VỀ TUẦN TRIỆT
TRONG BỘ MÔN TỬ VI
Trong những bài viết
trước chúng ta đã nói qua về nguồn gốc và ý nghĩa nguyên thủy của Tuần Trung
Không Vong và Triệt Lộ Không Vong. Hôm nay chúng ta sẽ nói về Tuần Triệt trong
bộ môn Tử Vi.
Như đã từng trình bày
rồi, ý nghĩa rốt ráo và vai trò của Tuần Triệt trong một lá số có thể chốt lại
trong hai câu: Tuần án ngữ thì ngoài không thể xâm nhập vào trong. Triệt án ngữ
thì trong không thể lọt ra ngoài.
Nếu bạn không biết tóm
lược trên từ đâu mà có thì có nghĩa là bạn chưa có cơ hội đọc qua những bài
viết trước. Như vậy thì xin bạn vui lòng đọc bài Tuần Trung Không Vong:
Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa và bài Triệt Lộ Không Vong: Nguồn Gốc Và Ý
Nghĩa rồi hãy quay lại để đọc tiếp bài này.
Tuần Triệt án ngữ ở một
cung trong một lá số Tử Vi chỉ có 3 trường hợp:
1. Triệt án ngữ.
2. Tuần án ngữ.
3. Tuần Triệt cùng án
ngữ.
Triệt Không án ngữ ở
cung nào trên lá số sẽ tùy thuộc vào Thiên Can năm sinh của đương số. Năm sinh
thuộc:
* Giáp, Kỷ thì Triệt
Không án ngữ hai cung Thân và Dậu;
* Ất, Canh thì Triệt Không
án ngữ hai cung Ngọ và Mùi;
* Bính, Tân thì Triệt
Không án ngữ tại hai cung Thìn và Tỵ;
* Đinh, Nhâm thì Triệt
Không án ngữ tại hai cung Dần và Mão;
* Mậu, Quý thì Triệt
Không án ngữ tại hai cung Tí và Sửu.
Tuần Không án ngữ ở
cung nào trên lá số sẽ tùy thuộc vào năm sinh của đương số thuộc vào tuần giáp
nào. Nếu là:
* tuần Giáp Tí thì Tuần
Không án ngữ tại Tuất và Hợi;
* tuần Giáp Dần thì
Tuần Không án ngữ tại Tí và Sửu;
* tuần Giáp Thìn thì
Tuần Không án ngữ tại Dần và Mão;
* tuần Giáp Ngọ thì
Tuần Không án ngữ tại Thìn và Tỵ;
* tuần Giáp Tuất thì
Tuần Không án ngữ tại Thân và Dậu.
Tuần Không không bao
giờ án ngữ tại hai vị trí Ngọ và Mùi.
Cụ thể hơn thì 10 tuổi:
* Giáp Tí, Ất Sửu, Bính
Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu thuộc
tuần Giáp Tí cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Tuất và Hợi.
* Giáp Dần, Ất Mão,
Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi
thuộc tuần Giáp Dần cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Tí và Sửu.
* Giáp Thìn, Ất Tỵ,
Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tí, Quý Sửu
thuộc tuần Giáp Thìn cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Dần và Mão.
* Giáp Ngọ, Ất Mùi,
Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tí, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão
thuộc tuần Giáp Ngọ cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Thìn và Tỵ.
* Giáp Tuất, Ất Hợi,
Bính Tí, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi thuộc
tuần Giáp Tuất cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Thân và Dậu.
Có người cho rằng Tuần
Triệt là sao. Thí dụ như trong bài Số Mệnh Hỏi Đáp: Ảnh Hưởng Sao Tuần Triệt
đăng trên Việt Báo Online 09/06/2002 Tử Vi Thiên Đức Đốc Nguyễn đã viết "
. . . những vấn đề xung quanh hai sao Tuần, Triệt. Thật vậy hai sao này có
nhiều tranh cải và mâu thuẫn từ ý nghĩa bản thân của chúng thậm chí cho đến
phạm vi tác dụng của hai sao này. . ."
Xét nguồn gốc của Tuần
Triệt, định kiến cho rằng Tuần Triệt là sao thì không thể đúng. Khoa học Huyền
bí Xuân Ất Mão (1975) cũng có viết ". . . Tuần,Triệt không phải là một sao
như các sao. Nó chỉ là dữ kiện Âm Dương, tiểu biểu cho sự đóng mở hai giai đoạn
Âm và Dương. . . Ở đây Tuần Triệt chi phối về hai phương diện. Ta có thể tạm đặt
là: đối ngoại và đối nội."
Nguồn gốc của Tuần
Triệt phối hợp với Việt Dịch Đồ để diễn giải cho phép chúng ta chấp nhận giải
thích trên đăng trong báo Khoa học Huyền bí. Tuy nhiên "dữ kiện âm
dương" + "sự đóng mở" vẫn còn nặng dịch lý và khó hiểu với một
số người. Để cho dễ nắm bắt hơn, phải nói rằng Tuần Triệt thực ra chỉ là hai
"định chế" áp đặt lên cung nó án ngữ. Nếu bản cung là thành, các sao
trong cung là cư dân, thì Tuần Triệt là định chế ra vào thành. Tuần cho phép cư dân
trong thành đi ra ngoài mà không cho phép bên ngoài xâm nhập vào thành. Triệt
không cho phép cư dân đi ra ngoài nhưng cho phép bên ngoài vào thành. Tuần
chống xâm nhập. Triệt chống tiết lộ. So sánh đơn giản cho dễ nhớ dễ hiểu thì
Tuần Triệt chỉ là vậy. Tuần Triệt không phải là sao. Đã không phải là sao thì
Tuần Triệt không thể xung chiếu như sao và vì vậy tất cả các luận bàn về ảnh
hưởng do Tuần Triệt chiếu xung rõ ràng là không hợp lý.
Và cũng chính vì định
chế áp đặt lên cung bị án ngữ mà sự tương tác giữa các sao bên trong bản cung
với các sao bên ngoài bản cung sẽ thay đổi bởi điều kiện áp đặt. Theo đó, ảnh
hưởng tốt xấu trong sự tương tác của các sao nằm bên trong cung bị án ngữ cũng
như nằm ở bên trong các cung xung hợp với cung bị án ngữ cũng sẽ thay đổi. Dễ
lầm tưởng là Tuần Triệt trực tiếp tạo ra ảnh hưởng tốt xấu lên các sao nằm bên
trong cung bị án ngữ cũng như các sao nằm bên trong các cung xung hợp với cung
bị án ngữ cho nên nhiều người đã coi Tuần Triệt như sao (thủ, chiếu) nhưng sự
thật không phải là vậy. Cũng dễ lầm tưởng là Tuần Triệt trực tiếp làm thay đổi
tính chất tốt xấu của các sao hoặc thay đổi cường độ của tính chất tốt xấu
nhưng sự thật không phải là vậy. Chỉ có sự tương tác giữa các sao nội và ngoại
bị thay đổi do định chế áp đặt lên cung bị án ngữ.
Giả dụ như cung A có Mã
và cung B hợp xung (hợp xung = hợp hoặc xung = tam phương tứ chính) có Lộc.
Không có Tuần Triệt án ngữ ở cung A hay cung B thì cả cung A lẫn cung B đều ăn
được cách Lộc Mã giao trì. Nếu Triệt án ngữ tại cung A thì chỉ có cung A ăn
được cách Lộc Mã. Lý do là Lộc ở cung B có thể hội với Mã tại cung A, nên thành
cách, nhưng ngược lại Mã không thể thoát ra khỏi bản cung để hội với Lộc tại
cung B, nên không thành cách, vì định chế tại cung A là "Triệt = nội bất
xuất". Triệt lộ không vong là như thế. Triệt cắt đường là như thế, chỉ cắt
đường của các sao nằm trong cung A bị án ngữ.
Nếu Tuần án ngữ tại
cung A thì chỉ có cung B ăn được cách Lộc Mã. Lý do Mã tại bản cung được phép
ra khỏi bản cung để hội với Lộc tại cung B nhưng ngược lại Lộc ở cung B không
thể xâm nhập cung A để hội với Mã tại đây vì định chế tại cung A là "Tuần
= ngoại bất nhập". Người ta nói Tuần bắt cầu là như thế, chỉ bắt cầu cho
các sao nằm trong cung A bị án ngữ.
Nếu cả hai Tuần và
Triệt án ngữ tại cung A thì cả cung A lẫn cung B đều không ăn được các Lộc Mã.
Lý do Mã ở cung A bị cô lập hoàn toàn vì định chế tại A lúc đó là "Tuần +
Triệt = nội bất xuất + ngoại bất nhập".
Với những giả dụ vừa
trình bày, Tuần Triệt án ngữ cung A không làm cho Mã thành "ngựa
chết" như nhiều người ngộ nhận. Tuần Triệt án ngữ chỉ là làm cho sự tương
tác giữa Lộc và Mã có thành cách hay không thành cách, nếu thành cách thì sẽ ăn
vào cung nào và không ăn vào cung nào, rồi theo đó tốt hay không tốt và tốt cho
cung nào hoặc vận nào sẽ được giải đoán.
Đa số các thầy Tử Vi cho
rằng Tuần Triệt án ngữ sẽ gây trở ngại (không tốt) cho cung bị án ngữ. Và cũng
cho rằng "nhìn chung khi Tuần - Triệt đóng tại Mệnh (Thân) thì đương số là
người chật vật trong cuộc sống (hoàn cảnh sống không may mắn, công lao được
hưởng không xứng đáng...), hoặc lúc sinh ra mình cha mẹ thường làm ăn vất vả,
nghèo hèn (nhất là lá số có Tuần - Triệt liên cung tại Mệnh - Phụ Mẫu). Đồng
thời đây cũng là mẫu người lười biếng, kém thông minh, yếm thế, thiếu tự tin,
không có ý chí vươn lên trong cuộc sống... nếu không được nhiều cát tinh, văn
tinh hội chiếu về Mệnh (Thân) hóa giải." (Nguồn: vandanviet.com.
Tuần-Triệt và những dấu hỏi (trích từ cuốn Tử Vi Kiến Giải của Đặng Xuân Xuyến,
Thanh Hóa, 2009)). => Nhận định trên không chính xác nếu không muốn
nói là không phản ảnh đúng với thực tế và sẽ dễ dàng bị loại trừ khi dùng lá số
của các vị lãnh đạo để phối kiểm. Thí dụ như Bill Clinton Mệnh bị Triệt và Phúc
Đức bị Tuần, Hillary Clinton Mệnh bị Tuần và Tài Bạch bị Triệt, Condoleeza Rice
Thân bị Tuần và Phúc Đức bị Triệt, John McCain Mệnh bị Triệt và Quan Lộc bị
Tuần, Donald Rumsfeld Mệnh bị Tuần và Quan Lộc bị Triệt. Không một giải thích
nào trong đoạn văn trên đúng với các lá số của các nhân vật lừng lẫy vừa nêu
tên. Thật ra, Tuần Triệt án ngữ tại một cung tạo tác động tốt hay xấu và tốt
xấu như thế nào còn tùy vào chi tiết trong từng lá số cũng như tùy vào thực
trạng bản thân của đương số.
Có người cho rằng cường
độ ảnh hưởng của Tuần Triệt thay đổi theo thời gian. "Tuần từ từ mạnh
lên" còn "Triệt từ từ giảm xuống". Đến 30 tuổi thì ảnh hưởng của
Triệt coi như không còn. Nhận định này không chính xác.
Hiện tượng tốt xấu hơn
là thật nhưng cho rằng nguyên nhân là do cường độ ảnh hưởng của Tuần Triệt mạnh
yếu hơn sau một thời gian thì không có cơ sở. Nếu vậy thì tại sao những lá số
có cung phu thê rất đẹp bị Triệt án ngữ làm cho mất sự tốt đẹp lại không gãy
gánh dọc đường lúc còn trẻ mà lại xảy ra vào độ tuổi quá 30 tức là lúc mà Triệt
mất hết uy lực và theo đó cung phu thê đã phục hồi lại sự tốt đẹp vốn dĩ của
nó? Nếu vậy thì tại sao những lá số có cung phu thê rất xấu có Triệt án ngữ làm
cho bớt xấu lại không bị gãy cánh dọc đường vào độ tuổi quá 30 tức là lúc mà
Triệt mất hết uy lực và theo đó cung phu thê đã phục hồi lại sự xấu vốn dĩ của
nó mà lại xảy ra vào lúc trẻ tức là lúc Triệt còn đủ sức mạnh để đàn áp hung
tinh?
Sự thật là Tuần Triệt
án ngữ tại một cung áp đặt định chế tại cung đó. Định chế không thay đổi. Chỉ
có sự tương tác giữa các nhóm sao biến hóa theo mỗi bước chuyển dịch của mệnh
kinh qua các nhóm cung khác nhau ở mỗi giai đoạn của một đời người, với sự tiếp
tay của định chế luôn hiện hữu và không thay đổi, tạo ra ảnh hưởng xấu tốt.
Có người cho rằng Tuần
Triệt gặp nhau sẽ "cởi khóa" cho nhau. Nhận định này có phần chính
xác.
Tuần Triệt gặp nhau
trên 12 cung của một lá số chỉ có 5 trường hợp:
1. Tuần Triệt cùng án
ngữ một cung.
2. Tuần Triệt án ngữ ở
hai cung xung nhau.
3. Tuần Triệt án ngữ ở
hai cung tam hợp hoặc nhị hợp với nhau.
4. Tuần án ngữ Mệnh
hoặc Thân và vận nhập cung có Triệt án ngữ.
5. Triệt án ngữ Mệnh
hoặc Thân và vận nhập cung có Tuần án ngữ.
Trường hợp 1,2,3: khi
vận nhập cung Tuần Triệt sẽ bị triệt tiêu trong vận đó. Tức là, khi nhập vận,
sẽ thấy có đủ mặt Tuần và Triệt, thì định chế "nội bất xuất" và
"ngoại bất nhập" bị vô hiệu hóa.
Trường hợp 4,5: khi vận
nhập cung, chỉ thấy có Triệt hoặc Tuần nhưng Mệnh hoặc Thân lại có Tuần hoặc
Triệt án ngữ, thì Tuần hoặc Triệt án ngữ tại cung vận sẽ tạm thời bị vô hiệu
hóa.
Có người cho rằng Tuần
Triệt mang tính chất ngũ hành. Và có tất cả 4 định kiến:
1. Tuần hành Hỏa đới
Mộc, Triệt hành Kim đới Thủy;
2. Tuần hành Thủy,
Triệt hành Kim;
3. Tuần hành Thổ, Triệt
hành Hỏa;
4. Tuần Triệt theo hành
của bản cung chúng án ngữ.
Tuần Triệt đã không
phải là sao mà chỉ là định chế giới hạn sự tương tác giữa các sao bên trong với
các sao bên ngoài của một cung thì khoát thêm cho chúng cái áo ngũ hành để làm
gì? Chỉ vô ích và làm phức tạp thêm vấn đề.
Trong bài Mẫu Người Mệnh
Tuần Thân Triệt đăng trên blog Trần Nhật Thành ngày 07/13/2012, ông đã viết:
"Tóm lại, Tuần Triệt là hai sao đặc biệt nhất trong 118 sao của khoa Tử
Vi, và cũng đã trở thành đề tài tranh luận rất nhiều. Nhưng tốt nhất là tùy
theo kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự chọn cho mình một quan điểm riêng.
Dù sao, khi nói đến Tuần Triệt, chúng ta đều thấy ảnh hưởng tốt xấu của hai sao
này trên một lá số nào đó không phải là điều đơn giản. Giống như một người bị
bệnh phải uống thuốc, như người bị chứng đau nhức phải uống thuốc giảm đau.
Nhưng khi uống thuốc giảm đau nhiều thì lại sinh ra chứng đau bao tử, uống
thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra chứng bất lực.. Ảnh hưởng của Tuần
Triệt cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này thì phá bên kia, và có lẽ cái thâm
sâu của khoa Tử Vi là ở chỗ đó."
Kết luận trên của Trần
Nhật Thành cho thấy hiện trạng thiếu thống nhất trong cách lý giải Tuần Triệt
của bộ môn Tử Vi, nếu không muốn nói là loạn cào cào. Tự thân Tuần Triệt không
"giúp ta bên này thì phá bên kia" cũng không "phức tạp" như
đa số nhận lầm. Tuần Triệt chỉ đơn giản là định chế áp đặt lên cung nó án ngữ.
Với hai định chế "nội bất xuất" và "ngoại bất nhập" mà sự
tương tác giữa các sao nằm bên trong cung bị án ngữ và các sao nằm bên ngoài
cung bị án ngữ sẽ bị giới hạn tùy theo định chế áp đặt lên cung (điều mà tác
giả của bài viết trong Khoa học Huyền bí Ất Mão "tạm gọi là đối nội và đối
ngoại") và theo đó tốt xấu cũng biến hóa theo. Làm cho Tuần Triệt trở
thành phức tạp và mơ hồ là do những người nghiên cứu Tử Vi tự tạo ra không phải
bản chất của Tuần Triệt. Phức tạp và mơ hồ cũng không phải là cái thâm sâu của
Tử Vi mà là chỉ dấu hiệu của sự thấu đáo chưa tới chỗ cùng tột.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
Đỗ Việt
Phương giới thiệu
Tác giả: Hà Hưng
Quốc - nguồn: lysovn
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét