
miệt bọn ‘trí thức rởm’ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân. Ở
Phương Tây, bọn trí thức khuynh tả thiên cộng vì chúng chưa từng nếm mùi cộng
sản. Còn ở Việt Nam, tự nhận mình là trí thức mà không hiểu nguyên nhân vì sao
hàng triệu người Miền Bắc phải lìa bỏ tài sản, mồ mả tổ tiên để vào Miền Nam
hưởng một chút không khí tự do, là ngu si, đần độn. Những nhà ái quốc, văn nghệ
sĩ danh tiếng đi theo Việt Minh vì chống Thực dân Pháp, nhưng sau chiến thắng
Điện Biên phủ, gông cùm cộng sản xuất hiện với chủ trương đào tận gốc trốc tận
rễ thành phần thuộc trí phú địa hào thì dẫu những ai từng lập chiến công với
Đảng cũng hết đường cựa quậy. Bộ bọn tranh đấu không hề biết chiến dịch Phóng
tay phát động quần chúng, cải cách ruộng đất ở Miền Bắc hết sức tàn bạo dã man
hay sao? Một Trần Dần làm bài thơ Nhất Định Thắng có câu ‘chỉ thấy mưa sa trên
nền Cờ Đỏ’ và yêu cô gái tiểu tư sản ở lại Miền Bắc là tan nát cả cuộc đời, đến
nỗi phải cắt gân máu tay tự vẫn. Một Phùng Quán chỉ làm hai bài thơ Lời Mẹ Dặn
và Chống Tham Ô Lãng Phí là bị bầm dập. Một Văn Cao phải ngưng sáng tác âm nhạc
mà chỉ còn vẽ vời lăng nhăng để tránh bị quy cho cái tội mất lập trường giai
cấp. Một Nguyễn Hữu Đang có công dựng lễ đài ở Quảng trường Ba Đình để Hồ Chí
Minh đọc tuyên ngôn độc lập cũng không thoát khỏi tù tội. Phải chăng bọn trí
thức chủ trương tờ báo Đứng Dậy đòi hỏi công bằng là để cho nhân dân Miền Nam
này cũng phải chịu chung số phận tôi đòi như nhân dân Miền Bắc lầm than, khốn
đốn thì mới hả dạ?”
“
… Bọn trí thức phương Tây có xu hướng tả
khuynh là một kiểu làm dáng thời thượng không nguy hại cho nền an ninh của nước
họ, vì những định chế dân chủ của các nước đó đã vững vàng. Còn nước ta đang
đối diện một cuộc chiến một mất một còn chống lại kẻ xâm lăng, mà bọn trí thức
bắt chước làm dáng tả khuynh là nhắm tố cáo với thế giới rằng công cuộc tự vệ
của Miền Nam là phi chính nghĩa nghĩa và nhằm tiếp tay tuyên dương kẻ địch có
chính nghĩa giải phóng dân tộc. Hoa Kỳ giúp Việt Nam ngăn chặn làn sóng đỏ, trí
thức là “cái đầu” của Đất Nước, mà thiên về phía Cộng Sản thì nhân dân Hoa Kỳ
không còn có lý do để giúp chúng ta. Vì vậy, phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ mới
có cơ phát triển dữ dội. Sơn có ý thức điều đó hay không? Sơn có biết Miền Nam
sẽ trở thành trại lính hoặc nhà tù như Miền Bắc không, nếu cộng sản cai trị
toàn bộ Đất Nước?
Trịnh Công Sơn nghe tôi đặt ra những câu hỏi
dồn dập, vẫn thản nhiên hút thuốc lá và chậm rãi nâng ly nhắp từng ngụm rượu
đắc tiền của bọn “đế quốc xâm lược”. Bửu Ý liếc nhìn tôi, rồi liếc nhìn Sơn,
miệng tủm tỉm cười. Lúc bấy giờ tôi không hiểu ý nghĩa cái cười tủm tỉm của Bửu
Ý. Và cho đến nay, khi viết những dòng chữ này, tôi cũng chưa hiểu vì sao Bửu Ý
tủm tỉm cười. Thật bí hiểm! Tôi đoán có lẽ Bửu Ý cười tủm vì cho rằng tôi là
một anh võ biền, chẳng có kiến thức gì lại cố gắng thuyết phục Trịnh Công Sơn
đừng mơ tưởng cộng sản?
Không, tôi biết cả hai người, Trịnh Công Sơn
và Bửu Ý, chẳng thể nào trở thành cộng sản được, như chuẩn mực Hồ Chí Minh xác
quyết: “Phải là con người xã hội mới yêu chủ nghĩa xã hội”. Mà Sơn và Ý không
phải là mẫu người xã hội! Sơn và Bửu Ý là người đọc nhiều sách vở, nhưng không
nhìn thẳng vào thực tế đang diễn ra trước mắt, lại sống trong tháp ngà, hưởng
thụ rượu nồng, dê béo.
Trịnh Công Sơn mô tả cuộc sống hàng ngày của
mình là “Đêm Không Ngủ, Ngày Bất Tỉnh” mà bất cứ ai đã từng gần Sơn đều nghe
Sơn nói câu đó. Nghĩa là uống rượu, nhậu nhẹt từ khi đêm chưa xuống cho đến ba
bốn giờ sáng; ban ngày thì ngủ vùi bất tỉnh nhân sự. Sơn là một người có biệt
tài viết nhạc với những ca từ “phù thủy” làm mê hoặc những tâm hồn mơ mộng và
Sơn cũng là người cực kỳ thông minh vì biết khai thác đề tài “chiến tranh –
thân phận giống da vàng” phù hợp xu hướng thời đại để làm cho mình nổi tiếng.
Sơn biết lợi dụng sự “thông thoáng” của chế độ Miền Nam và biết bám vào những
người có quyền như Lưu Kim Cương, Hoàng Đức Nhã để trốn tránh nghĩa vụ quân
dịch; đồng thời nghiêng về nhóm “tranh đấu đểu” loại Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ
Ngọc Tường”, nghĩa là bắt cá hai tay, dù ai thắng thì mình cũng hưởng lợi. Nói
tóm lại, Sơn là mẫu người có tài, ham thụ hưởng, không hề biết thương xót kẻ
khốn cùng và không có lòng lân tuất đối với kẻ sa cơ. Xin chứng minh: – Nữ danh ca phản chiến trứ danh của Hoa Kỳ là Joan Baez sau khi chứng kiến
những thuyền nhân Việt Nam chết chìm ngoài biển Đông, bà đã tỉnh ngộ, bèn tập
hợp được một nhóm người nổi tiếng (celebrities) cùng ký vào bản lên án chế độ
độc tài chuyên chính cộng sản. Đó là hành động xứng đáng của người trí thức khi
biết mình sai lầm thì phản tỉnh và chống lại sự tàn bạo dã man. Chỉ có riêng
Trịnh Công Sơn không một chút mảy may động tâm thương xót người chết đuối ngoài
biển cả, nên đã viết thư cho bà Joan Baez để bào chữa cho chế độ bất nhân bằng
câu: “Có thể nào chị và những người bạn Mỹ cùng ký tên trong một lá thư ngỏ ấy
không hiểu rằng sau một cuộc cách mạng đất nước nào cũng phải chịu đựng những
khó khăn, bề bộn và bối rối nhất định?..”
Hàng
trăm ngàn thuyền nhân chết đuối ngoài biển đã thức tỉnh lương tâm nhân loại,
riêng Trịnh Công Sơn – người nhạc sĩ được chế độ Ngụy đùm bọc – lại đi bênh vực
bạo quyền mà dám gọi đấy là cuộc cách mạng! Chỉ có thiên tài với tấm lòng lạnh
giá như băng mới mô tả đời sống nhân dân cả nước phải nhai bo bo, dáo dác đi
tìm đường vượt biên bằng mấy câu ca mô tả cảnh thanh bình: “Em ra đi nơi này vẫn thế, lá vẫn xanh trên
con đường nhỏ, vườn xưa vẫn có tiếng Mẹ ru, có tiếng em thơ, có chút nắng trong
tiếng gà trưa …” . Trong khi những bằng hữu từng cưu mang mình, từng rót
không biết bao nhiêu hồ rượu thượng hảo hạng cho mình như Phạm Thọ, như Lê Kim
Lợi, như Hồ Đăng Lễ đang rũ tù trong trại khổ sai … thì Trịnh Công Sơn hân hoan
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” để tới lui khề khà với những người bạn “cách
mạng” có vây có cánh! Nhờ đâu Sơn đã có nhiều niềm vui đến thế? Từ ông Võ văn
Kiệt chăng?
–
Trịnh công Sơn viết báo cộng sản nhục mạ những anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng
Hòa, những người từng che chở cho Sơn, khiến cho ông anh tôi – Đặng văn Châu –
không là quân nhân cũng phải nổi sùng. Năm 1994 về Việt Nam tình cờ gặp Trịnh
Xuân Tịnh, em Sơn, ở sân bay Tân Sơn Nhất, anh tôi đã nhắn: “Anh Tịnh về nói với Sơn rằng Sơn là một con
Số Không, là kẻ vong ân bội nghĩa”.
–
Anh XYZ (nhân vật yêu cầu tôi dấu tên), một người anh em ăn ở hết lòng với Sơn
và bạn bè, đi tù khổ sai về bị tai nạn gãy chân, phải vào nằm bệnh viện. Sơn
làm ngơ như không hề hay biết. Mẹ Sơn hỏi con trai: “Tại sao con không vào nhà thương thăm anh XYZ một chút cho có tình?”.
Sơn đáp: “Đi ra Givral uống rượu còn thú
hơn là đi thăm anh XYZ”. Chính bà mẹ Sơn là người thuật lại cho anh XYZ
nghe câu nói phũ phàng của Sơn. Anh XYZ là người đàn anh của nhóm bạn văn nghệ
ở Huế, rất được bằng hữu kính trọng và yêu thương, hiện sinh sống tại Hoa Kỳ.
Theo
quan điểm của tôi, một người nghệ sĩ được đánh giá là chân chính thì không bám
vào kẻ quyền thế để mưu lợi riêng, thủy chung với bạn bè, biết xót xa với nỗi
bất hạnh của kẻ yếu để không bênh vực cho kẻ gieo TỘI ÁC. Lời phản bác của Sơn
đối với bức thư của ca sĩ Joan Baez lên án chế độ vô nhân đạo là sự đồng lõa, a
tòng với TỘI ÁC, mà một con người bình thường có nhất điểm lương tâm không bao
giờ làm. Phải chăng nhờ bức thư phản bác ca sĩ Joan Baez của Sơn mà Võ văn Kiệt
cứu Sơn thoát khỏi bàn tay Trần Hoàn và phe nhóm Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ
Ngọc Tường ở Huế?
Nhờ
sống với “Ngụy Quyền” Miền Nam, Trịnh Công Sơn nổi tiếng cả thế giới và được
hàng triệu thính giả ái mộ. Nếu Sơn sống với “Chuyên Chính Vô Sản” Miền Bắc thì
Sơn - một thiên tài - có rất nhiều khả năng trở thành Tố Hữu - nhà thơ thổi ống
đu đủ - thăng quan tiến chức nhờ xu phụ quyền lực. Nhưng Sơn sẽ khổ sở vô cùng,
vì Miền Bắc không có rượu thượng hảo hạng để uống mỗi ngày!
Tôi
không chắc Trịnh Công Sơn có tham vọng chính trị như Trịnh Cung viết. Nhưng năm
1974, có nhóm tranh đấu đòi hòa bình (bịp) mời Sơn tham gia phong trào ca hát
để vận động chấm dứt chiến tranh thì anh em bạn hữu khuyên Sơn đừng nhận lời,
Sơn đáp thẳng thừng: “Mình phải tham gia để nếu họ thắng lợi thì mình có tiếng
nói”. Lời bày tỏ của Sơn biểu hiện bản chất của con người biết tính toán để mưu
cầu lợi ích bản thân. Qua bức thư Sơn viết cho Ngô Kha vào năm 1974 có đoạn như
sau: “Hôm nay những thành thị miền Nam
đang vươn vai đứng dậy. Trời đất được cơ hội thoát ra không khí ô nhiễm để thở
bằng sinh lực mới cùng tập thể nhân dân yêu nước, yêu hòa bình và tự do. Phải
chăng hồi chuông báo tử đã được gióng lên để những gì cần phải tàn tạ hãy tàn
tạ nhanh chóng.”. Đó là luận điệu dồi trá, bịp bợm của người nghệ sĩ có tên
tuổi nhưng thiếu nhân cách, bởi vì trong thực tế nơi nào bị cộng sản tấn công
thì nhân dân nơi đó bồng bế nhau chạy về phía Việt Nam Cộng Hòa, chứ không chạy
qua vùng “giải phóng”. Người nào đọc thư Sơn viết cho Ngô Kha mà bảo rằng Sơn
không hề có chủ tâm đứng về phía cộng sản là người đó mắc chứng “phương trệ
tinh thần” (down syndrome).
Ba
mươi Tháng Tư năm 1975, nằm ở đảo Guam tôi nghe đài BBC loan tin Trịnh Công Sơn
ôm đàn lên đài phát thanh Sàigòn ca bài “Nối Vòng Tay Lớn” thì tôi dự đoán cuộc
đời của Sơn sắp tiêu ma. Bởi vì cái bản chất đố kỵ của người cộng sản không bao
giờ chấp nhận người ngoài đảng được phép nổi đình nổi đám được quần chúng hoan
hô! Quả nhiên chẳng bao lâu sau Sơn bị cộng sản đe dọa tính mạng, nên Sơn phải
chạy về Huế để mong được bạn bè che chở. Không ngờ những người bạn của Sơn như
Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đã quay lưng làm ngơ để cho Sơn bị Trần
Hoàn đày đi lao động thực tế! Tình nghĩa bạn bè của cộng sản là như thế đấy!
Trịnh
Công Sơn, một người nghệ sĩ tài hoa, được bạn hữu Miền Nam qúy mến, bảo bọc lại
bí mật rấp tâm thông đồng với bọn sát nhân nhằm giật sập chế độ Việt Nam Cộng
Hòa, để rồi bị khốn đốn vì bọn sát nhân. Con người một dạ hai lòng, dù có tài
đến mấy đi nữa, thì vẫn đáng khinh.
Bài
viết của Trịnh Cung về Trịnh Công Sơn đã khiến cho một số người lên tiếng bênh
vực “thiên tài”. Chúng ta không ngạc nhiên chút nào, bởi vì ngay như tội ác của
Hitler, Staline, Mạo Trạch Đông vẫn có kẻ bênh vực và tôn thờ. Nhưng những ý
kiến phản bác bài viết của Trịnh Cung đều có luận điệu mạt sát và bôi nhọ Trịnh
Cung, mà không hề thấy có lời lẽ nào lên án hành vị “một dạ hai lòng ăn cơm
quốc gia thờ ma cộng sản” của Trịnh Công Sơn khiến cho chúng ta thấy được tác
giả của những ý kiến phản bác đều thuộc phe … xã hội chủ nghĩa, chứ không phải
sự lên tiếng là vì SỰ THẬT. Sự Thật đó là Trịnh Công Sơn có ngả về phía cộng
sản.
Trong
số những người lên tiếng bênh vực Trịnh Công Sơn trên Thanh Niên Online có hai
Việt Cộng khá tên tuổi. Đó là hai “tội phạm chiến tranh” Hoàng Phủ Ngọc Tường
và Nguyễn Đắc Xuân từng chôn sống hàng ngàn người dân Huế vô tội vào năm Mậu
Thân 1968. Hai tên tội phạm đó đã ra cái điều trí thức, lấy danh nghĩa chống Mỹ
cứu nước để đẩy cả nước xuống hầm tai họa. Từ tháng Tư năm 1975 cho đến nay
chưa ai nghe thấy hai kẻ đó có một lời nói hay hành động sám hối.
Ngày
xưa sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hai ông Việt Cộng này hung hăng chống
độc tài quân phiệt tay sai đế quốc ngoại bang. Ngày nay sống với Xã hội Chủ
Nghĩa chủ trương đàn áp nhân dân biểu tình tỏ bày lòng yêu nước chống lại Trung
Cộng cướp đất, cướp biển; dân oan khiếu kiện nằm la liệt dải gió dầm sương; các
nhà tôn giáo bị đàn áp, các nhà dân chủ bị bịt miệng, bị cầm tù thì hai ông
Việt Cộng này ngậm miệng giống như câm, như điếc. Họa sĩ Trịnh Cung tung ra một
bài viết tiết lộ một chút xíu bí mật về Trịnh Công Sơn thì hai ông Việt Cộng
Tường, Xuân hăm hở nhào ra bảo vệ uy tín thiên tài có quá trình đi đêm với cộng
sản! Tình trạng đạo lý suy đồi, quan chức ăn cắp từ trên xuống dưới, nhân quyền
bị xếp hạng chót trên thế giới là những thành quả to lớn của Cộng Sản Việt Nam
mà hai ông Tường, Xuân đã dày công đóng góp. Cho nên, ngày trước tôi nói với
Trịnh Công Sơn rằng tôi rất khinh bỉ bọn trí thức tranh đấu là một lũ bịp bợm,
lưu manh quả không sai. Khi chuyên chở tù binh cộng sản từ chiến trường, tôi
biếu họ điếu thuốc lá, cái kẹo vì tôi thương và tôi kính trọng người lính khác
chiến tuyến bị sa cơ. Nhưng tôi khinh bỉ những kẻ được ăn sung mặc sướng ở phần
đất tự do lại ngấm ngầm tư thông với giặc.
Thật
đáng tiếc cho Trịnh Công Sơn, một thiên tài nhưng đốn mạt. Sơn không xứng đáng
là một người nghệ sĩ được đa số khán thính giả ngưỡng mộ, vì Sơn cũng chẳng
khác với hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân bao nhiêu.
Mới
đây, đọc “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn”
của nhạc sĩ Tô Hải, tôi không hề coi khinh tác giả, trái lại rất kính trọng bởi
vì dám nhận mình hèn. Tác giả phải sống dưới chế độ độc tài toàn trị có kỹ
thuật hủy hoại người thẳng thắn, người cương trực một cách dã man khủng khiếp,
khiến cho ai nấy đều trở nên hèn. Đọc hồi ký của nhà phê bình văn học Nguyễn
Đăng Mạnh kể lại những “cái hèn” của những văn nghệ sĩ Miền Bắc, tôi vô cùng
xót xa cho họ và càng thù ghét chính sách cai trị phi nhân của cộng sản. Lặp
lại, nhạc sĩ Tô Hải dám nói lên cái hèn của mình, tôi xin ca ngợi ông là người
có khí phách.
Ở
Miền Nam có chủ trương đề cao nhân tài, dù sản phẩm nhân tài làm ra nhằm làm
suy giảm tinh thần chiến đấu của quân sĩ, vẫn được tự do phổ biến, mà nhân tài
vẫn tư thông với địch mới là đáng khinh. Hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường
và Nguyễn Đắc Xuân dùng đạo lý tình bằng hữu để miệt thị họa sĩ Trịnh Cung lừa
thầy phản bạn là một hành vi đạo đức giả. Hai ông Việt Cộng từng phản lại khát
vọng tự do của nhân dân Miền Nam để dẫn “Bộ Đội Cụ Hồ” về chôn sống người Huế
vô tội, thì hai ông không có tư cách gì để nói đến tình nghĩa bạn bè, tình
nghĩa con người. Hơn ba mươi năm qua, Đất Nước đắm chìm trong nghèo đói, áp
bức, bất công, hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân không tỏ
bày một chút ân hận, lại còn lên mặt đạo đức giả mới là kẻ hèn, đáng khinh bỉ.
Đọc
bài “Tình bạn, hồi sinh cơn hôn mê”
của họa sĩ Đinh Cường viết từ Virginia từ ngày 16 tháng 4 năm 2001, tôi không
khỏi đem lòng hoài nghi cung cách ứng xử với nhau giữa các ông nghệ sĩ tên
tuổi. Nhờ sự tiết lộ của Trịnh Cung, tôi mới hiểu vì sao Đinh Cường viết những
lời ưu ái với ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã
không ngần ngại ca ngợi nhà thơ Tố Hữu bằng câu văn như sau: “nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm
hồn, trong thơ Tố Hữu”. Nhắc lại: Tố Hữu là nhà thơ dùng quyền lực của Đảng
làm khốn đốn, điêu đứng nhiều anh em nghệ sĩ Miền Bắc.
Còn
ông Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân bây giờ là nhà nghiên cứu! Chắc chắn nhà nghiên
cứu này còn bám lấy chủ nghĩa Marxist – Léninist thì sẽ ngụy tạo ra những bài
nghiên cứu theo đường lối “duy vật sử quan” cho phù hợp lập trường của Đảng để
được Đảng cho đi Mỹ, đi Tây khua môi, múa mép.
Các
cụ nhà ta thường nói: “Phủ bênh phủ,
huyện bênh huyện”. Hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc
Xuân càng nỗ lực bênh vực Trịnh Công Sơn và miệt thị Trịnh Cung bao nhiêu, thì
tội trạng Trịnh Công Sơn tư thông với kẻ thù càng rõ nét bấy nhiêu.
“Thời Của Những Kẻ Giết Người” biết đến
bao giờ mới được lương tri soi sáng để can đảm nói một lời sám hối với những
vành khăn tang trắng xóa đất Thần kinh thì chúng ta mới hy vọng Đất Nước có
ngày hồi sinh.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Bàn về chữ “Buông”
trong “Để gió cuốn đi”l
- Nghe vài ca sĩ hát
“Để gió cuốn đi”l
- Nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn và dòng nhạc phản chiến ở Việt Nam Cộng Hòal
- Lần cuối gặp Trịnh
Công Sơn như một lời chia tayl
- “Em và Trịnh” – Bộ
phim gây nhiều tranh cãil
Mời nghe nhạc phẩm
GIA TÀI CỦA MẸ
của Trịnh Công Sơn,
qua giọng hát Khánh Ly:
0 comments:
Đăng nhận xét