NGHIỆP CẦN ĐƯỢC HIỂU
NHƯ THẾ NÀO?
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau
tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng
của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
Theo đó, hầu hết mọi người đều chấp nhận nghiệp
như là một định nghiệp hơn là một năng lượng hành hoạt của tâm thức. Họ thường
nói “tôi khổ là do nghiệp của tôi” như thể nghiệp quá khứ hoàn toàn thống trị
đời sống hiện tại và cả tương lai của mình. Nếu vậy, Đức Phật chẳng thể đóng
góp được gì đối với việc chuyển hóa khổ đau của mỗi người. Sự thật, sự đóng góp
của Đức Phật và đạo Phật cho nhân gian này quá lớn lao, trong đó có sự đóng góp
của học thuyết về nghiệp. Do vậy, ta cần nhìn lại để xác định đâu là ý nghĩa
đích thực của giáo lý nghiệp theo lời Phật dạy.
Nghiệp thường được hiểu theo khái niệm “nông
nghiệp”
Vốn chịu ảnh hưởng lâu đời về văn hóa nông
nghiệp, những người tin vào nghiệp dễ dàng chấp nhận những gì ta đang là và
đang có trong hiện tại HOÀN TOÀN phụ thuộc vào những gì ta đã gieo tạo trong
quá khứ. Nếu chúng ta bị ai lừa dối gạt lường thì cứ nghĩ rằng trong quá khứ,
mình đã gieo hạt giống xấu, mình đã từng dối gạt người khác. Vẫn biết một điều
rõ ràng là những gì ta gieo trong hiện tại, chắc chắn ta sẽ gặt kết quả trong
tương lai. Thế nhưng, không thể nhìn vào một sự kiện, một hiện tượng mà vội quy
kết một cách đơn giản như vậy là chưa chính xác. Luật nhân quả nghiệp báo không
diễn ra trên không gian phẳng và những gì ta nhận lấy không đơn thuần là kết
quả của phép tính cộng từ một vụ mùa sau khi gieo giống một thời gian, như
người ta thường nói:
Rằng ai muốn biết nhân xưa,
Hãy xem hoàn cảnh bây giờ chịu đây.
Muốn biết quả báo sau này,
Xem điều tội phước ta nay đang làm.
Cách hiểu nghiệp theo tư duy “nông nghiệp” có gì
không ổn?
Nếu nói rằng ta gặt những gì đã gieo, có lúc ta
thấy nhiều lúc dường như trái ngược với những gì ta chứng kiến và trải nghiệm
trong cuộc sống. Ta hành động với tâm lành, ví dụ ta biếu vài đồng tiền lẻ để
vào bát của một người đi xin và đó là tất cả những gì ta có trong lúc ấy với
trọn tâm lành, người ấy quay lại mắng ta “nhìn người sáng sủa bảnh bao vậy mà
sao keo thế, có mấy đồng tiền lẻ thôi à?”. Ta thường xuyên chứng kiến
những đồng nghiệp của mình không chu toàn công việc cơ quan, lợi dụng thời gian
làm việc để gõ tin, tán gẫu bạn bè, năng lực làm việc kém, ấy thế mà khéo sống
và biết thời biết thế một chút là nhanh chóng được thăng quan tiến chức. Một
người tôi quen có mẹ mắc bệnh ung thư ở giai đoạn cuối, sự sống đang đếm bằng
ngày, vừa gởi tin tâm sự với những dòng tin đầy tâm trạng não nề “cô ơi,
mẹ con trước giờ ăn ở hiền lành, chân chất, không tham lam, không thủ đoạn,
cũng hay giúp đỡ người và được nhiều người yêu thương, tại sao cuối đời lại
phải chịu nhiều đau đớn trong nước mắt như vậy?” Bao chuyện “ngược đời” như thế
cứ diễn ra trước mắt, người xấu ác thì giàu có sung sướng, trong khi đó, những
gì tồi tệ nhất lại đến với người tốt khiến tâm ta dao động, chao đảo và bắt đầu
nghi ngờ về nhân quả. Liệu có cái gọi là “ở hiền, gặp lành” trong đời này
không?
Làm sao để giải thích sự “trái ngang” có vẻ như
không theo một quy luật nào cả thế này, trong khi đó, những gì ta biết về nhân
quả là một quy luật? Vấn đề là ở chỗ, nếu ta nhìn sự vận hành của luật nhân quả
theo kiểu “nông nghiệp”, thì yếu tố thời gian mang tính quyết định từ khi gieo
nhân đến lúc hái quả. Hạt giống xuống đất, sau một thời gian nhất định, ta thu
hoạch vụ mùa. Ta cũng nghĩ rằng khi tạo tác một hành động thiện ác nào đó, sau
một thời gian NHẤT ĐỊNH ta tự QUY ĐỊNH theo cảm tính của mình, ta mong có được
kết quả. Nếu chưa thấy có kết quả, ta vội nghi ngờ có điều “không ổn” với luật
nhân quả, tệ hơn nữa là kết nhận luật nhân quả không đúng hoặc không có mặt để
chi phối hành động và kết quả hành động như Đức Phật đã dạy.
Tất nhiên từ nhân đến quả cần có thời gian, nhưng
thời gian vẫn chưa phải là yếu tố duy nhất, lại không phải là thời gian cố
định, nhất định và tự ta quy định một cách tùy tiện mà được. Chúng ta tự hạn
định “thời gian bảo hành” cho luật nhân quả là CHỈ Ở ĐỜI NÀY, nhưng thực tế
không đơn giản như vậy. Nhiều điều trong cuộc sống không thể giải thích và giải
quyết được nếu chỉ căn cứ vào mỗi một yếu tố thời gian trong tiến trình vận
hành của nhân quả hạn cuộc chỉ trong kiếp sống này. Ví dụ, tại sao một em bé sơ
sinh qua đời? Nếu chỉ đóng khung trong kiếp sống này, em làm gì nên tội? Em
chưa đủ thời gian để cơ thể học cách tiêu hóa những giọt sữa mẹ đầu đời nữa mà,
em đã làm điều gì ác chứ? Đến cuộc đời này rồi ra đi chóng vánh chưa hẳn đã là
điều không tốt, nếu chúng sanh ấy, chỉ “ghé qua” cõi người trong giây lát rồi
đi về cảnh giới thiện lành hơn thì sao? Đừng vội gán chữ “nghiệp” vào một phân
đoạn nào đó của một con người khi những gì chúng ta biết chỉ là phần nổi của
tảng băng chìm.
Vậy Đức Phật thật sự nói về giáo lý nghiệp là gì?
Nghiệp là tác ý
Thay vì cứ chăm chăm nhìn nghiệp là kết quả của
hành động tạo tác trong quá khứ, Đức Phật chuyển hướng, mở ra cho chúng ta một
lối nhìn mới vào giáo lý nghiệp. Ngài nhấn mạnh, nghiệp là tác ý. Hành động nào
do tâm ý làm động cơ - ở mức độ ý thức cũng như ở tầng sâu hơn của tiềm thức và
vô thức - đều tác thành nghiệp. Câu kinh có thể gọi là “tuyên ngôn” về giáo lý
nghiệp được trích dẫn nhiều nhất là: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của
nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm
nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” (Tăng chi bộ
kinh, chương Năm, phẩm VI, kinh số 57 : Sự kiện cần phải
quán ; Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm XVII, kinh số 161: Trừ
khử hiềm hận). Khái niệm nghiệp được hiểu là hành động thiện ác và quả báo
tương ứng vốn đã có trong truyền thống Bà-la-môn từ lâu rồi, cái mới của Đức
Phật là chỉ ra tầm quan trọng của tâm ý với vai trò động cơ và động lực trong
quá trình tạo nên hành động ấy, chứ không phải bản thân hành động. Nói cách
khác, Đức Phật đặt tầm quan trọng của người chỉ huy, lãnh đạo và điều động chứ
không phải người thực hiện công việc.
“Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư là
nghiệp; sau khi suy tư, tạo nghiệp về thân, về lời, về ý”. (Tăng chi bộ
kinh, chương VI, phẩm VI, kinh số 63). Trong ba loại thân nghiệp, khẩu nghiệp
và ý nghiệp thì ý nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất (Trung bộ kinh
số 56: Kinh Ưu-bà-ly). Chính tầm quan trọng của tâm trong quá trình tạo nghiệp
nên Đức Phật dạy Rahula hãy luôn luôn phản tỉnh trước khi làm một nghiệp nào đó
về thân, khẩu hay ý. Ngài nói “này Rahula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy
hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp. Sau khi
phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp.[…] Hành động nào có thể đưa đến tự hại,
có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời nghiệp này là bất
thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ, ta nên tránh” (Trung bộ
kinh số 61: Kinh Giáo giới Rahula).
Viêc gi cũng do tâm dẫn đầu, tâm điều khiển, tâm
tạo. Nếu một người nào đó nói hay hành động với tâm ô nhiễm, khổ đau sẽ đi theo
như bánh xe đi theo chân con vật kéo xe. (Pháp cú kệ số 1)
Viêc gi cũng do tâm dẫn đầu, tâm điều
khiển, tâm tạo. Nếu một người nào đó nói hay hành động với tâm thanh tịnh, hạnh
phúc sẽ theo sau như bóng không rời hình.(Pháp cú kệ số 2)
Tác ý là nghiệp được Đức Phật nhắc đi nhắc lại vô
số lần trong các bài giảng của Ngài được ghi lại trong kinh điển, đủ biết đây
là ý nghĩa nòng cốt nhất của giáo lý nghiệp trong hệ thống giáo lý của Ngài.
Nếu ta hành động về thân, miệng và ý với chủ tâm càng bất thiện, như tham, sân
và si, chính bản thân mình càng chịu nhiều độc hại, khổ đau, bất kể những gì
đến với mình từ bên ngoài. Nếu ta hành động với chủ tâm thiện, như từ bi và trí
tuệ, tâm ta được mạnh mẽ, bao dung hơn, kiên nhẫn hơn và nhờ đó, ít bị tổn
thương hơn, tâm an lạc, thảnh thơi, hạnh phúc, bất kể những gì xảy đến với mình
từ con người và môi trường bên ngoài.
Có khi người ác có thể may mắn và giàu có
Đức Phật chú trọng vào vai trò của chủ ý, chỉ đạo
và thủ lĩnh của tâm ý hơn là hành động và các tình huống bên ngoài, điều này mở
ra cho chúng ta một lối nhìn mới, nhận thức rõ rằng, không hẳn sống thiện gặp
thiện lành, mà người ác có thể may mắn, giàu có. Đúng vậy, với thủ đoạn, lọc
lừa, với xảo trá điêu ngoa, với cách sống chụp giựt, những người này có thể làm
giàu không chính đáng một cách dễ dàng. Thế nhưng, dù sống với khối tài sản
lớn, quyền thế lớn, tâm hồn họ không lúc nào được thanh thản, hạnh phúc an vui
mà bao khổ đau, lo sợ, bất an vây bủa. Đó là chưa kể quả báo tương ứng từ những
hành nghiệp ấy, chắc chắn sẽ đến và khi nào đến, chỉ là vấn đề thời gian mà
thôi.
Điều này cũng có nghĩa khi ta hành động với chủ
tâm thiện lành, không có nghĩa ta tránh được những tai ương, rủi ro, khó khăn
trong cuộc sống ngay tức thời, nhưng có một điều chắc chắn rằng, dù bất cứ điều
gì đến với mình, tâm ta thanh thản, nhẹ nhàng và an ổn. Còn quả báo tốt đẹp từ
nhân thiện lành, không cầu cũng đến khi đúng thời điểm của nó. Khi tâm ý thiện
lành làm động cơ cho các tạo tác về thân, miệng và ý, ta có nội lực nhiều hơn,
vững chãi hơn để duy trì tâm ở trạng thái cân bằng, ít chao đảo, nhờ đó tâm
bình thản và không hao tốn năng lượng để kềm chế và làm lặng đi những xung động
trong tâm thức. Tâm an ổn là tâm tự tại, hạnh phúc, an vui. Vậy mới biết khổ
vui là trạng thái chủ quan của tâm chứ không phải do hoàn cảnh đem lại. Giàu
có, tài sản nhiều chưa hẳn là hạnh phúc và nghèo nàn chưa chắc đã là khổ!
Nghiệp khởi từ tâm, tức là từ nhận thức và hành
động nơi mỗi con người, chứ không phải do sự vận hành của các quy luật khách
quan diễn ra ở thế giới bên ngoài. Đến đây, ta dễ dàng chấp nhận, bệnh không
phải là kết quả của một nghiệp xấu nào đó ta đã gieo trong quá khứ. Là con
người, như mọi sanh linh khác, ta già đi, đau đớn trong bệnh tật và kết thúc
một giai đoạn sống bằng cái chết. Bệnh là một phần của sự sống, là sự thay đổi,
già nua của thân ngũ uẩn vật lý này. Chết cũng là một phần sự sống, là bản lề giữa
kiếp sống này và kiếp sống khác, có gì xấu ở đây mà quy cho nó là kết quả của
một nghiệp xấu ác? Bệnh, chết, dù xảy ra ở thời điểm nào trong cuộc đời mình,
cũng không phải là nghiệp xấu; phản ứng tiêu cực, kháng cự và không chấp nhận
những sự thật khách quan này mới là đang tạo nghiệp xấu. Ta không có quyền chọn
lựa không già, không bệnh, không chết. Điều ta chọn lựa một cách khôn ngoan là
thái độ ta đón nhận những sự thật này như thế nào để thân bệnh mà tâm không
bệnh, thân mất mà tâm tiếp nối chuyển giao nhẹ nhàng từ kiếp này sang kiếp
khác. Thay vì kháng cự, ta thỏa hiệp, thuận theo; thay vì oán trách và muốn nó
khác đi, ta nên khách quan nhìn nó là một quy luật đi ngang qua mọi sự vật hiện
tượng, trong đó có bản thân mình, cuộc sống mình cũng như cuộc sống bao người
thân quanh ta.
Các định luật nhân quả
Trong các bản luận tạng, sớ giải các kinh như Sớ
giải kinh Trường bộ (chú giải kinh Đại bổn), Sớ giải bộ pháp tụ (chú giải Pháp
tập luận), Nhập A-tỳ-đạt-ma luận (tóm tắt A-tỳ-đạt-ma), các luận sư cho rằng,
Đức Phật không chỉ dạy định luật nhân quả mà còn nói định luật này rất chi
tiết, rõ ràng về sự thể hiện ở các cấp độ khác nhau vận hành trong vũ trụ.
Cấp độ căn bản và đơn giản nhất là định luật
vật lý (Utu Niyāma), liên quan đến tiến trình của những sự vật vô cơ, các
hiện tượng vật lý như thời tiết, mưa, gió, nóng, lạnh. Ví dụ trời mưa thì lạnh,
nắng thì nóng cũng là một dạng thức sơ đẳng của nhân quả. Những thiên tai như
bão lụt… không phải là quy luật của nghiệp báo. Khoa học có các môn học nghiên
cứu về quy luật nhân quả này như vật lý, hóa học hoặc khí tượng học.
Định luật nhân quả thứ hai là định luật chủng tử
(Bīja Niyāma). Đây là định luật nhân quả vật lý trong tiến trình phát triển của
những sinh vật hữu cơ có mầm sống và có cấu trúc cơ thể phức tạp hơn, thấp nhất
là cây cỏ. Do định luật này thì mầm nào sanh giống đó. Cây lúa do hạt lúa mà
có, hạt xoài nảy mầm phát triển thành cây xoài. Đây cũng là một định luật
nhân-quả nhưng hoàn toàn không phải quy luật của nghiệp báo. Môn sinh học
chuyên nghiên cứu về quy luật nhân quả ở cấp độ này.
Định luật tâm lý (Citta Niyāma) là định luật
nhân quả về tâm, tâm lý như ý niệm, ý tưởng, tưởng tượng, hồi ức, trí nhớ, tư
tưởng, trực giác và những kết quả tương ứng. Những trạng thái tâm lý,
những diễn biến tâm lý nội tâm theo trình tự nhân quả tương quan đưa đến phán
đoán, nhận thức, suy luận, chi phối sinh hoạt hữu thức hay vô thức của con
người đều thuộc phạm vi của định luật này.
Một định luật nhân quả chi phối con người ở
phương diện xã hội và đạo đức là định luật nghiệp (Kamma Niyāma). Mỗi
người đều có những trải nghiệm sinh động về quy luật nhân quả này: nếu tác ý
thiện, thì kết quả tương ứng là thiện, nếu tác ý ác, kết quả tương ứng là ác.
Đức Phật dạy, “tác ý là nghiệp và nghiệp được thể hiện qua ba phương diện: ý
nghĩ, lời nói và hành động” (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VI, kinh số 63).
Như vậy, chủ ý của tâm là yếu tố quyết định trong cơ chế vận hành của quy luật
này. Tự kiểm chứng lại những trải nghiệm của bản thân, ta thấy: Khi tâm tác ý
thiện thì thân tâm thư thái nhẹ nhàng, an vui…., khi các tâm sở bất thiện có
mặt thì thân tâm ta nặng nề, bất an, nóng nảy, trì trệ, bối rối, bất an….
Định luật quy pháp (Dhamma Niyāma) là định
luật nhân quả bao quát và toàn triệt nhất về sự vận hành của vạn pháp trong thế
giới hữu vi. Định luật này bao gồm tất cả các quy luật vận hành của thế giới tự
nhiên và xã hội. Mọi pháp hữu vi đều thay đổi, đều mang tính cấu thành không có
chủ thể và cùng nương nhau tồn tại trong mối liên hệ duyên sinh: do cái này có,
nên cái kia có; do cái này không, nên cái kia không. Do cấu thành, nên vạn pháp
thay đổi; do thay đổi, mà không có một thực thể cố định. Do thay đổi là bản
chất, ai cố chấp cho là thường còn là tự chuốc lấy khổ đau…
Như vậy, về phương diện đạo đức và luân lý xã
hội, trong năm quy luật nhân quả trên, con người chỉ có thể can thiệp vào định
luật nghiệp. Với chủ tâm, động cơ và động lực con người đặt vào trong hành động
mà kết quả tương ứng được tạo thành. Trên hành tinh này chỉ có con người
mới có khả năng tự định hình trong tâm về hành động mình sắp làm một cách có ý
thức đầy đủ để đưa đến kết quả mình có thể dự liệu được, nên Đức Phật gọi con
người là loài tối thắng giữa các loài hai chân. Định luật nghiệp mở ra một
không gian thoáng đãng cho chúng ta phản ứng, tự sắp xếp, điều chỉnh những tập
khí của thân, miệng và ý. Cái quý giá nhất của đời sống con người là tiềm năng
của mỗi cá thể mà chính bản thân người ấy cũng không thể hiểu hết. Như vậy,
định luật nghiệp là cơ chế nhân quả vận hành từ trong tâm ra đến thân, từ
phương diện đạo đức đến xã hội, đã được Đức Phật chỉ ra và nhấn mạnh. Chính
định luật này mở ra cơ hội cho mỗi người chúng ta phát huy tối đa tuệ quán của
mình đến mức cao nhất và tất nhiên là chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời
mình.
Thay lời kết
Trong năm định luật trên, đã có bốn định luật xảy
ra theo tiến trình nhân quả khách quan chứ không theo nghiệp báo ứng tùy vào sự
tác ý chủ quan trong tâm thức con người. Những hành động và phản ứng tâm lý có
ý thức, mang tính đạo đức, luân lý (thiện-ác, tốt-xấu…), những quyết định,
những chủ đích, những hành động có đầu tư ý chí của mỗi cá nhân mới tạo ra sự
báo ứng của nghiệp. Như vậy, chúng ta cần hiểu và phân biệt rõ đâu là nhân quả
khách quan, đâu là nghiệp báo chủ quan. Phạm vi của các định luật nhân quả
khách quan rất rộng lớn. Nếu chúng ta không thấu triệt dễ sinh ra ngộ nhận, cái
gì cũng đổ thừa cho nghiệp thì không chính xác, lại tạo tâm lý nặng nề khi
nghi ngờ về giáo lý nghiệp mà mất phương hướng và động cơ để chuyển hóa trong
cuộc sống.
Nếu nói rằng tất cả mọi thứ đều là nghiệp của
mình nghĩa là ta đơn giản hóa cuộc sống sinh động này thành một màu đơn điệu
trên một trục nhân-quả diễn ra trên mặt phẳng của không gian có thể quan sát và
thời gian có thể tính đếm mà thôi. Làm như vậy, ta đồng thời “vô hiệu hóa” các
định luật nhân quả khách quan của vật lý, chủng tử, vạn pháp và tâm lý mà chỉ
thấy sự vận hành của mỗi một định luật nhân quả của nghiệp mà thôi. Thật ra,
quy luật của nghiệp nhân và nghiệp quả chỉ là một trong năm định luật tác động,
vận hành vạn pháp trong vũ trụ. Nhận ra điều này, ta dễ dàng hiểu rằng một sự
kiện, hiện tượng, sự việc nào đó chỉ là kết quả của một số nguyên nhân và các
duyên (điều kiện) ở phương diện vật lý thôi chứ chưa hẳn đó là quả của nghiệp.
Ta cũng không mơ hồ nghĩ hay tin rằng, bằng cách cho đi tài vật, ta sẽ giàu
sang, sung túc của cải trong tương lai, trong khi động cơ của hành động mới là
chủ nhân tạo nghiệp. Đừng quan tâm đến cái bóng cây nghiêng mà ta phải nỗ lực
sửa cái cây cho thẳng. Nhận rõ điều này, với chánh niệm tỉnh giác, ta dùng
phương pháp thế như bài kinh An trú tầm (Trung bộ kinh số 20) diễn tả
bằng hình ảnh một người thợ mộc dùng cái nêm này để đánh bật một cái nêm khác
ra, ta “lọc máu” cho tâm, thay tham, sân, si bằng từ, bi, hỷ, xả để đưa nguồn
năng lượng tươi mát này vào trong mỗi tác ý của hành động thuộc về thân, miệng
và ý, chắc chắc những chủ tâm thiện lành này sẽ quyết định ta là con người như
thế nào mà không cần quan tâm tạo nghiệp gì để được giàu sang sung sướng.
Quá trình “lọc máu cho tâm” mới chính là hành
trình tạo nghiệp thiện của mình vậy!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ CUỒNG YÊU:
Nguyễn Đình Văn giới thiệu
Tác giả: Hằng Như - nguồn: thuvienhoasen
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét