(Nguồn ảnh: internet) |
ỨNG DỤNG NGŨ HÀNH
VÀO LUẬN GIẢI TỬ VI
*
Thời gian qua, tôi nhận được nhiều thư của bạn đọc hỏi về việc vận dụng Âm
Dương Ngũ Hành thế nào trong Tử Vi. Vấn đề này tưởng đơn giản nhưng lại khá
phức tạp vì sách viết về Âm Dương Ngũ Hành tuy nhiều nhưng những sách tôi đã
đọc thì các tác giả thường viết không kỹ, không sâu nên việc tiếp cận với Âm
Dương Ngũ Hành ứng dụng vào Tử Vi trở nên trừu tượng.
Trong số các tác giả viết về ứng dụng Âm Dương Ngũ Hành vào Tử Vi thì bài: TÌM
HIỂU VỀ NGUYÊN LÝ NGŨ HÀNH của tác giả Đặng Xuân Xuyến, trong cuốn TỬ VI KIẾN
GIẢI, do Nhà xuất bản Thanh Hóa ấn hành lần thứ nhất năm 2009 là viết khá kỹ,
sâu - rộng và dễ hiểu, dễ vận dụng.
Theo quan điểm của tác giả Đặng Xuân Xuyến thì:
“Khi coi lá số, người luận giải bao giờ
cũng ngó qua mối tương quan giữa hành của bản Mệnh với hành của Cục, sao và
cung an Mệnh theo quy luật sinh khắc của Ngũ hành để tìm nhanh nét phác thảo
chính của cuộc đời đưong số. Càng hội tụ nhiều sự sinh nhập cho bản Mệnh thì lá
số đó càng đẹp, đương số càng chiếm được nhiều lợi điểm về sự may mắn, lộc
tài... Ngược lại, hành bản Mệnh càng chịu nhiều sự khắc nhập từ Cục, sao và
cung an Mệnh thì lá số đó càng xấu, càng kém may mắn và bất hạnh.
Khi xét về tương quan giữa hành của bản Mệnh
với hành của Cục, sao và cung an Mệnh, người coi số thường chỉ chú trọng tới
Cục, sao và cung an Mệnh xem sinh - khắc thế nào với hành của bản Mệnh, nhưng
có người cẩn thận hơn còn xét cả mối tương quan giữa sao và cung an Mệnh cũng
trong mối tương quan ngũ hành để chi tiết hơn hiệu lực của các tinh đẩu ảnh
hưởng tới đương số như thế nào.
Việc xét tương quan Ngũ hành của bản Mệnh với
Cục, sao và cung an Mệnh được tuân thủ theo 5 nguyên tắc sau:
A. NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT:
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất,
xét về tương quan giữa hành khí của sao và hành bản Mệnh.
Hành sao sinh hành Mệnh: Trường hợp này
hành sao bị hao tổn, bị chiết giảm mà ảnh hưởng xấu tốt của sao bị yếu đi nên
Mệnh được hưng vượng lên, nghiã là sao làm lợi cho Mệnh cho dù đó là cát tinh
hay hung tinh. Nếu là cát tinh sáng sủa thì đưa đến lợi ích trọn vẹn cho Mệnh
nhưng nếu cát tinh lạc hãm thì Mệnh tuy cũng hưởng lợi nhưng không được toàn
vẹn vì sao bị hãm địa. Nếu là hung tinh sáng sủa thì các tính chất tốt xấu của
nó cũng khiến bản Mệnh hưng thịnh lên và nếu hung tinh lạc hãm thì cũng ít bị
nguy hại hơn vì hành sao bị hao tổn nên ảnh hưởng xấu của nó không thể tác họa
mạnh tới Mệnh, trong khi bản Mệnh lại được hưng thịnh vì đã được sao phù sinh.
Hành sao
đồng hành cùng hành Mệnh: Trường hợp này cả hai đều được hưng
vượng lên. Mọi ảnh hưởng tốt hay xấu của sao dù là cát tinh hay hung tinh lên
Mệnh vẫn phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng của chúng, tuy nhiên bản Mệnh mang những
đặc tính của sao nên sao đó thuộc về mình, mình hoàn toàn chỉ huy được sao một
cách trọn vẹn vì thế hành khí của bản Mệnh được hưng thịnh lên, do đó hành sao
đồng hành với bản Mệnh thì tốt nhất.
Hành
Mệnh sinh hành sao: Trường hợp này hành khí của sao được
hưng thịnh lên, trong khi bản Mệnh bị hao tổn. Vì hành khí của sao hưng thịnh
lên nên cho dù cát tinh có sáng sủa cũng không đem lại lợi ích cho Mệnh mà còn
làm cho Mệnh bị hao tổn khi sao phát huy tính chất của nó. Tệ hại nhất là khi
hung tinh lạc hãm sẽ gây bất lợi cho Mệnh nhiều hơn do các tính chất xấu của nó
phát huy ảnh hưởng.
Hành sao
khắc hành Mệnh: Trường hợp này hành khí của sao vẫn
giữ nguyên, nhưng bị giam cầm bó tay không hoạt động được còn bản Mệnh bị hao
tổn, thiệt hại rất nhiều, có nghiã là sao hoàn toàn chủ động gây nhiều điều bất
lợi cho bản Mệnh. Cho dù cát tinh miếu vượng thì mọi tính chất tốt đẹp của sao
cũng không đem lại điều gì tốt lành cho bản Mệnh thậm chí còn làm cho Mệnh bị
mệt mỏi, tuy nhiên vì là cát tinh nên cũng đỡ lo ngại. Còn nếu là hung tinh thì
thật là bất lợi cho Mệnh, nhất là khi hung tinh hãm địa thì tính chất xấu của
nó càng làm cho bản Mệnh thêm bất lợi, nguy hại.
Hành
Mệnh khắc hành sao: Trường hợp này hành sao bị tổn hại,
suy yếu nên cường độ ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị giảm rất nhiều trong khi Bản
Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được, nghiã là sao đó không thuộc về
mình và bản Mệnh không chỉ huy được sao. Dù là cát tinh sáng sủa hay lạc hãm
thì Mệnh cũng chịu ảnh hưởng không nhiều tính chất tốt (nếu sáng sủa) hay xấu
(nếu lạc hãm) của sao. Hung tinh đắc địa hay hãm địa cũng vậy, do hành Mệnh khắc
hành sao làm cho hành khí của sao bị suy yếu đi nhiều nên ảnh hưởng tính chất
xấu tốt của sao lên Mệnh không còn là bao trong khi hành Mệnh bị giam cầm không
hoạt động được nên trường hợp này cũng không tốt cho bản Mệnh.
B. NGUYÊN TẮC THỨ HAI:
Xét tương quan giữa hành Mệnh và hành cung để
xét đoán Mệnh thịnh hay suy
Hành
cung sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh nhờ được
hành cung sinh xuất nên bản Mệnh thêm vững chắc, hưng thịnh. Đây là trường hợp
tốt nhất khi xét mối tương quan giữa hành Mệnh và hành cung.
Hành
cung đồng hành cùng hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bình hòa
với hành cung nên cả 2 đều hưng thịnh nên không xấu. Vì không có sự sinh - khắc
giữa hành bản Mệnh và hành cung nên mối tương quan này không thật tốt, cũng
không thật xấu mà chỉ ở mức bình thường. Tuy nhiên, sự bình hòa về hành cũng
thêm một lợi điểm cho lá số nếu so với 3 trường hợp dưới đây.
Hành
cung khắc hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị hành
cung khống chế, làm suy tổn sinh khí nên xấu nhất. Trong trường hợp này, bản
Mệnh luôn bị mỏi mệt, nguy hại và bất lợi nên rất cần có sự phù trợ của các sao
để quân bình sự bất lợi cho lá số.
Hành
Mệnh khắc hành cung: Trường hợp này hành bản Mệnh tuy khắc
xuất hành cung nhưng bản Mệnh cũng không được lợi ích gì, vì để làm suy yếu
hành cung thì hành bản Mệnh phải tổn hao nguyên khí nên bản Mệnh bị giam cầm,
bó tay không hoạt động được. Trường hợp này tuy không phải xấu nhất nhưng cũng
là điểm bất lợi cho lá số khi xét về tương quan giữa hành bản Mệnh với hành
cung.
Hành Mệnh
sinh hành cung: Trường hợp này hành bản Mệnh sinh xuất
cho hành cung nên hành khí của cung được hưng vượng lên, tốt
thêm lên nhưng bản Mệnh lại bị tiết khí, hao tán vì thế nên xấu. Đây
cũng là điểm bất lợi cho lá số, rất cần có sự phù trợ của các sao để quân bình
lại sự bất lợi cho lá số.
C. NGUYÊN TẮC THỨ BA:
Xét tương quan giữa hành của tam hợp cục của
cung an Mệnh với hành bản Mệnh.
Tam hợp
cung Mệnh sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh được hưng
thịnh nên tốt nhất.
Tam hợp
cung Mệnh hòa hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh và
hành của Tam hợp cung Mệnh bình hoà, cả 2 đều được hưng thịnh lên, không có
sinh - khắc nên tốt. Tuy nhiên vì bình hòa nên mức độ tốt thua kém trường hợp
Tam hợp cung Mệnh sinh hành bản Mệnh.
Tam hợp
cung Mệnh khác hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị suy
tổn nhiều, bị chết nên xấu nhất.
Mệnh
khắc hành Tam hợp cung Mệnh: Hành bản Mệnh tuy khắc thắng (khắc
xuất) nhưng cũng chẳng được lợi ích gì vì bản Mệnh bị bó tay, không hoạt động
được nên xấu.
Mệnh
sinh hành Tam hợp cung Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị tiết
khí hao tán, suy kiệt nên xấu nhì.
D. NGUYÊN TẮC THỨ TƯ:
Xét tương quan giữa hành cung với hành sao.
Nguyên tắc này tương đối không quan trọng, chỉ mạng ý nghiã gia giảm chút ít.
Hành
cung sinh hành sao: Trường hợp này đẹp nhất vì sao được
cung phù trợ, nuôi dưỡng, bồi đắp nên hành khí của sao được hưng thịnh.
Hành
cung đồng hành với hành sao: Trường hợp này bình thường, không xấu,
không tốt vì hành của cung bình hòa với hành của sao nên hành khí của sao không
thay đổi.
Hành sao
sinh hành cung: Trường hợp này xấu vì hành sao sinh
xuất cho hành cung nên bị hao tổn, tiết khí mà yếu đi.
Hành sao
khắc hành cung: Trường hợp này cũng xấu bởi hành sao
tuy khắc thắng hành cung nhưng không có lợi gì vì bị giam cầm không hoạt động
được.
Hành
cung khắc hành sao: Trường hợp này xấu nhất vì hành sao bị
khắc nhập nên thiệt hại nhiều nhất, những ý nghĩa tốt đẹp của sao đã bị khắc
chế mà kém đi về hiệu lực.
E. NGUYÊN TẮC THỨ NĂM:
Xét tương quan giữa hành của bản Mệnh với
hành của Cục.
Hành Cục
tương đồng với hành bản Mệnh: Trường hợp này cả hai hành không có sự
sinh - khắc nên cả 2 đều được hưng vượng lên nên tốt.
Hành Cục
sinh hành bản Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh được hành
Cục phù trợ, bồi đắp, nuôi duỡng vì thế mà được hưng thịnh nên tốt. Đây là
trường hợp tốt nhất khi xét về tương quan liên hệ giữa hành bản Mệnh với hành
Cục.
Hành bản
Mệnh sinh hành Cục: Trường hợp này xấu vì hành Mệnh bị suy
yếu do sinh xuất cho hành Cục, trong khi hành Cục được hưng thịnh (nhờ được
hưởng sinh nhập) nên không tốt cho bản Mệnh.
Hành bản
Mệnh khắc hành Cục: Trường hợp này cũng không đẹp vì hành
của bản Mệnh tuy khắc xuất hành Cục nên cũng bị hao tổn hành khí vì thế mà bản
Mệnh bị giam cầm, bó tay không hoạt động được. Dẫu vậy, trường hợp này cũng
không có hại, mà chỉ ở mức trung bình.
Hành Cục
khắc hành bản Mệnh: Trường hợp này xấu nhất trong mối quan
hệ giữa hành Cục và hành Mệnh. Ở đây, hành khí của bản Mệnh bị suy thoái do
chịu sự khắc nhập từ hành Cục.”
Quý vị có thể tham khảo toàn bộ bài viết trên theo đường link sau:
Đây là bài viết hữu ích với những ai muốn tìm hiểu kỹ và sâu, rộng về ứng
dụng Âm Dương Ngũ Hành vào cuộc sống. Tuy vậy, theo quan điểm cá nhân tôi, quý
vị bạn đọc cũng nên tham khảo thêm quan điểm của tác giả Lê Thực, khi bàn về
việc so sánh Ngũ Hành trong Tử Vi.
Xin trích quan điểm của tác giả Lê Thực để quý bạn đọc tham khảo:
“Không nên dùng nhiều so sánh Ngũ
Hành trong Tử Vi
Những người mới học tử vi thường có những so
sánh về ngũ hành. Đơn giản vì nó dễ áp dụng, dễ dùng, có thể so 1 phát ra luôn.
Ví dụ:
- So sánh ngũ hành mệnh và cục (ghi sẵn trên
thiên bàn).
- So sánh ngũ hành chính tinh và ngũ hành
mệnh.
- So sánh ngũ hành chính tinh và ngũ hành
cục.
- So sánh ngũ hành chính tinh và ngũ hành
cung (Tý là thuỷ, Ngọ là hoả, Thân là kim v.v…)
- So sánh ngũ hành chính tinh và phụ tinh.
Và nhiều kiểu so sánh tự nghĩ, tự suy, tự
luận ra khác nữa.
Thực ra, so sánh cũng được, nhưng các quy
luật nhiều khi lại không đơn giản nhẹ nhàng.
- Ngũ hành có sinh và khắc. Nhưng ngoài sinh
và khắc, còn có phản sinh, phản khắc, tương thừa, tương vũ. Cũng là các quan hệ
của ngũ hành.
Ngũ hành lại còn phân âm dương. Dương khắc
dương hay âm khắc âm mới thực là khắc. Dương khắc âm hay âm khắc dương nhiều
khi lại có ý nghĩa tốt chứ không hẳn là xấu.
- Ngũ hành mệnh và cục đều là ngũ hành nạp
âm. So sánh với nhau còn hợp lý. Các ngũ hành khác không phải là ngũ hành nạp
âm. Do đó đem so sánh với ngũ hành mệnh, cục hơi khiên cưỡng.
- Ngũ hành nạp âm lại có các giai đoạn sinh,
thành, vượng, yếu khác nhau. Nếu chỉ đơn giản so sánh ngũ hành vs ngũ hành, mà
không để ý đến mạnh hay yếu, cũng là thiếu sót.
- Từ ngũ hành cục, chúng ta an ra đường vòng
trường sinh. Cũng từ cục, kết hợp với ngày sinh, chúng ta an ra chính tinh với
thế đứng 14 sao. Như vậy, chính tinh với thế đứng của nó, kết hợp với vòng
trường sinh, đã chỉ ra độ vượng suy nhất định. Kết hợp thêm so sánh ngũ hành
nữa, sẽ gây rối loạn.
- Như ý trên, thế đứng chính tinh kết hợp
vòng trường sinh đã chỉ ra độ vượng suy, có nhận định khá tốt rồi. Nếu kết hợp
so sánh với ngũ hành cung (Tý là thuỷ, Ngọ là hoả, Thân là kim v.v…) vừa rối
loạn, vừa sinh ra những câu hỏi không đáng có. Ví như tại sao Thất Sát hành
Kim, mà lại miếu ở Dần và Ngọ. Đồng thời miếu ở Thân và Tý. Trong khi tại Dậu
không miếu địa.
Vậy ngũ hành của sao trong tử vi, thực chất
là gì.
Thực chất là các tính chất, ý nghĩa của sao,
quy về 5 nhóm.
Ngũ hành trong tử vi là ngũ hành thiên vị,
không phải ngũ hành công bằng.
- Hành THỔ được chọn làm chuẩn mực của cái
tốt, của quý nhân, có quyền năng cứu giải đặt lên các hành khác.
Tử Vi Thiên Phủ Lộc Tồn, và những sao này
không bao giờ hãm địa.
Cát tinh thường thuộc Thổ.
Sao hành thổ khi xấu là sự u mê, tối tăm. Như
sao Thai.
- Hành HỎA là hành đại diện cho sát tinh,
tàn phá, khắc nghiệt, giết chóc.
Các hung sát tinh hạng nặng phần nhiều là
hành hoả.
Sao hành hoả khi tốt là sáng lập, dẫn đầu,
mạnh mẽ, quyết liệt, tính năng động. Sao hành hoả khi tốt chủ lễ nghĩa.
- Hành MỘC được chọn cho nhân từ cứu giải.
Thiên Lương được chọn cho hành mộc với ý
nghĩa thầy thuốc nhà giáo nhân hậu cứu khổ cứu nạn.
Sao hành Mộc khi xấu, thể hiện hao bại tinh,
tuy nhiên không quá mạnh, ý nghĩa không rõ ràng. Thường sao hao bại tinh không
đủ mạnh xếp vào hành khác thì xếp vào hành Mộc.
- Hành THỦY được chọn cho suy bại bệnh tật
hao mòn hoang hủy.
Các sao thuộc thủy đều ám tàng bệnh tật và sự
phá hoại kiểu rút ruột ăn chơi dâm dật, bệnh tật ăn dần ăn mòn cơ thể.
Tham Lang được TTL chủ động lựa chọn hành
thủy với ý nghĩa ăn chơi sa đọa.
Sao hành Thuỷ khi tốt thì cũng mang ý nghĩa
tu hành, phiêu đãng, hoặc sinh lực bất tận.
- Hành KIM được chọn cho khó khăn vất vả kinh
tài buôn bán.
Sao hành Kim thể hiện các tai hoạ thực tế, sự
vất vả. Nhưng cũng thể hiện tiền tài. Đều là những thứ thực tế, chân thực, gắn
liền với cuộc sống hằng ngày, rõ ràng, dễ thấy.
Vì thế. Ngũ hành của sao trong tử vi, không
nên đem so sánh với ngũ hành mệnh. Vì bất cứ tuổi nào, cũng có người cẩn
trọng (Thổ), ăn chơi sa đoạ (thuỷ), buôn bán giỏi (kim), nóng nảy khắc nghiệt
(hoả) v.v….
Bất cứ ngũ hành mệnh nào, cũng có thể ăn trọn
được tính chất của các chính tinh, chứ không phải chỉ người mệnh Thổ mới ăn
được Tử Phủ, người mệnh Hoả mới ăn được Thái Dương.
Vì ngũ hành sao là thể hiện tính chất. Khi
soi xét tính chất, cục nhựa được mài thành dao cũng có hành kim, mà cục đá (thổ)
được mài thành dao, cũng có hành kim. Người mệnh Kim thì chúng ta nên so sánh với cái nào đây,
so với tính chất (dao nhọn, cắt, đâm), hay so với vật liệu (nhựa, đá) để biết
ăn được hay không được.
Thế nên khi đã mông lung khó định và thiếu cơ
sở vững chắc, tốt nhất đừng dùng.
Người mới học tử vi, không nên dùng quá nhiều
ngũ hành. Bởi hơn 100 thần sát với ý nghĩa khác nhau, cộng thêm chính tinh,
tuần triệt, đã thể hiện quá nhiều sự tương tác giữa can vs can, can vs chi, hay
tương tác giữa các yếu tố năm, tháng, ngày, giờ rồi.”
Thưa quý bạn đọc!
Sau khi đọc xong đoạn trích dẫn quan điểm của tác giả Lê Thực về việc so
sánh Ngũ Hành trong Tử Vi, chắc quý vị sẽ thắc mắc: Vậy thì rốt cục là theo
quan điểm của tác giả Đặng Xuân Xuyến hay quan điểm của tác giả Lê Thực? Xin
thưa cùng quý vị! Những kiến giải của tác giả Đặng Xuân Xuyến là những kiến
thức cơ bản, là nền móng cần thiết cho bất kỳ ai khi luận giải lá số, còn quan
điểm của tác giả Lê Thực là những gợi ý nên biết để quý vị linh hoạt khi vận dụng Ngũ
Hành vào Tử Vi.
*.
ĐỖ VIỆT PHƯƠNG (tổng hợp)
Địa chỉ: Khu tập thể đóng tàu Bạch Đằng
Ngã tư An Dương, Lê Chân, Hải Phòng.
Email: dovietphuong118@yahoo.com.vn
.
..
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 23.07.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét