‘TRĂM NGÀN’ KHÔNG PHẢI LÀ PHIÊN BẢN LỖI CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ! - Tác giả: Lê Thọ Bình ; Trần Hạ Vi giới thiệu

Leave a Comment

 


‘TRĂM NGÀN’ KHÔNG PHẢI LÀ

PHIÊN BẢN LỖI CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ!

 

Nhà thơ Trần Hạ Vi:

Thật không thể tưởng được nhân vật Trăm Ngàn là nam 100% (mê gái, có người yêu, vv) lại được gắn vô là người LGBT không xác định giới tính để gắn vô phê bình giới. Lại còn gọi Trăm Ngàn là "cô". Bài bình này của anh Lê Thọ Bình nếu không được tạo ra từ ChatGPT (nhiều khả năng) thì được viết đặt hàng từ một người viết cẩu thả và tùy tiện.

Copy lại toàn bài ở đây, mọi người đọc rồi tùy nghi phán xét!

—/—

“TRĂM NGÀN” KHÔNG

PHẢI LÀ PHIÊN BẢN LỖI CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ!

Trong phê bình văn học đương đại Việt Nam, tồn tại một khuynh hướng thường xuyên so sánh các tác phẩm mới với một hình mẫu đã được tôn vinh, từ đó hình thành xu hướng đồng hóa thẩm mỹ. Theo đó, nếu một tác phẩm khai thác đề tài tương tự với một tác phẩm tiêu biểu trước đó, thì lập tức bị gán mác “lặp lại”, “nhái”, thậm chí “phiên bản lỗi”.

Trường hợp truyện ngắn “Trăm Ngàn” của Ngô Tú Ngân là một ví dụ điển hình. Sau khi đoạt giải cao nhất trong cuộc thi truyện ngắn của báo Văn nghệ, tác phẩm này lập tức bị một số nhà phê bình gán cho danh xưng “phiên bản lỗi của Nguyễn Ngọc Tư”, một đánh giá được truyền thông hóa, và từ đó định hình dư luận theo hướng tiêu cực.

Tuy nhiên, như nhà phê bình Roland Barthes từng khẳng định trong bài tiểu luận nổi tiếng “Cái chết của tác giả” (1967), ý nghĩa văn học không còn nằm ở “tác giả” như trung tâm quyền lực duy nhất, mà ở sự đa âm và tiếp nhận. Suy nghĩ rằng một tác phẩm phải “giống đúng chuẩn” một giọng nói đi trước là tư duy đi ngược với tinh thần hậu cấu trúc: nơi không có “một chân lý văn học”, mà chỉ có những khả thể tự sự khác nhau.

 

Vị trí của “Trăm Ngàn” trong dòng chảy văn học đương đại:

Truyện ngắn “Trăm Ngàn” được công bố trên báo Văn nghệ số tháng 6/2024 và ngay lập tức tạo được sự chú ý. Tác phẩm kể về nhân vật Trăm Ngàn, một người thuộc cộng đồng LGBT, không rõ giới tính, sống trong một gánh hát lô tô ở miền Tây, lớn lên với ký ức bị bỏ rơi, bị ruồng rẫy, nhưng vẫn nhen nhúm khát vọng đi tìm người mẹ đã bỏ mình năm xưa.

Dưới lớp kể mộc mạc, truyện đặt ra hàng loạt vấn đề hiện đại:

(1) Quyền được là “người” trong một thân thể bị khước từ giới tính

(2) Tính lưu vong và bất định của căn cước (identity)

(3) Khát vọng được yêu thương, được gọi tên, được công nhận.

Đây không chỉ là một câu chuyện “miền Tây”, mà là vấn đề nhân sinh hậu hiện đại, như nhà lý luận văn học Zygmunt Bauman đã gọi là “tình trạng lỏng lẻo” (liquid modernity), nơi mà ranh giới giữa các bản sắc, địa phương, giới tính, đạo đức... đều trở nên bất định.

 

Trăm ngàn có thật là “phiên bản lỗi”?

1. Về ngôn ngữ và phong cách tự sự:

Lập luận chính cho rằng “Trăm Ngàn” là “phiên bản lỗi” dựa trên sự thiếu nhất quán về ngôn ngữ miền Tây, ví dụ nhân vật gọi “mẹ” thay vì “”, hay dùng những từ ngữ mang sắc thái miền Bắc.

Tuy nhiên, lập luận này chỉ đúng nếu ta tiếp cận văn học như một hình thức mô phỏng hiện thực địa phương, chứ không phải diễn ngôn nghệ thuật. Trong trường hợp “Trăm Ngàn”, việc pha trộn giọng kể không phải là lỗi kỹ thuật, mà phản ánh sự bất định của nhân vật.

Theo lý thuyết hậu hiện đại, nhân vật không còn là hiện thân của một “tính cách” cố định, mà là một thân phận rạn vỡ (fractured subject). Trăm Ngàn không biết mình thuộc về ai, quê ở đâu, thuộc giới nào, thì việc nói “mẹ” hay “” cũng là biểu hiện của trạng thái “mất gốc ngôn ngữ”.

So sánh với Nguyễn Ngọc Tư, người viết bằng giọng văn nhuần nhuyễn, giàu tính địa phương, thì Ngô Tú Ngân chọn một lối kể trôi dạt, pha tạp, giống như chính thân phận mà nhân vật gánh vác.

2. Về cấu trúc và nhịp điệu văn bản:

Một điểm khác biệt rõ ràng giữa hai tác giả là cấu trúc truyện. Nguyễn Ngọc Tư thiên về lối kể tối giản, ẩn dụ, và tiết chế cảm xúc. Ngô Tú Ngân lại chọn sự dồn nén, cảm xúc mạnh, thiên về mô tả chi tiết.

Trăm Ngàn” không đi theo mô hình ba hồi, mà sử dụng cấu trúc vòng xoáy tâm lý: từ lặng lẽ, dồn nén, rồi bùng nổ khi nghe tin “có người đàn bà đang đi tìm đứa con bị bỏ rơi năm xưa”. Đó không phải là cao trào đơn thuần, mà là điểm nổ của ký ức bị vùi lấp.

Nhà lý luận Mikhail Bakhtin gọi hiện tượng này là “căng thẳng trong diễn ngôn”: nơi mà cảm xúc và ký ức không bộc lộ qua hành động, mà vỡ ra từ bên trong lớp ngôn ngữ.

 

Hệ hình thẩm mỹ: Khác biệt, không phải bản sao

Cần phân biệt rõ: cùng viết về miền Tây và người yếu thế không đồng nghĩa là lặp lại thẩm mỹ của nhau. Tư duy “người đến sau là bản sao” là biểu hiện của chủ nghĩa hình mẫu trong tiếp nhận, vốn đã nhiều lần bị phê phán bởi các nhà lý luận văn học hiện đại.

Từ đó, có thể khẳng định: “Trăm Ngàn” không nằm trong hệ hình Nguyễn Ngọc Tư, mà gắn với phê bình nữ quyền (feminist criticism) và phê bình giới (gender studies), những trào lưu vẫn còn khá mới mẻ trong văn học Việt Nam hiện đại.

 

Văn học hậu hiện đại và quyền tự chủ diễn ngôn

Nếu áp dụng lý thuyết của Linda Hutcheon trong A Poetics of Postmodernism (1988), ta thấy “Trăm Ngàn” là biểu hiện của một hình thức “tự sự thiểu số” (minor literature, theo Deleuze & Guattari), nơi mà các tiếng nói bị bên lề hóa tìm lại quyền hiện diện qua nghệ thuật.

Nhân vật Trăm Ngàn không đại diện cho ai cả. Cô không phải “một miền Tây”, không là “người chuyển giới điển hình”, cũng không là biểu tượng của “tình mẹ thiêng liêng” nào cả. Cô chỉ là một cá thể được kể lại với toàn bộ sự yếu đuối và khao khát làm người.

Việc đánh giá tác phẩm qua lăng kính “có giống Nguyễn Ngọc Tư không” là một biểu hiện của chủ nghĩa trung tâm trong văn học: lấy một tên tuổi làm mốc, và quy chiếu mọi người khác theo tiêu chuẩn đó.

Truyện ngắn “Trăm Ngàn” của Ngô Tú Ngân cần được nhìn nhận không phải như một biến thể không thành công của một phong cách văn học cũ, mà như một tiếng nói mới mẻ, phi trung tâm, đậm chất nữ quyền, đang tìm cách mở rộng biên giới tự sự trong văn học Việt.

Phê bình văn học hiện đại, nếu muốn có giá trị kiến tạo thay vì tiêu hủy, cần học cách từ bỏ định kiến “bản sao- nguyên mẫu”, “giống- khác”, “chuẩn- lệch”, để chấp nhận những giọng nói khác biệt như một phần thiết yếu của tiến trình văn học.

Như Homi Bhabha từng viết: “Giọng nói khác biệt không làm yếu đi bản sắc chung, mà làm cho bản sắc ấy trở nên sống động.”

--------

Nguồn:https://www.facebook.com/letho.binh/posts/pfbid0GCptjxhnw8kkHsgmRftsPkvTuoeUjiENoeBUPUhfXDdfQBsWhCp1tMJN5J3aRneil

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài viết của (về) tác giả Ngô Tú Ngân0

- Các bài viết của (về) tác giả Đặng Chương Ngạn0

- Các bài viết của (về) tác giả Hà Thanh Vân0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Quang Đạo0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Đức Tín (Khét)0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Hạ Vi0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Đức Phổ0

- Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệtl

- Vài cảm nhận khi xem phim BỐ GIÀ (web drama) của Trấn Thànhl

- Bạn đọc cảm nhận về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

 l

Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn

CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:

 Trần Hạ Vi giới thiệu

Tác giả: Lê Thọ Bình - nguồn: facebook

Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet

Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.

0 comments:

Đăng nhận xét