THỰC CHẤT CỦA
TƯ TƯỞNG TRƯƠNG TỬU
*
Nếu văn chương chỉ là chuyện độc đáo thì quả thật Trương Tửu rất
độc đáo. Trương Tửu đã tự tạo cho mình một bộ mặt riêng trong văn giới. Tiếc
thay cái độc đáo của Trương Tửu, cái ngón sở trường của Trương Tửu lại là một
thứ mà những người lương thiện không thể nào ưa được và chế độ chúng ta không
thể nào dung túng được.
Cách đây hơn hai mươi năm công chúng bắt đầu chú ý đến Trương
Tửu vì một loạt bài phê bình trên báo Loa. Loa là một thứ quái thai của của chế
độ cũ, một tờ báo loã lồ và dâm đãng, một tai hoạ cho các gia đình có con trai
con gái mới lớn lên. Loạt bài phê bình của Trương Tửu không dâm đãng nhưng ầm
ỹ. Loạt bài phê bình ấy tuy cũng chỉ nói đến sáu bảy nhà văn nhưng đều đặt dưới
cái nhan đề lớn là “Văn học Việt Nam hiện đại” và trong từng bài
dùng toàn những chữ to lớn: Hoàng Ngọc Phách là một nhà tiểu thuyết tâm lý;
Khái Hưng là một nhà tiểu thuyết triết học; Nhất Linh là một nhà cải cách xã
hội, v.v… Ông Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại quyển tư (tập hạ) nhận xét về
các bài phê bình của Trương Tửu có nói: “Ông dùng những lời to tát quá để phát
biểu ý kiến về những cái hết sức nhỏ trong một quyển sách. Có thể nói: ông là
người dùng dao mổ trâu để cắt tiết gà”. Lúc bấy giờ là năm 1935, công chúng tư
sản và tiểu tư sản còn rất thích Tự Lực văn đoàn. Trương Tửu cũng đề cao các
nhà văn trong Tự Lực văn đoàn. Nhưng mục đích chính không phải là thế. Trương
Tửu bắt đầu đề cao Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ là để có thể tiếp theo đó đề
cao Lan Khai mà uy tín đối với công chúng lúc bấy giờ không có bao nhiêu nhưng
lại là chủ bút báo Loa. Trương Tửu nói đến Lan Khai trong ba số báo liền mà nói
đến các nhà văn khác chỉ trong một hai số. Có thể nói đó là chuyến buôn lậu đầu
tiên của Trương Tửu.
Kế đó Trương Tửu bước vào làng tiểu thuyết, cũng vẫn với một cái
kiểu có thể nói là rất Trương Tửu, nghĩa là rất ầm ỹ, tưởng chừng như có đủ cả
xập xoã, thanh la mà thực chất lại là lừa bịp. Ầm ỹ ở những cái nhan đề chỉ
nhằm một mục đích là đánh lừa người đọc; nó cùng một loại với cái lối quảng cáo
cao đơn hoàn tán ngày trước và cái lối bịa chữ nước ngoài để đặt tên các thứ
thuốc mình pha chế, một mánh khoé của bọn đầu cơ vừa bị lôi ra trước toà án.
Trương Tửu có viết một cuốn tiểu thuyết nhan đề là Khi chiếc yếm rơi xuống.
Thực ra thì đó không phải là một câu chuyện khiêu dâm. Nhưng Trương Tửu đã cố
tìm một cái nhan đề cho hợp với khẩu vị đương thời. Đó là nói nhan đề. Về nội
dung lại có một lối lừa bịp khác. Thời bấy giờ là thời Mặt trận Bình dân, phong
trào đấu tranh của quần chúng do Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo vang dội đến
mọi tầng lớp nhân dân. Trương Tửu vì vậy cũng viết tiểu thuyết nói đến người
nghèo, nói đến các vấn đề xã hội. Nhưng vì thiếu chân tình, thiếu thực sự đi
vào quần chúng nên tiểu thuyết của Trương Tửu không có giá trị gì. Chẳng những
thế Trương Tửu còn khuyến khích những hành động lưu manh. Trong quyển Khi người
ta đói (1940), một nhân vật của Trương Tửu tên là Kiệt bênh vực một tên kẻ cắp
bị đánh rồi cho nó năm xu và mắng: “Đồ mọi! ăn cắp có chiếc đèn xe đạp mà
cũng để nó bắt được”. Kiệt lại còn nói thêm: “Lương thiện làm cái gì!
Mày có biết những đứa nào ở đời này được gọi là lương thiện không? Những thằng
hèn! Những thằng yếu …” (1)
Đúng là cùng một triết lý với cái kiểu người hùng của Lê Văn
Trương. Chúng ta nhớ Trương Tửu đã từng cộng tác với Lê Văn Trương trên tờ Ich
hữu. Có thể nói đó là cái triết lý của bọn lưu manh vẫn ngự trị trong xã hội tư
sản và trong văn học tư sản như Gooc-ki đã nhận định trong bản báo cáo đọc
trước Đại hội nhà văn Xô-viết lần thứ I. Nhân tiện cũng nên nhớ rằng cái thứ
triết lý này sống dai lắm và cho đến gần đây do sự sơ suất của ta nó vẫn còn
được tuyên truyền công khai trên sân khấu Hà Nội trong vở Thầy Tú.
Nhưng viết tiểu thuyết không được mấy ai chú ý, càng về sau
Trương Tửu càng chuyên về lý luận phê bình.
Trương Tửu trong khi viết lý luận phê bình thường muốn tỏ ra
thông minh. Nhưng thông minh Trương Tửu chủ yếu là cái thông minh của bọn đầu
cơ buôn lậu. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật càng thông minh theo kiểu ấy
càng chết. Vô luận sáng tác, biểu diễn hay nghiên cứu, phê bình, điều kiện đầu
tiên là phải trung thực. Chúng ta đều biết một cố tật của Trương Tửu là hay
trích dẫn sách vở. Trong một xã hội trình độ văn hoá chung rất thấp, cái lối
trích dẫn như vậy không phải không có một sức hấp dẫn nhất định. Trương Tửu đã
trích dẫn lung tung đủ các thứ sách đông tây kim cổ. Trên cái đà trích dẫn ấy
nhiều khi Trương Tửu đã đi lạc hẳn ra ngoài đề. Trong nhiều quyển sách gọi là
nghiên cứu văn học, Trương Tửu đã chồng chất một mớ kiến thức lộn xộn về văn
học, về sử học, về triết học, về tâm lý học, vơ vét chỗ này một ít, chỗ kia một
ít. Tình trạng học vấn của Trương Tửu như vậy, chúng ta không trách Trương Tửu,
đó là cái tội của bọn thống trị cũ. Nhưng cái điều không thể nào dung thứ được
là cái dụng ý núp đằng sau tên tuổi của người khác uy thế của người khác để loè
người đọc, thậm chí để doạ người đọc. Một việc khá điển hình là cái việc Nguyễn
Bách Khoa tức Trương Tửu bắt mạch Thuý Kiều, ghi bệnh trạng Thuý Kiều y như một
bác sĩ. Một đồng chí trước kia làm việc ở nhà Hàn Thuyên cho biết sở dĩ như vậy
là chỉ vì trong bạn bè của Trương Tửu có một người là bác sĩ đã đưa cho Trương
Tửu mượn một quyển sách về bệnh thần kinh, Trương Tửu đọc mấy hôm thế là tự
nhiên Thuý Kiều thành ra người có bệnh. Về nhân vật Thuý Kiều Trương Tửu viết
trong quyển Nguyễn Du và Truyện Kiều (1943) : “Tất cả những
triệu chứng ấy (buồn não, lo sợ, hoảng hốt, dễ khóc, dâm đãng, trâng
tráo…) đều là những hình thức phát hiện của một thứ bệnh trạng thần kinh mà y
học Tây phương gọi là trạng thái u uất (hystérie). Đó là trạng thái của người
con gái đến thời kỳ xuân tình phát động mà hoặc vì thân thể và thần kinh hệ yếu
quá, không đủ lực chịu đựng sức tiến triển của cơ quan sinh dục hoặc bị lễ giáo
kiềm chế, tính dâm đãng không thực hiện được nên đâm ra người gầy, mắt như có
nước trong con ngươi, xanh vàng cả mặt và tay chân. Ở con bệnh, chất máu đỏ bị
úa đi, sự tuần hoàn thiếu đều đặn, cơ quan tiêu hoá chậm hoạt động, cơ quan
sinh dục luôn luôn náo động trong thời kỳ phát triển. Nó làm cho người khi vui
quá độ, khi buồn quá mức, hay hờn dỗi khóc lóc, đêm ngủ thường giật mình tức
ngực…”
Có lẽ không có quyển nghiên cứu văn học nào khác mà lại có cái
lối phân tích nhân vật lạ lùng như vậy. Lạ lùng hơn nữa là người viết vẫn tự
cho mình là nhà phê bình mác-xit biết nghiên cứu văn học theo duy vật lịch sử,
theo quan điểm đấu tranh giai cấp. Ngày xưa mà tự nhận như thế cũng đã khó
nghe. Thế mà cho đến gần đây Trương Tửu vẫn tự nhận như thế. Trong quyển Truyện
Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) Trương Tửu tuy có nói lên một cách
chung chung những sai lầm của Nguyễn Bách Khoa nhưng vẫn khẳng định Nguyễn Bách
Khoa đã “đặc biệt nhấn mạnh vào quan điểm đấu tranh giai cấp”, đã “cố
gắng đi theo ý thức hệ của giai cấp công nhân”. Đi theo hay là đi ngược,
một khi Trương Tửu tự tiện gán cho ý thức hệ của giai cấp công nhân những điều
kỳ quặc như thế?
Đến đây chúng ta thấy rõ cái bản chất huênh hoang bịp bợm của
Trương Tửu đã không chịu dừng lại trong phạm vi văn học. Nó đã rất nhanh chóng
phát triển sang địa hạt chính trị. Với cái tật cố hữu muốn ăn to mà không cần
bỏ vốn, muốn trở thành lãnh tụ, chí ít là thành một lãnh tụ cỏn con mà không
cần phải thực sự làm cách mạng, Trương Tửu đã rơi tõm vào cái lối mác-xit sách
vở, rồi lại từ đó rơi vào khuynh hướng tờ-rốt-kít. Bởi vì ngay từ hồi bấy giờ,
muốn thực sự làm cách mạng thì chỉ có một con đường là đi với Đảng cộng sản
Đông Dương. Mà đi với Đảng thì phải thực sự dũng cảm, phải chịu đựng gian khổ,
phần lớn lại là những gian khổ âm thầm. Điều đó không thích hợp với bản chất
Trương Tửu. Trương Tửu bèn giải quyết vấn đề bằng cách tự phong cho mình là
cách mạng hơn Đảng mà không cần phải làm cách mạng. Do đó mà đối với Đảng có
cái thái độ coi thường, khinh miệt, hằn học là chuyện tất nhiên. Lại do đó mà
đi đến chỗ biến thành công cụ tự giác hay không tự giác trong tay đế quốc, đó
cũng là chuyện cơ hồ đã thành quy luật.
Nhưng trong phạm vi bài này tôi chưa muốn đi sâu vào những hoạt
động chính trị của Trương Tửu thời bấy giờ, cũng chưa muốn nói nhiều về những
bài của Trương Tửu đề cao Tờ-rốt-ki, đề cao bọn tờ-rốt-kít và đả kích Đảng trên
các báo như Quốc gia, Thời thế. Lúc bấy giờ là lúc Đảng cộng sản Đông Dương kêu
gọi mọi tầng lớp nhân dân kể cả tư sản, thành lập Mặt trận Dân chủ để đòi tự do
dân chủ, chống phản động thuộc địa. Kế đó phát-xít Nhật tràn vào Đông Dương,
Đảng lại kêu gọi toàn dân tập hợp trong Mặt trận Việt Minh để đánh Pháp đuổi
Nhật. Trương Tửu và bọn tờ-rốt-kít đả kích Đảng, cho là Đảng đã đi vào con
đường cải lương, con đường dân tộc, không còn là Đảng cách mạng nữa. Họ đưa ra
khẩu hiệu thành lập Mặt trận công nông, có vẻ cách mạng lắm. Nhưng một khẩu
hiệu như thế ném ra giữa lúc mọi lực lượng đấu tranh cần phải chĩa vào bọn phản
động thuộc địa và bọn phát-xít chính là chia rẽ hàng ngũ cách mạng, đi ngược
lại quyền lợi của công nông.
Trên thực tế bọn họ đều là bọn phá hoại cách mạng. Ngay trên địa
hạt học thuật văn chương, một điều đáng chú ý là giữa lúc Đảng phát động phong
trào đánh Pháp đuổi Nhật, giữa lúc lòng tự hào dân tộc là điều tối cần cho cách
mạng thì nhóm Hàn Thuyên do Trương Tửu điều khiển in ra những quyển sách của
Nguyễn Tế Mỹ bôi nhọ Hai Bà Trưng, những vị anh hùng dân tộc và quyển sách của
Nguyễn Bách Khoa bôi nhọ Truyện Kiều, một giá trị lớn của văn hoá dân tộc. Điều
nguy hiểm là lại nhân danh chủ nghĩa Mác mà bôi nhọ. Các đồng chí Văn Tân và
Nguyễn Hồng Phong cho biết lúc bấy giờ các chiến sĩ cách mạng của ta trong các
nhà tù của đế quốc đã rất lấy làm công phẫn. Tờ báo Giòng sông Công xuất bản bí
mật ở trại giam Bá Vân đã phê phán nghiêm khắc hai quyển sách của Nguyễn Tế Mỹ
và Nguyễn Bách Khoa. (2)
Tuy vậy, sau khi Hội văn hoá cứu quốc được thành lập trong Mặt
trận Việt Minh, nhằm tập hợp mọi nhà văn hoá yêu nước, thể theo tinh thần của
Đảng không muốn bỏ sót một ai, Hội đã cử người đến gặp Trương Tửu. Trương Tửu
vẫn nhất định không nghe. Chẳng những thế, có lần Nhật khủng bố, nhiều thanh
niên yêu nước bị bắt, bị tra tấn dã man, Trương Tửu không những không chút đau
xót mà theo các đồng chí Nguyễn Đỗ Cung, Bùi Huy Phồn thuật lại, lúc đó Trương
Tửu còn có những cái cười gằn khoái chí ý nói: ai bảo dại cho chết!
Cách mạng tháng Tám thành công ngày 19-8-1945. Ba tuần sau, vào
ngày 10-9-1945, Trương Tửu xuất bản quyển Tương lai văn nghệ Việt Nam.
Trong quyển sách cũng như trong lời tựa hoàn toàn không có lấy một lời nói đến
Cách mạng tháng Tám. Trái lại Trương Tửu luôn luôn nói đến “cái hôm nay đen tối
và chật hẹp” chính giữa lúc dân ta sau tám mươi năm nô lệ tối tăm đang vùng dậy
trong ánh sáng tưng bừng của một thời đại mới. Quan điểm văn nghệ của Trương
Tửu trong quyển này là một quan điểm phản động. Trong số các nhà văn, nhà tư
tưởng Trương Tửu đề cao, bên cạnh Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Tôn-stôi còn có cả
Man-rô (A. Malraux), Pờ-lit-ni-ê (Charles Plisnier), Ji-đờ (André Gide), Trần
Độc Tú. Trương Tửu nhắc đi nhắc lại lời Ji-đờ khuyên các nhà văn, nhà nghệ sĩ
hãy “gieo rắc vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản kháng”. Phản
kháng ai? Phản kháng cái gì? Quan điểm văn nghệ ấy lồng vào trong một quan niệm
mơ hồ về thù bạn đã là chuyện nguy hiểm, trong hoàn cảnh cách mạng vừa giành
được chính quyền và đang phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, với một nạn
đói kinh người và đủ các thứ khó khăn thì một quan điểm văn nghệ như vậy rõ
ràng là phản động. Cái nguy hiểm là nó lại khoác một cái áo rất cách mạng. Theo
Trương Tửu tân văn nghệ phải có bốn yếu tố là: cách mạng, quần chúng, xã hội
chủ nghĩa và khoa học. Tuyệt nhiên Trương Tửu không nói đến yếu tố dân tộc. Để
thực hiện đường lối văn nghệ ấy, Trương Tửu chủ trương thành lập một đoàn Tân
Văn Nghệ không chịu sự lãnh đạo của một đảng nào hết mà chỉ có thể hợp tác với
các đảng chính trị “một cách hãn hữu”. Chủ trương về tổ chức này cũng như quan
điểm cho văn nghệ là “chất men bất phục tòng và phản kháng” phải đặt nó vào
hoàn cảnh hồi tháng 9-1945 mới thấy hết cái tác hại của nó. Giữa lúc Đảng đang
ra sức tập hợp lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân chiến đấu với quân thù, một
chủ trương như vậy thật là nguy hiểm. Những ý kiến này của Trương Tửu về đường
lối văn nghệ, về tổ chức văn nghệ sau này đã hiện lại nguyên hình trong Giai
phẩm. Đó cũng là một điều nên chú ý để thấy nguyên nhân sâu xa của Nhân văn -
Giai phẩm. Nguyên nhân ấy dứt khoát không phải là những sai lầm của chúng ta mà
chính là những tư tưởng phản động vốn có từ lâu của những người cầm đầu Nhân
văn - Giai phẩm.
Trên thực tế, Trương Tửu cũng đã gây nhiều rắc rối cho công tác
văn hoá của Đảng. Giữa chủ trương “cách mạng xã hội” đầu lưỡi của Trương Tửu
trong “Uỷ ban Văn hoá Bắc Bộ” và chủ trương văn hoá phục vụ sự nghiệp cứu nước
của Hội Văn hoá cứu quốc đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay go. Có thể nói
Trương Tửu đã ráo riết giành quyền lãnh đạo văn nghệ với Đảng. Chúng ta đã phải
đấu tranh lại về lý luận và cả về tổ chức. Một mặt đồng chí Đặng Thai Mai trên
hai số báo Tiên phong đã phân tích và phê phán những quan điểm của Trương Tửu
trong Tương lai văn nghệ Việt Nam. Một mặt Hội Văn hoá cứu quốc đưa ra chủ
trương thành lập Uỷ ban vận động Hội nghị văn hoá toàn quốc để đoàn kết toàn
thể giới văn hoá. Trương Tửu bị thất bại. Nhưng Trương Tửu vẫn không ngớt đả kích
vào sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng, nhất là đả kích cái chủ trương kêu gọi tinh
thần yêu nước do Đảng đề ra.
Một năm sau, vào tháng 8-1946, trong quyển Văn hoá và Cách mệnh
của Đoàn xuất bản Việt Nam, Trương Tửu có viết một bài nhan đề là Nhà văn và
Cách mạng. Trong bài này, Trương Tửu nhận định tình hình văn học như sau: “Từ
tiết ngâu trước đến tiết ngâu này, được mùa Cách mạng thì lại mất mùa văn
chương sáng tác”. Nguyên nhân, theo Trương Tửu, là do ba cái phương châm
Dân tộc, Khoa học, Đại chúng. Trương Tửu viết “Từ khi có những khẩu hiệu này
thì các nhà văn sáng đã bối rối lại càng bối rối thêm”. Có thật như thế
không? Mười năm về sau trong Giai phẩm mùa thu tập II, chính Trương Tửu cũng
thừa nhận rằng ba phương châm ấy đã có tác dụng hướng dẫn văn nghệ đi theo con
đường đúng. Cố nhiên lúc đó mới giữa mùa thu, Trương Tửu chỉ mới đả kích cán bộ
lãnh đạo. Ba tháng sau, trong Giai phẩm mùa đông, Trương Tửu sẽ đả kích cả
đường lối lãnh đạo.
Trở lại hồi 1945-1946. Lúc bấy giờ chúng ta đặc biệt nhấn mạnh
phương châm dân tộc. Đồng chí Nguyễn Đình Thi viết trên báo Tiên phong : “Lúc
này chỉ văn nghệ cứu nước là văn nghệ cách mạng, lúc này không thể có văn nghệ
cách mạng nào ngoài con đường cứu nước”. Trương Tửu kịch liệt đả kích chủ
trương này. Trương Tửu viết : “Trong khi phần đông chúng ta chưa kịp nhận
thức tất cả nội dung danh từ cách mạng thì nhóm Tiên phong ném ra một lời giải
thích độc đoán: sáng tác để cứu nước”. Chủ trương ấy có độc đoán hay không,
chủ trương ấy đã có tác dụng đến cách mạng, đến văn nghệ cách mạng như thế nào,
thiết tưởng ngày nay mọi người đều đã rõ; thực ra ngay từ lúc bấy giờ mọi người
cũng đã rõ, trừ Trương Tửu và một số người như Trương Tửu cố tình không muốn
rõ. Trương Tửu cho rằng lúc bấy giờ là lúc phải “tranh đấu phá huỷ chế độ tư
bản để xây dựng một trật tự xã hội mới trong đó sẽ hết những sự bất bình đẳng,
bất công, bóc lột, đè nén”, nghĩa là phải tiến ngay lên chủ nghĩa xã hội.
Giá thử cách mạng chiều theo Trương Tửu, nghĩa là giá thử từ 1945 chúng ta đã
làm ngay những việc chúng ta đang làm bây giờ ở miền Bắc như xây dựng mậu dịch
quốc doanh, cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa v.v… thì tình hình sẽ
rối reng như thế nào? Và kết quả cuối cùng sẽ là xây dựng chủ nghĩa xã hội hay
khôi phục chủ nghĩa thực dân? Vì giữa lúc Trương Tửu ném ra cái chủ trương tiến
ngay lên chủ nghĩa xã hội thì quân đội viễn chinh của Pháp đã gây chiến ở miền
Nam và đang hàng ngày khiêu khích chúng ta ngay giữa thủ đô Hà Nội! Trái lại
ngày nay trong khi miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, và Đảng lãnh đạo chúng ta
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì Trương Tửu lại kêu rằng chúng ta tiến lên nhanh
quá!
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong hoàn cảnh khó khăn chung,
Đảng và Chính phủ vẫn hết sức săn sóc, giúp đỡ để Trương Tửu tham gia kháng
chiến. Trước áp lực của kháng chiến, những tư tưởng đối địch với Đảng về văn
nghệ và chính trị có bị dồn lại trong con người Trương Tửu, nhưng chưa hề sụp
đổ, vì Trương Tửu thiếu tinh thần nỗ lực thật sự để cải tạo mình, thiếu khiêm
tốn học tập, thiếu dũng cảm nhận trách nhiệm, tich cực tham gia và đi sâu vào
thực tế chiến đấu sản xuất của quần chúng công nông binh. Qua ngôn ngữ, cử chỉ
hàng ngày cũng như qua các bài viết, bài giảng, những tư tưởng cũ vẫn bộc lộ
khá rõ. Đồng chí Nguyễn Sơn lúc bấy giờ làm Khu trưởng Liên khu IV đã gọi
Trương Tửu là “mượn màu duy vật đánh lừa con đen”. Nhưng kháng chiến
càng ngày càng thắng lợi, Trương Tửu dần dần cũng biết điều hơn nhất là từ sau
kỳ chỉnh huấn, Trương Tửu có vẻ nhích lại gần Đảng hơn. Tuy vậy vấn đề tư tưởng
trên căn bản vẫn chưa được giải quyết.
Cuối năm 1956, nhân dịp những sai lầm của đồng chí Sta-lin vừa
được Đảng Liên Xô phát hiện và những sai lầm về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn
tổ chức vừa được Đảng ta phát hiện, các thế lực phản động từ đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai đến những phần tử phản động trong giai cấp tư sản lợi dụng thời cơ
tấn công điên cuồng vào Đảng ta trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá. Những lúc như lúc ấy, người cán bộ đã tự nguyện phấn đấu cho cách mạng
dưới lá cờ của Đảng càng phải gắn bó với Đảng, càng phải ra sức bảo vệ Đảng. Đó
là thái độ của tuyệt đại đa số những đồng chí bị quy oan trong cải cách ruộng
đất. Vừa được trả lại tự do, mặc dầu trong lòng còn nhiều ấm ức chua xót, các
đồng chí ấy đã dứt khoát đứng vào vị trí chiến đấu, kiên quyết bảo vệ thành quả
của cách mạng, chống lại bọn phá hoại và ra sức giải thích, thuyết phục để bảo
đảm sản xuất, ổn định nông thôn. Người xưa cũng đã từng nói “Gia bần tri
hiếu tử”. Thái độ của Trương Tửu thì khác hẳn. Nhân lúc Đảng gặp khó khăn,
toàn bộ con người cũ của Trương Tửu lại vùng dậy hung hăng hơn bao giờ hết! Uất
ức vì bị chính nghĩa của cách mạng dồn ép, thái độ của nó lúc này là một thái
độ phục thù. Giọng nói của nó là một gịong nói hằn học. Cùng một kiểu với các
loại “con người” vùng dậy trong đám Nhân văn-Giai phẩm và có lẽ còn ở một một
mức độ cao hơn đa số những “con người” kiểu ấy, nó cũng đòi được “làm người”
được “là mình” nghĩa là được đả kích Đảng tiền phong và chính quyền cách mạng.
Trong ba tập Giai phẩm liên tiếp nó đả kích thậm
tệ vào toàn bộ cán bộ đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất
mác-xit, tính chất vô sản của Đảng. Vẫn một lối huênh hoang và bịp bợm cũ, nó
làm như chỉ có nó mới là triệt để cách mạng. Một mặt nó bóp méo, bịa đặt sự
việc để vu khống. Ví dụ nó dựng đứng lên rằng đồng chí Tố Hữu đã chỉ thị bỏ hết
tranh tĩnh vật trong triển lãm mỹ thuật 1955, mặc dầu trong triển lãm ấy rõ
ràng vẫn có tranh tĩnh vật của Trần Mạnh Tuyên và Hữu Thanh. Một mặt khác nó
xuyên tạc lời nói của các lãnh tụ. Nó trích dẫn lời Mác đả kích chính quyền
phản động cũ để gián tiếp đả kích chính quyền ta. Lê-nin nêu nguyên tắc sự
nghiệp văn học phải thành “một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô
sản, phải thành một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc” trong bộ máy cách mạng.
Kế đó Lê-nin nhắc đến đặc điểm của văn học khiến văn học không thể rập khuôn
với những bộ phận khác trong sự nghiệp Đảng của giai cấp vô sản. Nhưng sau khi
nhắc đến đặc điểm của văn học, Lê-nin lại chỉ rõ những đặc điểm ấy không lật đổ
được nguyên tắc đã nêu trên kia là sự nghiệp văn học nhất định phải là một bộ
phận công tác của Đảng gắn chặt với các bộ phận khác.(3) Trương Tửu không hề
nhắc đến phần đầu và phần cuối trong đoạn văn này mà tách riêng cái câu nói về
đặc điểm, nêu câu ấy lên làm tiêu đề và nhắc đi nhắc lại, làm như đó là phần
chính trong ý kiến Lê-nin.
Song song với cái lối dựng đứng, vu khống ấy, cái lối trích dẫn
gian dối ấy, Trương Tửu ra sức phỉnh nịnh văn nghệ sĩ, biến văn nghệ sĩ thành
một thứ người trời cực kỳ sáng suốt và kích thích các thứ tư tưởng và hoạt động
vô chính phủ bằng cách đề cao cái “dũng cảm” đả kích vào Đảng, vào chế độ.
Cố nhiên những tư tưởng đối địch với Đảng ấy đều được dán cái
nhãn hiệu suông là “thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng” theo quy luật chung của tất
cả các thứ hàng lậu. Với tất cả những mưu mô ấy Trương Tửu cũng định kiếm chác
một chuyến, may ra lật đổ được cái tổ chức của Đảng trong văn nghệ, giành lấy
quyền lãnh đạo, trở nên một thứ lãnh tụ văn nghệ và nếu thời cơ thuận tiện hơn
nữa, nó sẽ còn kiếm chác hơn nữa, biết đâu…
Song như chúng ta biết, mọi việc đã không diễn ra theo ý định
của Trương Tửu. Mặc dầu Đảng có sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn
tổ chức, các tầng lớp nhân dân trước hết là các tầng lớp công nông binh đông
đảo, đều thấy không thể lẫn lộn bản chất những sai lầm của Đảng với những tội
ác của quân thù, đều thấy uy tín của Đảng, lực lượng của Đảng là cái vốn quý
nhất của toàn dân. Điều đó đã được chứng thực trong hơn một phần tư thế kỷ và
là một bảo đảm chắc chắn cho tương lai. Lòng tin tưởng sâu sắc ấy của các tầng
lớp nhân dân đã bẻ gãy những mưu toan tối tăm của các thế lực phản động.
Song cũng như những phần tử khác cầm đầu Nhân văn - Giai phẩm,
Trương Tửu không hề tỉnh ngộ trước những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đảng và
nhân dân. Trương Tửu vẫn tiếp tục phá phách ở Đại học, tiếp tục gieo nọc độc
vào tư tưởng sinh viên, gây đủ thứ khó khăn cho lãnh đạo và để đạt được mục
đích phá hoại ấy, Trương Tửu đã không từ chối cả những thủ đoạn đê hèn như gian
lận trong việc chấm thi để cố làm cho Phùng Quán trúng tuyển vào Đại học. Việc
này báo Hà Nội hằng ngày đã từng vạch rõ.
* *
*
Chúng ta đã thấy ngay từ đầu, Trương Tửu đã mang vào trong văn
học các ngón sở trường của bọn gian thương. Cho nên mặc dầu có chút thông minh,
mặc dầu thỉnh thoảng có một hai điều khám phá, nhất định Trương Tửu không thể
tạo nên được những gì có giá trị chân chính. Bước sang địa hạt chính trị,
Trương Tửu vẫn không ngừng phát triển những ngón sở trường ấy. Do đó trong các
hoạt động văn học về sau, Trương Tửu lại càng thiếu trung thực, càng tìm mọi
cách xoay xở.
Có thể nói một đặc điểm của Trương Tửu là thái độ lật lọng đến
mức vô liêm sỉ. Trong các vấn đề văn học thực ra thay đổi ý kiến cũng là chuyện
thường xảy ra và nếu có những ý kiến không đúng về một nhà văn, một tác phẩm
thì cũng cần phải thay đổi. Nhưng đối với một bài văn, một bài thơ chúng ta
thích, nó cũng như đối với một người yêu. Dầu biết là người ấy có vấn đề cần
phải cắt đứt thì cũng là chuyện đứt ruột đi. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện
phim Liên-xô Người thứ 41. Gỡ mình cho thoát cái ám ảnh của một câu thơ có khi
cũng ray rứt như vậy. Đằng này với Trương Tửu, thay đổi ý kiến y như chuyện trở
bàn tay. Nói ngược cũng được, nói xuôi cũng được, miễn nói ngược hay nói xuôi
đều phải phục vụ cho cá nhân Trương Tửu, cho những mưu đồ chính trị phản động
của Trương Tửu.
Năm 1935, Trương Tửu hết lời đề cao Tự Lực văn đoàn để tự đề cao
mình và đề cao Lan Khai. Nhưng liền sau đó và nhất là trong Mùa gặt mới số 2
năm 1940 Trương Tửu lại chuyển sang đả kích Tự Lực văn đoàn kịch liệt. Trong
chỗ đả kích cũng có những ý kiến đúng, nhưng động cơ không phải là vì chân lý
mà vì muốn tỏ ra mình là người triệt để cách mạng, triệt để chống tư sản, không
“cải lương” như Đảng cộng sản Đông Dương.
Đối với Truyện Kiều và Nguyễn Du cũng một sự tráo
trở như vậy. Trước kia Trương Tửu đã mạt sát Nguyễn Du không còn tiếc một lời
nào. Trương Tửu đã từng viết: “Một xã hội ốm, một đẳng cấp ốm, một cá tính
ốm, tất cả Truyện Kiều là ở đó”; “Đó là một sinh hoạt cằn cỗi và xáo
loạn, một tư tưởng nhát hèn và uỷ mị, một tâm lý tuỳ thời và ích kỷ, Truyện
Kiều là kết tinh của ba yếu tố suy đồi ấy” ; “Truyện Kiều là một kết
tinh phẩm của một chặng đường suy đồi nhất trên trường kỳ tiến hoá của cá tính
Việt Nam”. Nghĩa là ngược hẳn lại những điều Trương Tửu sẽ khẳng định sau
này trong quyển Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du : “Nguyễn Du
tin ở con người tin ở tài năng và tình cảm tin ở ngày mai. Nguyễn Du tin rằng
con người thắng được mệnh, đổi được nghiệp bằng sức lực bản thân mình. Mặc dầu
là tiếng đoạn trường, Truyện Kiều chủ yếu vẫn là một tiếng nói lạc quan”; “Truyện
Kiều là bức tranh trung thành của thời đại Tây Sơn, tiếng nói trung thành của
quần chúng nhân dân đã làm ra phong trào Tây Sơn…” ; “Nguyễn Du đã ghi
lại được quá trình thành bại của phong trào quần chúng vĩ đại ấy với tất cả
những quy luật lịch sử chi phối nó” ; “Truyện Kiều …có một ý nghĩa cách
mạng” ; “Truyện Kiều …có ý nghĩa và tác dụng như một hành động chính trị
phản kháng quyết liệt, táo bạo. Đó là tiếng hò vang chiến đấu hậu vệ của cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn thét vào mặt bọn vua quan cường hào nhà Nguyễn đang hì hục
tìm cách thủ tiêu mọi di tích của phong trào ấy”.
Đây chưa phải là nhận định về Truyện Kiều, nhưng hiển nhiên là
mạt sát Truyện Kiều như Trương Tửu là không đúng mà tâng bốc Truyện Kiều như
Trương Tửu cũng không đúng.
Tại sao lại có sự thay đổi hẳn đi như vậy ? Lúc này là năm 1955,
chúng ta vừa mới tiếp quản Hà Nội, tiếng vang của Điện Biên Phủ còn rất lớn;
đối với cách mạng, giai cấp tư sản chưa có những phản ứng mạnh. Trương Tửu nghĩ
rằng đi với Đảng thì kiếm chác được khá hơn. Trương Tửu viết quyển này là một
số ý kiến của đồng chí Trường Chinh phát biểu trong một buổi toạ đàm thân mật.
Đại ý đồng chí Trường Chinh nói: từ lâu nông dân ta vẫn rất thích Truyện Kiều,
vậy Truyện Kiều có cái gì mà khiến nông dân thích như thế, chúng ta nên chú ý
điều đó. Trương Tửu viết: “Câu nói giản dị mà sâu xa của ông Trường Chinh đã
vạch ra cái hướng tìm hiểu Truyện Kiều đúng nhất, căn bản nhất”. Tiếp thu ý
kiến của đồng chí Trường Chinh là đúng nhưng vì thiếu thật thà và theo thói
thường xưa nay của Trương Tửu là cứ muốn tố thêm vào, muốn thổi phồng lên,
Trương Tửu đã đi đến chỗ xem Truyện Kiều là bức tranh ghi lại trung thành cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn “với tất cả những quy luật lịch sử chi phối nó”, là “tiếng
hò vang chiến đấu hậu vệ” vân vân… Một điều cũng đáng chú ý là chỉ mấy
tháng sau khi xuất bản quyển sách này, trong đó Trương Tửu hết lời ca tụng
Đảng, ca tụng đồng chí Trường Chinh, là Trương Tửu đã chuyển giọng sang đả kích
Đảng, đả kích đồng chí Trường Chinh trong Giai phẩm.
Bởi vì theo Trương Tửu thì tình hình đã biến chuyển; đầu năm
1956 là một thời, đến giữa năm 1956 lại là một thời khác và lúc này mới thật là
cái thời Trương Tửu. Cũng vì vậy cho nên đầu 1956, theo một số anh em ở Đại học
cho biết, Trương Tửu vẫn bảo Trần Dần với nhóm Giai phẩm mùa xuân là “một lũ
đang đi tìm cái chết ngu xuẩn, điên cuồng, đẻ ra cái quái thai trong xã hội
Việt Nam, một cái mà nghìn đời người ta sẽ còn chửi”. Và Trương Tửu khoe
với người chung quanh rằng khi có người rủ Trương Tửu nhập bọn, Trương Tửu
không những từ chối mà còn “chửi cho một trận”. Trương Tửu chửi thật hay chửi
vờ. Thật khó mà biết. Chỉ biết mấy tháng sau, Trương Tửu không những nhập bọn
với Trần Dần mà còn đi xa hơn Trần Dần trên con đường đối địch với Đảng. Vì sao
vậy? Rõ ràng không có lý do nào khác ngoài cái lý do “bỉ nhất thời, thử nhất
thời” mà Phan Khôi đã nâng lên thành triết lý.
Cũng một cái lối lật lọng tráo trở, đổi trắng thay đen ấy trong
việc giảng dạy ở Đại học, năm sau giảng mâu thuẫn với năm trước, nhưng bao giờ
cũng có những lý lẽ rất hùng hồn và Trương Tửu không hề một lần nào đính chính.
Trước khi Nhân văn ra đời Trương Tửu trong khi giảng dạy vẫn đề cao Nguyễn Công
Hoan và Ngô Tất Tố. Nhưng đến năm sau thì không nhắc đến Ngô Tất Tố mà lại nhấn
mạnh tính chất lạc hậu của Nguyễn Công Hoan. Cũng chỉ bởi một lý do là Trương
Tửu đã trắng trợn trở về con đường đối địch với Đảng mà Nguyễn Công Hoan và Ngô
Tất Tố lại là những đảng viên. Hồi sau này Trương Tửu chỉ đơn thuần đề cao Vũ
Trọng Phụng, đề cao đến độ xem Vũ Trọng Phụng là sáng suốt hơn Đảng. Vũ Trọng
Phụng có sáng suốt hơn Đảng không? Chúng ta đều rõ Vũ Trọng Phụng tuy có đạt
được những thành công nhất định nhờ sức vang dội của phong trào đấu tranh của
quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng Vũ Trọng Phụng còn có những cái nhìn
rất lầm lạc về bọn thực dân là kẻ thù chính của dân tộc và về nhân dân lao động
là lực lượng chính của cách mạng.
Khi tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu mới in ra, trong
một buổi họp ở Đại học, Trương Tửu nhiệt liệt đề cao, Trương Tửu nói trên một
tiếng đồng hồ. Những anh chị em ngồi nghe tuy đều là người rất thích thơ Tố Hữu
nhưng thấy Trương Tửu đề cao quá đáng cũng ngường ngượng. Đồng chí Hoàng Xuân
Nhị đã phải phát biểu uốn nắn lại, đại ý nói thơ Tố Hữu rất hay nhưng có lẽ
chưa nên gọi là anh hùng ca của dân tộc. Trương Tửu đã từng tặng đồng chí Tố
Hữu một quyển sách của Trương Tửu về Truyện Kiều, trong lời đề tặng Trương Tửu
gọi đồng chí Tố Hữu là “người kế tục sự nghiệp của Nguyễn Du”. Nhưng chẳng mấy
chốc Trương Tửu lại viết một bài dài gửi cho toà soạn tập san Đại học sư phạm
chỉ trích rất gay gắt tập thơ của Tố Hữu!
Có người nhận định rằng Trương Tửu là duy tâm chủ quan về văn
học và cơ hội về chính trị. Chúng ta có thể nói một cách giản đơn hơn: Trương
Tửu là một tay bịp cả về văn học lẫn chính trị. Trương Tửu đã dùng chính trị và
nhất là văn học làm những thủ đoạn đầu cơ kiếm chác, do đó không thể nào không
đi vào con đường mác-xít giả hiệu nó cũng là con đường tờ-rốt-kít, con đường phản
cách mạng. Trương Tửu đã gây tác hại cho cách mạng, cho văn học cách mạng. Đảng
không phải không nhìn rõ cái thực chất ấy của Trương Tửu. Nhưng Đảng không hề
có thành kiến. Trên tinh thần nhân đạo chủ nghĩa cộng sản, Đảng đã hết sức cứu
Trương Tửu ra khỏi bùn nhơ, thân ái phê bình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho Trương Tửu phục vụ cách mạng. Nhưng Trương Tửu luôn luôn muốn trở về
con đường cũ. Trong đợt học tập và đấu tranh hiện nay, một lần nữa Đảng lại chỉ
cho Trương Tửu thấy cái nguy cơ của con đường cũ, không dứt khoát, không thực
thà từ bỏ nó đi thì vĩnh viễn làm hư hỏng cả cuộc đời. Liệu rồi Trương Tửu có
tỉnh lại hay không?
Dầu sao cuộc đời đang chuyển mạnh sang những chân trời mới ở
Việt Nam cũng như trên thế giới. Những thói đầu cơ kiếm chác trên lĩnh vực
chính trị và văn học cũng như trên lĩnh vực buôn bán kinh doanh, dầu khôn khéo
đến đâu, tài tình đến đâu cũng không cách gì tồn tại được nữa. Làm văn học hay
vô luận làm gì cũng chỉ một con đường là phải trung thực, phải thật thà đi với
Đảng, ngoài ra không còn con đường nào khác.
Nhưng vô luận thái độ Trương Tửu như thế nào, đã đến lúc trường
Đại học và các cơ quan văn học nghệ thuật, những trung tâm văn hoá của chúng ta
trong cả nước, phải chặn lại không cho Trương Tửu được tự do truyền bá những tư
tưởng phản động, những tác phong đồi bại. Không thể nào coi nhẹ tác động nguy
hại của tư tưởng Trương Tửu. Bản chất tờ-rốt-kít của nó khiến nó có sức hấp dẫn
đối với những đầu óc “yêng hùng” vốn bạc nhược, vốn ngại gian khổ, trốn trách
nhiệm, nhưng lại huênh hoang khoác lác, muốn tự phong cho mình là cách mạng hơn
Đảng, cộng sản hơn Đảng và từ đó đi dần vào con đường chống Đảng, chống chủ
nghĩa xã hội.
Báo Nhân dân từng vạch rõ Lời mẹ dặn của Phùng Quán chỉ là lời
“mẹ mìn” Trương Tửu. Những câu thơ ầm ỹ của Trần Dần, Lê Đạt, các kiểu kêu gào
hùng hổ Hãy đi mãi, Bay cho cao! Bay cho xa! Bên cạnh những lời vu khống chế độ
chúng ta, nào cuộc sống hàng ngày nhí nhách, nào công thức xỏ giây vào mũi,
cũng đều sặc mùi tờ-rôt-kít. Loại nọc độc này rất dễ nhiễm mà lại rất khó trừ.
Nó không phải chỉ đưa người ta đến chỗ ngông cuồng mà còn có thể đưa người ta
vào con đường tội lỗi. Chúng ta không thể nào để cho họ tiếp tục đầu độc công
chúng nhất là đầu độc lớp thanh niên yêu quý của chúng ta.
- Nguồn: Tạp chí Văn Nghệ, Hà Nội, s. 11 (tháng 4/1958)
-----------
CHÚ THÍCH:
(1) Trích theo Vũ Ngọc Phan. (nguyên chú của Hoài Thanh)
(2) Xem Chống quan điểm phi vô sản về văn nghệ và chính trị, Nhà
Sự Thật xuất bản (nguyên chú của Hoài Thanh)
(3) Xem cả đoạn văn này của Lê-nin trong quyển Tổ chức của Đảng
và văn học Đảng, nhà xuất bản Sự Thật. (nguyên chú của Hoài Thanh)
- Các bài viết về Chuyện làng văn0
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:
Vũ Thị
Hương Mai giới thiệu
Tác giả: Hoài Thanh
- nguồn facebook: Lại Nguyên Ân
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét