NHÂN
ĐỌC ‘BÓNG CHỮ’ BÀN VỀ
CHỮ
VÀ NGHĨA TRONG THƠ
Bạch
Cư Dị, một trong ba gương mặt lớn nhất Đường Thi, nhân một buổi đẹp trời đã nói
về thơ: “Thơ, tình là gốc, chữ là ngọn,
âm thanh là hoa, nghĩa là quả”. Chừng như tất cả cây thơ kia đều dồn cho
quả ý nghĩa. Các nhà thi pháp học từ Đông sang Tây, từ xưa đến nay, hầu như đều
đánh giá thơ Đường vào bậc nhất thế giới, là đỉnh cao nhất của thi ca nhân
loại. Xem ra thơ phương Đông từ độ Ly Tao đến giờ, hầu hết đều coi trọng cả chữ
và nghĩa. Thơ Tây cũng thế, P. Valéry từng nói: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Cũng như trong cuộc
sống, đã là con người đều phải tự đi tìm ý nghĩa cuộc sống của đời mình.
Nhưng
hiện nay, để hiện đại hóa thi ca, có những nhà thơ đang làm hết sức mình để vô
ngôn lời nói, vô nghĩa tất cả những con chữ của mình. Nghĩa, với nhiều chiều,
nhiều tầng, nhiều bề của nó, từ xưa đến nay, vốn được coi là cái hồn của chữ.
Không có nghĩa, chữ, nhìn chung chỉ là cái xác vô hồn. Nhưng, các nhà thơ hiện
đại hóa lại có quan niệm ngược lại. Họ bảo chính các con chữ chay, chữ thuần
túy kia mới là cái hồn mang mang vô tận, còn cái nghĩa của chữ kia, nghĩa “tiêu
dùng” kia, chẳng qua chỉ là cái xác mà thôi.
Vâng,
để làm rõ phần nào những điều trên, xin quý vị hãy cùng chúng tôi khảo sát tập
thơ “Bóng Chữ” của nhà thơ Lê Đạt, do
nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành trong tháng tư năm 1994. Tập thơ gồm một trăm
linh tám bài, một trăm bốn mươi ba trang, in đẹp và trang trọng. Lê Đạt đã để
ra gần bốn mươi năm nghiền ngẫm, kiếm tìm, thể nghiệm và sáng tạo nên “Bóng Chữ”. Hẳn là với ông, thơ này là
trận cuối cùng, được ăn cả, ngã về không. Riêng bản thân chúng tôi, vốn ái mộ
Lê Đạt từ khi ông viết bài thơ “Cha Tôi”
và một số bài thơ leo thang chống tham ô lãng phí. Nay cầm được tập thơ của một
nhà thơ đàn anh tiền phong chủ nghĩa trên tay, bảo người viết bài này không
mừng sao được.
Theo
ông Vân Long trên báo “Người Hà Nội” số 20 ngày 15/5/1994, trong bài “Lặng lẽ Lê Đạt”, nhà thơ “Bóng chữ” tự gọi mình là phu chữ, đủ
biết lao động nghệ thuật của ông cực nhọc và truân chuyên như thế nào. Tuồng
như mồ hôi của tác giả qua chữ đã truyền sang người đọc, đến nỗi, có cảm tưởng
vừa chứng kiến một trận giác-đấu-chữ rùng rợn, hay trận chiến giữa chàng Don
Quichotte – thơ với cối-xay-gió-chữ rất ngoạn mục. Lê Đạt đã im lặng như thóc
suốt gần bốn mươi năm, giờ ông mới lên tiếng : “… Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa “tiêu dùng”, nghĩa tự vị của
nó”… “Con chữ trong câu thơ dắt dẫn trên con đường tâm thức ra khỏi lối đi chữ
nghĩa…”.
Không
chấp nhận lối đi chữ nghĩa trong thơ mà Bạch Cư Dị từng đề cao, phủ nhận ý
nghĩa thông thường của chữ, hẳn là Lê Đạt toan thách thức thi pháp truyền
thống, đưa thơ vào con đường cùng, vào thế chân tường. Ở chỗ khó khăn và nguy
hiểm này, ông gan góc dùng phép vô thức của chữ để đưa thi ca đi xuyên tường,
quyết không đi theo kiểu không danh chính ngôn thuận khoan đất của con tê tê.
Biến cái không thể thành cái có thể, nếu bùa phép của Lê Đạt làm cho con lạc đà
thơ ca chui được qua thiên đàng của lỗ kim tâm thức, chắc chắn ông sẽ trở thành
nhà cách tân số một của thơ Việt Nam. Chúng ta thử đọc một số câu thơ khác
thường của ông, xem liệu nhà thơ có đạt được ý định:
“… Trắng vỗ ô hồ trúc bạch
Bước động ngày thon róc rách…
(tr.
28)
… “Mấy may thu mắt thủy mặc hồ
(tr.
30)
“Tìm nhà quên mất số lớn khôn
(tr.
6)
“Dắt ông cháu tiểu lích chích trái đồng (tr.
66)
…
Dù
có trích ra đây cả trăm câu, đều từa tựa như vậy. Có nghĩa là Lê Đạt đã viết
đúng như ông nói: loại bỏ nghĩa ra khỏi chữ, loại sự hiểu ra khỏi câu thơ, để
vô thức chơi trò bịt mắt bắt dê giữa tác giả và người đọc, ngõ hầu lần mò, dắt
díu nhau về phía sau của mặt trăng, phía toàn bản năng và những cơn hôn mê ứ ớ.
Kể ra, cuộc chơi thơ cầu kỳ và rắc rối này cũng mệt thật, nguy hiểm thật. Lỡ
bạn đọc cao hứng, chịu chơi hết mình, thả hết hồn vía cho ma thức, quỉ thức của
nhà thơ dắt đi trong hang hốc của cơn thiền, vô phúc tẩu hỏa nhập ma, không thu
nổi hồn vía lại thì sao? Nói dại chứ lúc đó, người chơi thơ bị chính thơ bắt
mất hồn, như con chữ bị tác giả bắt hết ý nghĩa.
Ở
trang 49 của “Bóng Chữ”, Lê Đạt tiếp
tục định nghĩa thơ: “Thơ không phải văn
xuôi được nâng cấp, mông má tại một mỹ viện. Văn xuôi chủ yếu dựa vào “ý tại
ngôn tại”. Thơ khác hẳn, thơ dựa vào “ý tại ngôn ngoại !”.
Không
có gì mới trong định nghĩa này, tác giả lầy nguyên châm ngôn của thơ Đường : “thi tại ngôn ngoại”. Mà khi đã chấp nhận
câu này, tác giả hẳn phải chấp nhận câu đã trích trên của Bạch Cư Dị bàn về
thơ. Nghĩa là, tác giả lại phải đi chung đường với thơ ca truyền thống: tìm
thật nhiều nghĩa cho mỗi chữ. Ở đoạn trên, tác giả vừa chia uyên rẽ thúy giữa
CHỮ và NGHĨA, sao đột nhiên lại tự mâu thuẫn, thay đổi nhanh thế? Đề cao thơ,
vô tình tác giả đã làm phật lòng người anh em văn xuôi, khi vu cho họ đi mỹ
viện làm mông má. Lại còn bảo họ: “ý tại
ngôn tại” nữa. Họ sẽ bảo : thơ các ông cứ đọc Lão, Trang, văn xuôi của Kinh
Thánh, của Đottoiepxki, của Kapla, của gần đây như Marquez xem ý tại ngôn gì?
Kể
ra, một con người làm việc quá cỡ như Lê Đạt, thì cái sự tự mâu thuẫn đôi khi
trong định nghĩa thơ, âu cũng là lẽ thường. Nhưng ở ngay trang đầu của tập thơ,
phần tự mình xưng danh, kể quá trình công tác, rồi nêu khuyết điểm và tự kết
luận theo kiểu các vai tuồng khi ra sân khấu phải xưng danh: như ta đây, tác
giả đã tự mâu thuẫn, thì quả là có sơ suất.
Bài
đầu tiên, tác giả rất khiêm tốn:
“Thành tích
mấy trang giấy sờn
mấy câu thơ bụi…”
(Xưng
danh, tr.5.)
Ngay
sau đó, trong bài thơ “Quá trình công tác”,
cũng ở trang 5, tác giả chợt quên mình vừa đóng vai khiêm tốn :
“… Vậy chữ thăng hoa”
Với
sự tự tin vào cái thần chữ của mình, tác giả liệu có trở thành tiên ông của thi
ca như câu thơ trên được chăng? Vì vậy, chúng ta cần coi tác giả vảy chữ như thế
nào:
“Ai xui em đẹp em xinh
Ba lần con thiến gáy”
(Mới
tuổi tr. 25)
Có
lẽ, cái chữ đắc địa nhất của hai câu thơ trên là động từ thiến. Câu trên, chỉ
có sáu chữ, mà đã hai lần tác giả gọi em, lại còn khen em hai lần vừa đẹp, vừa
xinh, đột nhiên câu dưới phang ngay một chữ thiến hết hồn. Mà lại là con thiến,
con nào vậy? Ngôn ngữ đầy vẻ dao búa giải phẩu này, ai nỡ đem ra mà thỏ thẻ với
người liễu yếu đào tơ? Nhưng không, đây là chuyện con thiến gáy góp vui cho
người đẹp. Chỉ có ba con biết gáy là chim, gà và dế. Vậy tác giả định thiến con
nào ? Chịu. Đã bảo thơ Lê Đạt không dùng sự hiểu, sự phân tích mà tới được.
Nhưng vẫn theo ông Vân Long bài đã trích, Lê Đạt coi câu nói của nhà phân tâm học
Pháp Lacan làm câu thần chú: “Vô thức
được cấu trúc như một ngôn ngữ”.
Con
người tư duy bằng ngôn ngữ. Mà vô thức gần như là âm bản, phiên bản, phó bản
của ý thức, của tư duy hay ngược lại? Mặc dù theo Freud vô thức là cơ sở của ý
thức ; nhưng muốn vào cõi âm u vô thức, con người phải đi theo ánh sáng của ý
thức! Và vì vậy, trong vòm trời của vô thức, cái tinh thần của ngôn ngữ vẫn cứ
là phấp phới như cờ. Mà đã nói đến ngôn ngữ là phải nói đến nhận thức, đến sự
hiểu, nói đến ý nghĩa. Tóm lại, cái lý luận chối bỏ nghĩa của chữ, rốt ráo,
bước vào vô thức, hụt hẫng quá, lại phải vịn tạm vào cấu trúc của ngôn ngữ, tức
là vịn vào sự hiểu, vịn vào cái có nghĩa rồi. Trò chơi này giống như logíc: kỳ
nhông là ông kỳ đà… Quả thực, cuộc thập tự chinh chống lại cái nghĩa của chữ,
nếu không cẩn thận dễ thành tử vì đạo lắm.
Trong
một bài in trên tuần báo Văn Nghệ gần đây, chúng tôi cho rằng ý thức chính là
con đường độc đạo đến vô thức. Vẫn theo ông Vân Long bài đã dẫn, chính tác giả
Lê Đạt cũng phải đọc, phải mầy mò, tìm hiểu mãi, mới phát hiện được vô thức.
Nhưng sau khi ngỡ thơ mình đã đạt tới cõi phi giới hạn của vô thức, sao ông nỡ
rút ván đắm đò, cắt cầu khi đã qua sông, không cho phép ý thức, kẻ đã cúc cung
tận tụy đưa ông đến vườn Eđen này không được phép bén bảng tới chốn phiêu diêu?
Xua đuổi cái lý ra khỏi cái phi, cái thực ra khỏi cái siêu, cái thức ra khỏi
cái vô, cái nghĩa ra khỏi cái chữ, có khác gì anh xua đuổi cái hồn ra khỏi cái
xác, thì thơ ơi, mi tìm đâu ra địa chỉ để đăng ký cái hộ khẩu vốn ma ma phật
phật của mình ?
Vô
thức trong “Bóng Chữ” đôi khi là
những con chữ gợi tình bằng son phấn phân tâm học:
“Chương trình yêu
phiếu đục thừa lỗ nhớ
(tre.
129)
“Yếm trúc mẩy măng đôi núm sừng bò” (tr. 60)
“Đùi bãi ngô non, ngo ngó sông đầy
Mình Lưỡng hà
thoai thoải
vú Đông Sơn”
Cái
sự yêu, được tác giả đặt sát sàn sạt cái sự đục và cái sự lỗ, mà nhấn mạnh là
lỗ nhớ, hẳn là cái sự siêu thực của ngôn từ đã đạt tới mức cao trào của vũ điệu
thoát - y - chữ. Xem ra, cái sự thoát xác của thơ cũng không đến nỗi khó khăn
lắm.
Có
lẽ, bài thơ “Ông phó ngựa cả” dài
đúng 108 câu, ứng với 108 bài trong tập, là bài thơ quan trọng nhất của Lê Đạt.
Đến nỗi, ông đã dành cho nó cả một bài thuyết trình, giảng giải có tính nguyên
lý, ngõ hầu giúp người đọc biết cách tiếp cận thi pháp vô hình của ông. Tác giả
viết: “Và câu chuyện về ông phó cả ngựa
biết đâu chẳng là một ngụ ngôn về thi pháp, về truyền thống, về đổi mới… Bạn đọc
trước khi bước vào bài thơ xin tạm để lại cách đọc tuyến tính thuần duy lý ở
ngưỡng cửa, như người khách bỏ giầy trước khi vào một trà thất Nhật Bản…!”.
Nếu
người đọc chỉ học phép tháo giầy kia trước khi vào tiệc trà-thất-thơ, trong khi
ông ta vẫn mang theo cái đầu thì thật khó có thể đọc nổi bài thơ Ông phó cả
ngựa. Người đọc vào thơ Lê Đạt không phải chỉ tự tháo giầy, mà cần phải tháo bỏ
ý thức để thành kẻ mộng du. Bản thân tôi, kẻ tìm hết cách chưa thể vào được bài
thơ này, thậm chí tập thơ này, bởi tôi luôn luôn phải mang theo trên mặt hai
con mắt. Tôi có thể tháo giầy bất cứ lúc nào, nhưng đừng bắt tôi phải tháo cái
nghiệp của mình là óc duy lý, lá thái độ phân tích và phê phán dù là trước cả
thơ Lê Đạt đi nữa.
“Ông phó cả ngựa”, đúng như quan niệm của
tác giả, hầu hết là những câu vô nghĩa ghép vào với nhau, linh tinh, lảm nhảm,
như một người bị lú lẫn đã lâu từ bỏ xã hội loài người. Từ bỏ ý nghĩa của từ
ngữ, xua đuổi lý trí, không chấp nhận sự tồn tại của nhận thức trong quá trình
tạo ra thi ca, tác giả toan đưa người đọc vào một thế giới phi nhân tính. Bởi
con người chỉ có thể là chính con người khi nó tự nhận thức được nó và xung
quanh.
“Cô trẻ thư người yêu tối qua
Sớm khăng khăng ngựa chim hát
Hỏi ông già đâu
Chừng như ông cũng đương chim hát”
Đoạn
thơ này mặc dù hơi lăng nhăng, nhưng nó còn giúp người đọc bật cười vì cái sự
ấm ớ rất chim hát của ông già và cô gái. Bởi cô gái trẻ mê ngựa của bác phó
quá, tối mới thư cho người yêu, sớm đã khăng khăng ngựa chim hát(!). Đây, chúng
ta thưởng thức tiếng vó ngựa gỗ của bác phó, hay chính là ngựa thi pháp của tác
giả vì cái sự độc vận quá quắt và cái sự ngựa biết mặc quần:
“Lũ vật lớn bốc
Một đàn lốc nhốc
Guốc khua cốc cốc
Sớm bốn chân thò mộc
Lộc ngộc
Ngựa quần cộc”
Đây
là cái phổ biến, cái đặc trưng của thi pháp mới rất hư vô của Ông phó cả ngựa.
“E đường vân tâm cây
khi không phải thớ gỗ
biết đâu chẳng những ghi âm con trống
ơi tình
sớm xuân nào
cứ ai…”
Chợt
tác giả kêu lên long, ly, sư, hổ, hươu ra, rồi xuống hàng liên tù tì bằng hai
chữ thì long, thì ly… rồi đùng đùng hạ một câu rất vè, rất nôm na: “thì anh cán bộ bảo tàng một hai”.
Luôn
luôn có một bầy, lúc chim lúc ngựa gỗ, lúc ngựa thật, lúc lại cô trẻ và ông cụ
phó, rồi cứ rối cả lên như một thế giới bị lên cơn, một thế giới bị ma ám cùng
ngựa ám:
“nghé nghiêng cô trẻ tay bỗng vỗ
giống cụ phó…”
Chừng
như một mình bài thơ Ông phó cả ngựa chưa đủ để tác giả tuyên ngôn thi pháp
mới, ông còn chơi tiếp hai ông cụ nữa : ông cụ nguồn dài 102 câu và ông cụ chăn
dê dài những 141 câu. Đúng là quá tam ba bận, ba ông cụ này họp thành thế chân
kiềng của bếp thơ Lê Đạt, thành tam vị nhất thể của thi pháp mới có tên là ú ớ.
Bài “Ông cụ chăn dê” siêu dài này
cững được viết bởi phép vô nghĩa như bài trên, mối quan hệ giữa các câu thơ là
mối quan hệ của ông nói gà, bà nói thóc lép, họa may mới có câu ra vè dễ hiểu,
nhưng nó lại lẩm cẩm, nó không còn một tẹo chất thơ nào:
“Anh kế bổ túc về
biết phép tam suất
đếm đi đếm lại
một con dê trắng… hai con trắng dê
ba con dê trắng…”
May
quá, người đọc bỗng lớ ngớ vớ được câu thơ hay: “mấy con dê buồn sừng húc gió”. Nhưng rất tiếc cho công phát hiện
của người đọc tội nghiệp, câu thơ này của Lê Đạt đã lấy đến chín mươi phần trăm
câu thơ của Hồ Xuân Hương: “Dê cỏn buồn
sừng húc giậu thưa” mà người Việt Nam, hầu như ai đi học là đều có thuộc.
Vâng, còn đây mới chính hiệu là thơ của tác giả:
“Tay hơi ai một chiếc lông đuôi
Nhịp nửa cầu vồng
Ngã tư áo giải nàng công chúa
Be he Be he”
Quả
đúng là tác giả tả dê. Nhà thơ theo chủ nghĩa siêu thực của bậc thầy
Apollinaire, nhờ tả tiếng dê đúng đến trăm phần trăm, chợt biến thành đệ tử của
chủ nghĩa hiện thực. Tác giả còn phát huy chủ nghĩa hiện thực nhiều lần nữa khi
ông be he xuân, be he em. Thậm chí, nhà thơ vô thức đôi lúc lại tỉnh táo đến
nguy hiểm khi ông sao chép hiện thực một cách chụp ảnh; như thể ông vừa photocopie
cái hồi âm trời xanh:
“Giang cánh cửa trời xanh ông
Chào bác
Tức có hồi âm
Chà… ào… oác”
Thực
ra, trong thơ mình, phần lớn Lê Đạt còn sử dụng chủ nghĩa hiện thực không phải
như sử dụng đường băng, sử dụng đôi cánh mà sử dụng hiện thực như là ông sử
dụng cái thang, cố leo lên xem có tới trời xanh siêu thực. Cách đây bốn mươi
năm, cùng với Trần Dần, Hữu Loan… Lê Đạt bắt chước Maiakopxki cũng sắm cho mình
một cái thang. Các ông hầu như toàn có làm thơ leo thang, một chữ, hai chữ đã
leo thang rồi. Maiakopxki là một tay chơi thang, còn các ông chỉ là những tay
leo thang. Maia đã leo, đã chơi hết nấc thang hiện thực, nấc thang số phận của
mình và ông không thích leo xuống mặt đất nữa. Lê Đạt mới chỉ leo đến nửa chừng
cái thang hiện thực. Và ông đã nhẫn nại leo xuống cho hết mức thang định mệnh.
Tất nhiên, ông đã có những thành công nhất định trong thể thơ leo thang của
mình. Điển hình như bài thơ “Cha tôi”
có in trong tập “Bóng Chữ”. Bài thơ
viết năm 1956 này là bài thơ vào loại hay nhất của nhà thơ Lê Đạt. Chúng tôi đã
chép tay được bài thơ này hơn ba mươi năm trước, đã thuộc lòng nó, đã đọc lại
cho nhiều người nghe. Bài thơ viết tự nhiên như không, không uốn éo, không cố ý
rặn ra trò chơi chữ, đẽo chữ, mạ chữ, phá chữ, cuồng chữ, ngộ chữ và mụ chữ.
Thơ cũng như tình yêu, tình dục không chấp nhận sự cố gắng, sự gồng lên, sự tỏ
ra hoặc biểu diễn.
Trở
lại vấn đề chủ nghĩa hiện thực là cái thang của Lê Đạt. Trong tập “Bóng Chữ”, về hình thức, nhà thơ vẫn còn
sử dụng thể thơ leo thang, nhưng không leo một cách quá quắt như bốn mươi năm
trước. Trong tinh thần của tập thơ, người đọc có cảm tưởng như tác giả bị ngộp
trước vô thức, trước siêu thực. Ông toan phủ nhận chủ nghĩa hiện thực nhưng lại
vẫn cứ rơi vào vòng tay của hiện thực. Trên con đường tìm tòi cực nhọc và khổ
ải của mình, Lê Đạt bắt chước con chim chạy trên mặt đất lấy đà, cố sức xòe đôi
cánh bay lên trời vô thức. Nhưng ông vẫn vác cái thang cố hữu của mình, không
phải để leo, mà để làm đôi cánh. Cái thang hiện thực xưa không còn để leo nữa,
mà để bay. Nhưng cái thang nặng quá, nó không biết cách mọc lông. Và thật là
cảm động, Lê Đạt vẫn vác chiếc thang để chạy bộ hầu suốt tập thơ của mình. Tôi
cầu chúc bằng đôi cánh của cái thang kia, biết đâu, trong một tập thơ khác, ông
lại chẳng bay vút lên trời siêu thực như con chim của P. Galuco.
Một
đặc điểm kỳ khu của tập thơ này là mỗi câu thơ, mỗi bài thơ, ta có thể đọc xuôi
từ trên xuống, rồi đọc ngược từ cuối câu, cuối bài lên, thậm chí có thể đọc từ
giữa câu, giữa bài, hoặc bỏ các câu thơ, các bài thơ vào xóc như xóc đĩa, đoạn
tha hồ, muốn đọc ngược xuôi ngang dọc gì cũng thế. Ví dụ câu: “Nó anh em gì chó đăm chiêu Kim Tự Tháp”
(tr. 63). Ta thử đọc ngược câu thơ này xem có xuôi hơn đọc xuôi không : “Kim Tự Tháp đăm chiêu chó gì anh em nó”.
Một ví dụ khác: “Líu lô em quái chiều”
đọc ngược thành “quái chiều em líu lô”
cũng chẳng sao. Ví dụ thứ ba: “đánh mới
nước lần đôi xăng đá” nếu đọc ngược lại, tôi ngờ rằng còn thuận tai hơn: “Xăng đá đôi lần nước mới đánh”...
Một
đặc điểm kỳ khu thứ hai của nghệ thuật dùng chữ của “Bóng Chữ” là tác giả ưa chơi chữ ngược, chữ đảo. Ví dụ nghĩa trang
thì ông dùng ngược thành trang nghĩa (tr. 99), ngoại ngữ thành ngữ ngoại (tr.
35), đời anh thành anh đời… Ông chuộng lạ tới mức lập dị khi dùng chữ: một chị
mẹ, phố nhau đầu, Hít Níchsơn, mẫu tự suối, mót xoan, ruốc mộng, tín dụng xanh,
tu ngủ, trời ghẹ xanh, ếp ếp, sự ngựa, trời mênh chim, vú mầm, xoan chơi,
thuyết minh xanh… Có lẽ, tác giả nên làm thêm một cuốn tự điển riêng để người
đọc tra cứu khi phải đánh vật với chữ nghĩa của ông để tìm ra phép đọc “Bóng chữ”!. Khi tìm ra cách nói khá lạ
tai, ông thừa thắng xông lên, dùng nhiều lần quá hóa ra nhàm, hóa ra thiếu chữ
phải lặp lại cái anh lạ đã hóa quen từ tám hoánh. Trong tập thơ, chúng ta đã
đếm được 41 lần tác giả dùng từ xuân, 26 lần dùng từ mộng, chưa kể sáu lần điệp
chữ Bích Câu cũng là một dạng mộng, bảy lần lặp lại chữ heo may và 13 lần lặp
lại từ môi má… Lê Đạt rất mê chữ rất. Ông lặp đi lặp lại chữ rất : rất Đường,
rất ô, rất hồ, rất em, rất cao, rất mực, rất sự mê… Đôi khi, ông cao hứng chơi
âm chữ nước ngoài ra thành Việt ngữ một cách hơi dễ dãi, bình dân: như mimôza
hóa thành mimôixa (tr. 75) và xôlô thành xe lô (tr. 76).
Theo
ông Vân Long bài đã dẫn, từ năm 1967, về Hà Nội, Lê Đạt đã vùi mình trong thư
viện với một loạt sách do hội Việt kiều bên Pháp gửi về, viết về những năm năm
mươi của nước Pháp. Thuở đi học, nhà thơ đã trôi theo chủ nghĩa lãng mạn Pháp,
rồi chủ nghĩa ấn tượng cũng Pháp nốt. Nay ông bắt đầu mê say với chủ nghĩa siêu
thực, chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa cấu trúc. Đối với nước Pháp và phương
Tây, các thứ chủ nghĩa đến và đi như thủy triều, như mốt quần áo. Khi họ đã
chán, họ đã bỏ đi tìm mốt mới thì người mình mới biết và bắt chước một cách
thành tâm. Việc đưa thơ ca Việt Nam vào cuộc thí nghiệm chạy maratông với thơ
tây, hóa ra, lại là điều phiêu lưu và vô vọng. Bởi, ngay cả chủ nghĩa cấu trúc,
giờ đây cũng thành thứ chủ nghĩa nghĩa địa rồi. Vâng, chúng ta đang mê xe honđa
nghĩa địa của Nhật Bản, nhưng triết học nghĩa địa, thơ nghĩa địa của phương tây
thì cần phải bàn cái đã.
Có
lẽ, Lê Đạt và mấy người bạn ông muốn làm cuộc lai giống giữa thơ tây và thơ ta
chăng ? Nhưng cách lai giống kiểu Mitxurin và Lưxencô chỉ có thể tạo ra một
hình thức của giống mới, nhưng là một thứ mới què quặt và bệnh hoạn, dù rằng
cái giống mới của thơ ca đi chăng nữa. Nhà thơ ơi, muốn có một loài thơ mới,
chúng ta cần phải theo phương pháp di truyền và biến dị của Mangđen và
Moọcgăng. Nhưng ông Trần Dần, người bạn cách tân thơ của ông Lê Đạt đòi chôn
thơ mới thì lấy đâu ra di truyền để lại Gen-thi-pháp của các ông biến dị?
Mặc
dù có tất cả những điều trên và nhiều điều chưa tiện nói ra, công cuộc lao động
nghệ thuật tạo ra “Bóng Chữ” của ông
Lê Đạt quả thực vẫn là một thí nghiệm đáng trân trọng. Chúng tôi rất vui mừng
tìm thấy trong dòng chữ vô nghĩa xô dạt theo một thứ vô thức mà chỉ mình tác
giả có, đã được một số câu thơ hay:
“Chiều gió cả
tiếng ngàn xưa khản lá”
(Cỏ
lú - tr.125)
“Khi gió mùa anh đi
Sang sông tìm nắng khác
…
Mẹ già anh ngơ ngác
Lưng còng đau gậy tre”
(Gốc
khế – tr. 17)
Hoặc
trong bài “Hà Nội B52”, có hai câu
thật thích:
“Nu nú ngồng non
chiều lú bú
…
Mắt chiến hào ai biếc ụ tầm xuân”…
Hoặc
một câu thơ thật thi sĩ trong bài “Anh ở lại”:
“Chiều ngậm mãi một nỗi chim rời tổ…”
Khi
tác giả viết: “đét đùi ông cụ nét hơ hớ”
thì thô và bí hiểm nhưng khi ông nhìn cột điện thì tuyệt hay: “Cột đèn rớm điện”. Có lẽ, với độc một
câu thơ này, tác giả đã tự họa chân dung của mình và gởi đến người đọc nỗi niềm
của cả tập thơ “Bóng Chữ”. Những câu
thơ hay như thế này trong tập thơ quả tình là hiếm lắm. Những câu thơ như thế
bao giờ cũng biết cách chọn một lối đi khôn ngoan nhất, thần tình nhất đến lòng
bạn đọc. Nó chảy len lỏi như vắt suối, như khói sương giữa siêu và thực, giữa
vô và thức, giữa cảm và nhận, giữa linh và nghiệm và cái rốt ráo là nó phải len
lỏi qua giữa CHỮ và NGHĨA. Vâng, tôi xin nhấn mạnh, nó – những câu thơ hay
chính là những đứa con tuyệt đẹp trong cuộc hôn phối giữa chữ và nghĩa. Nếu
loại nghĩa ra khỏi chữ như quan niệm ban đầu của Lê Đạt, thì thương thay cho
con chữ kia sẽ phải sống đời góa bụa. Chữ, dù tuyệt mỹ đi nữa mà không biết
sinh nở, chữ đó tuyệt nhiên không phải là chữ của thi ca.
Thơ
chuộng lạ là thứ thơ chưa đích thực. Đã là đàn bà thì phải đẹp, đã là thơ thì
phải hay. Hay, đó mới là cái đích đến của thi ca. Tại sao chúng ta cứ muốn đùn
đẩy cho thơ ca vào hết cái rọ hiện thực rồi siêu thực, ý thức hoặc vô thức ?
Trong cuộc đời, con người không thích bị đưa ra làm thí nghiệm hay bị làm rắc
rối, đùn đẩy vào lu lọ để thử thách khảnăng sống còn và khả năng hồi sinh của
mình. Thơ ca cũng thế, nó cũng muốn được sinh ra giản dị hồn nhiên như trời
đất.
Bằng
sự thể nghiệm gan góc và quyết liệt của mình, Lê Đạt đã dũng cảm đưa thơ vào
thế chân tường để mong tìm một lối thoát hi hữu bằng khả năng xuyên tường của
vô thức. Các con chữ của ông phải đánh bốc đến sứt đầu mẻ trán mà bức tường kia
hình như vẫn cứ lù lù ra đấy. Có lẽ, ông phải đưa con bài cuối cùng là cái
thang của chủ nghĩa hiện thực ra, nếu ông còn muốn vượt bức tường?
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
*.
TRẦN MẠNH
HẢO
Địa chỉ: 21/22 Xuân Thủy, phường Thảo Điền,
quận 2, Thủ
Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Email: cokhicon@gmail.com
Điện thoại: 091 841 00 42
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: tahongtruong@yahoo.com.vn, ngày 13.10.2017.
- Ảnh dùng
minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét