VÀI
KHOẢNG ĐỜI TRONG
“KINH
THÀNH CỔ TÍCH”
*
Nhớ thương nhà thơ
Nguyễn Nguyên Bảy, cùng đọc lại mấy bài thơ của ông.
Trong
thế giới của "Kinh thành cổ tích"*
mà nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy vẽ ra có biết bao con người, sự kiện, biểu tượng,
cùng những vẻ đẹp đến nao lòng mà nhà thơ chiêm ngưỡng và tự nguyện ngợi ca
suốt đời... Ba bài thơ sau đây, do những người đọc yêu thơ anh chọn lựa ra và
có ước mong rất đáng yêu đáng trọng là muốn được hiểu thêm về cái Thật - cái
Thiện - cái Đẹp của chúng, nằm trong nguồn mạch cảm hứng nhất quán và sâu lắng
nhất của thơ Nguyễn Nguyên Bảy - từ những ngày xa xưa anh đi trên "con thuyền Trương Chi"....
1.
XÓM BÃI
Nước lên ngập xóm bãi bồi
Mặt đê cỏ chiếu màn trời ngủ mê
Mưa trông nước rút lội về
Rơm bùn trát lại tứ bề vách xiêu
Thủy tinh với nỗi hận yêu
Cuồng làm chi mãi để điêu đứng đời
Đừng nộ thêm nữa nước ơi
Bắt làm sao được người rời bãi sông
Nước dâng cao mãi được chăng?
Bờ đê cô gái cười vang thúng thuyền
2.
LÀNG HOA
Khi ngọn gió đêm ru giấc ngủ hoa
Đòn gánh vẫn cong đôi thùng tưới
Cô gái làng hoa
Khi ngọn gió cởi áo sương ban sớm
Cánh tay mềm nâng cắt những mềm hoa
Cô gái Ngọc Hà
Trọn một ngày sống cuộc đời hoa
Trọn cuộc đời sống cuộc đời hoa
Làng Ngọc Hà
Bao vất vả gánh hàng hoa ai biết
Ngũ sắc hoa chào mời
Cùng nụ cười cô gái làng hoa
3.
CHÂN HƯƠNG
Cháy rồi cháy hết phần thơm
Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi
Rồi mầu phẩm nhuộm phai đi
Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương
Ba
bài thơ trên có thể nói là những vần thơ trong trẻo nhất của Nguyễn Nguyên Bảy,
và chúng có vẻ đẹp của pha lê - khi những giọt lệ đắng cay của số phận chưa kịp
thấm xuống tận đáy trang thơ để nảy mầm lên những tự vấn về thân phận riêng,
khi mà những nỗi lo toan chung của cả một dân tộc đang choán ngợp những tâm hồn
lương thiện...
1.
Trong
những ngày lũ lụt, chắc hẳn anh thanh niên Nguyễn Nguyên Bảy cũng đã từng cùng
nam nữ ở một xóm bãi sông Hồng sau đêm ngủ "màn trời cỏ chiếu" xắn tay áo lên, đổ mồ hôi trát lại những
ngôi nhà bị đổ nát bằng bùn rơm... Có điều, trong khi những nam thanh nữ tú kia
hào hứng hát lên những bài ca lao động quen thuộc như từ cả ngàn năm trước trên
bãi bồi châu thổ sông Hồng, thì chàng "Trương
Chi" Nguyễn Nguyên Bảy lại "hát"
bằng cách riêng của một thi sĩ mà tâm hồn còn rất trẻ trung: sau vài nét sinh
động miêu tả lại thực tế, anh liên tưởng tới cơn thịnh nộ của "Thủy tinh với nỗi hận yêu / Cuồng làm chi
mãi để điêu đứng đời"... Một sự trách móc đượm nỗi cảm thông song
không kém phần nghiêm khắc bởi bao hàm trong đó là thông điệp cô đọng bản chất
sự tích lẫn sự phán xét của lương tri. Tiếp theo đó, đặt mình vào tâm trạng và
thân phận của những người chốn bãi sông ngàn đời, nhà thơ thốt lên lời kêu gọi
Thủy thần - như một lời khấn, một lời cầu nguyện mang sắc thái ca dao dân ca
người Việt trước thiên tai:
Đừng nộ thêm nữa nước ơi/ Bắt làm sao được
người rời bãi sông...
Nhưng
điều bất ngờ mà nhà thơ hiện đại tạo ra lại chính ở hai câu kết mà từ lời khấn
đã trở thành lời thách thức:
Nước dâng cao mãi được chăng?/ Bờ đê cô gái
cười vang thúng thuyền...
Người
chiến thắng Thủy thần không phải là Sơn thần, mà là những cô gái làng chài bến
bãi với tiếng cười vang khỏe khoắn yêu đời! 5 yếu tố hiện thực của một không
gian xác định: nước, bờ đê, cô gái, tiếng cười, chiếc thuyền thúng, hình như
khi có tiếng "cười vang"
dân dã kia khiến chúng thoát khỏi tính chất cụ thể đơn lẻ của sự vật để mang ý
nghĩa khái quát rộng lớn về sức mạnh của nhân dân ; chúng được liên kết với
nhau không chỉ bắng vần điệu của hai câu thơ lục bát truyền thống khá ngọt ngào
mà còn bằng cách lập luận, bằng tư thế làm chủ thiên nhiên thực bay bổng của
con người: đầu tiên là sự thách thức, ngay sau đó là sự khẳng định sự chiến
thắng. Tiếng cười của cô gái không chỉ "vang thúng thuyền" mà như còn vang xa cả không gian: tiếng
cười đó đã có từ ngàn xưa Dựng nước...
2.
Có
thể chính cô gái đã "cười vang thúng
thuyền" lúc ban ngày kia, cũng là cô gái khi đêm về lại lặng lẽ bên
những luống hoa; cô gái sống cuộc đời bình dị và lam lũ của người dân làng hoa
quen "ăn nửa bữa, ngủ nửa giấc",
nhưng qua cái nhìn và trong tâm tưởng của thi sĩ, cô lại giống như một nàng
tiên dịu dàng mà mỗi động tác của cô bên từng gốc hoa, từng luống hoa khiến
lòng người phải rung động thổn thức! Nhà thơ không phải thi vị hóa công việc
vất vả của người trồng hoa, mà đang quan sát cảm thụ công việc ấy với tất cả sự
trìu mến và trân trọng tận đáy lòng - từng chữ thơ như cố nén sự nghẹn ngào của
tác giả cho thấy rõ điều đó... Phải chăng, người tự nhận là đã được sinh ra
"trên cầu dải yếm", trong xứ sở "Kinh thành cổ tích", nên mới có khả năng hiểu được "giấc ngủ hoa" và cả sự thức dậy
đáng yêu đến ứa lệ của nó lúc sớm mai:
Khi ngọn gió đêm ru giấc ngủ hoa/ Đòn gánh vẫn
cong đôi thùng tưới/ Cô gái làng hoa/ Khi ngọn gió cởi áo sương ban sớm/ Cánh
tay mềm nâng cắt những mềm hoa
Dường
như nhà thơ cảm nhận được trong từng tế vi xúc cảm của mình sự dịu dàng thận
trọng của cô gái trước sinh mệnh hoa yếu đuối mảnh mai - và đó là cơ sở tâm lý
nghệ thuật của một trong những câu thơ rất hay, nếu không muốn nói là hay nhất
của anh: "Cánh tay mềm nâng cắt
những mềm hoa"... Nguyễn Nguyên Bảy ở đây dường buông thả chữ nghĩa,
anh để sự giao cảm thần bí giữa thiên nhiên và con người tự bộc bạch; nhưng lúc
này, nhà thơ cũng không hoàn toàn đặt mình vào cảnh ngộ, anh vẫn là người quan
sát tinh tế vẻ đẹp của hoa, người trồng hoa và cả chính lòng mình!
Nhà
thơ đến cuối bài thơ mới cho người đọc biết, cả đêm qua anh đã đắm chìm trong
công việc của người trồng hoa ở một vùng đất nổi tiếng: làng hoa Ngọc Hà.
Cô gái Ngọc Hà/ Trọn một ngày sống cuộc đời
hoa/ Trọn cuộc đời sống cuộc đời hoa/ Làng Ngọc Hà
Cái
thú vị của khổ thơ này không khó nhận ra: mở đầu là "Cô gái Ngọc Hà", sau cùng là "Làng Ngọc Hà" mà xen ở giữa là hai câu thơ nói về sự hữu hạn
của đời người (dù là trọn một ngày hay trọn một đời cũng chẳng khác gì nhau,
lại đặt bên cạnh sự mong manh của "cuộc
đời hoa") - nhưng chính "Cô
gái Ngọc Hà" và địa danh "Làng
ngọc Hà" sẽ tạo nên sự bất tử cho một giá trị văn hóa, cho tinh thần
trọng thị Cái Đẹp!
Bao
vất vả gánh hàng hoa ai biết/ Ngũ sắc hoa chào mời/ Cùng nụ cười cô gái làng
hoa
Ba
chữ "Làng Ngọc Hà" sẽ còn
đọng lại tâm trí người đọc như dư vị ngọt ngào của làng hoa mang tên sông Ngọc
từ thuở xưa thuộc vùng Thập tam trại... Làng hoa Ngọc Hà nay đã không còn đất
để trồng hoa nữa, nhưng ký ức đẹp đẽ về nó thì đã bước vào thơ văn, vào nhạc
họa suốt gần một thế kỷ qua - như những tán lá mát rượi che cho bao nỗi gay gắt
phiền muộn, kể cả máu lửa của cuộc đời nơi phồn hoa đô hội; sản phẩm của các
làng hoa trong đó có làng hoa Ngọc Hà theo chân những người phụ nữ gánh hoa tỏa
khắp các phố phường đem đến cho con người niềm vui, sự bình yên, niềm hy
vọng... Cả "Cuộc đời hoa"
được dệt nên bởi từng ngày sống trọn "cuộc
đời hoa" đó đã từng là nguồn sống của biết bao con người, là đầu mối
nhân duyên cho biết bao tình yêu lứa đôi và hạnh phúc gia đình...
Bài
thơ kết thúc nhưng lại mở ra bao cảm nghĩ dư ba xốn xang, có khả năng giúp ta
lắng lòng lại trước vẻ đẹp của Hoa và vẻ đẹp của Người trồng hoa bên cạnh sự xô
bồ chói gắt của thực tại đời sống...
3.
Bài
thơ bốn câu giống như một thứ kệ của kinh phật, một bài châm ngôn, càng ngẫm
nghĩ càng thấm thía cái dư vị của nó. Một chiếc chân hương quen thuộc, quen
thuộc đến tầm thường mà hàng ngày ta vẫn thấy nhưng không thèm để ý, qua cái
nhìn của thi sĩ, nó có một cuộc sống riêng, một thân phận riêng, một khoảnh đời
riêng xem ra không tầm thường chút nào:
Cháy rồi cháy hết phần thơm
Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi
Rồi mầu phẩm nhuộm phai đi
Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương
Thoạt
tiên, tác giả đứng vào vị trí của cây hương để cảm nhận cuộc sống của nó - từ
lúc bắt đầu cháy, "cháy hết phần
thơm", tới lúc "đứng lặng nỗi
buồn vô vi", rồi "màu phẩm
nhuộm phai đi"... Sau cùng, tác giả thoát khỏi tâm trạng của nó để rút
triết lý: "Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng
chân hương". Cây hương đã hoàn tất sứ mệnh của nó, và chân hương tồn
tại như một minh chứng về sự hiện hữu cũng như sự cần thiết của nó trong cuộc
đời. Hơn nữa, trong thực tế, những chân hương cắm trong một bát hương cũng có ý
nghĩa thiêng liêng, và khi người ta buộc phải thay bát hương cần làm thủ tục
khá cầu kỳ, và đặc biệt là phải có những chân hương cũ... Ở đây ta hơi bất ngờ
trước một khái niệm- tuy phù hợp với khung cảnh hương tàn khói lạnh và tâm
trạng chung, song không dễ hiểu chút nào: Vô vi. Vô vi vốn là một khái niệm
trong sách Đạo đức kinh của Lão Tử nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự
nhiên, không làm điều trái tự nhiên. Nhưng theo tôi, ở bài thơ này, tác giả
không chủ đích hướng người đọc tới ý tưởng triết lý đó, mà chủ yếu tới một sự
suy ngẫm về nhân tình thế thái, về giá trị đích thực của con người... Nhưng, để
có thể đánh giá nổi một sự vật, một con người cho đúng cách, đúng đạo lý, thì
trước hết lại cần phải có thái độ vô vi rất Lão Tử đó của chân hương: hãy tuân
theo lẽ Tự nhiên công bằng mà xem xét, cư xử, đánh giá, định lượng mọi người
mọi vật ở quanh ta, và sau đó là chính bản thân ta...
Trong
những năm tháng rất xa đó, nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy sau khi thắp một nén
hương, đợi nó cháy hết đã gióng một hồi chuông báo động sớm cho sự suy đồi của
đạo lý ứng xử giữa con người với con người đang nhỡn tiền ngày hôm nay!
___________________________
* Nhà xuất bản Văn học. 2014. Xin xem thêm:
«Nơi ấy là kinh thành cổ tích: Thử khám phá chân dung thơ Nguyễn Nguyên Bảy»
tại sách này.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe nhạc phẩm CÁT BỤI
của Trịnh Công Sơn, qua tiếng hát Khánh Ly:
*
Mai An NGUYỄN ANH TUẤN
Địa chỉ: Phố Thái Hà, quận
Đống Đa, Hà Nội
Email: tranthanhban1956@gmail.com
Điện thoại: 091.217.49.47
........................................................................................
- Cập nhật từ messenger facebook Nguyễn Anh
Tuấn ngày 20.12.2022
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét