(Văn sĩ Thái Quốc Mưu, thứ 4, từ trái sang phải) |
CẢM NHẬN VỀ THÁI QUỐC MƯU
– CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM
*
Tại
xứ sở Gone With The Wind, tôi có nhiều anh chị em, bạn viết khá tên tuổi và bạn
lính, bạn tù Hà Trung Yên, Thái Quốc Mưu, Nguyễn Kỳ Thành,... Có người nổi tiếng
trước 1975, có kẻ thành danh sau khi ra hải ngoại.
Nguyễn
Kỳ Thành, nhiều năm qua là chủ nhiệm tờ Tự Do của Hội Cựu Tù Nhân Chánh Trị,
Georgia, yêu văn chương nhưng ít viết; Ông là chủ tịch Hội Cựu Tù Nhân Chánh
Trị nhiều nhiệm kỳ, trụ cột của hội, liên hội này hàng chục năm, mang nhiệt tâm
xây dựng, phát triển hội nghiêm minh, trong sạch, chăm lo hết mình hướng về
thương phế binh, cô nhi quả phụ, tử sĩ ở quê nhà.
Qua
thời gian ngăn cách và vì đời sống... tới nay, còn lại Thái Quốc Mưu, Nguyễn Kỳ
Thành cùng tôi còn nối dài được thâm tình, gần gũi, tương đối đều đặn.(Tác giả Lê Nguyễn)
Bài
viết sau đây, tôi dành viết về người bạn văn, thơ, báo chí tên Thái Quốc Mưu
với các bút danh Bằng Giang, Liêu Tần Tử, Liêu Tiên Sinh và tên thật.
Tôi
định cư tại Alabama rồi Florida không xa Georgia mấy, tôi vẫn ghé thăm, tâm sự
với hai anh Nguyễn Kỳ Thành, Thái Quốc Mưu nhiều lần. Thái Quốc Mưu cũng mấy
bận lái xe đến Florida và ghé thăm tôi. Ngoài ra, chúng tôi còn gặp nhau ở
nhiều thành phố ở các tiểu bang khác trong các kỳ sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật,
Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Đại Hội Thi Ca Quốc Tế.
Ngoài
kỳ đến dự Thế Vận Hội Atlanta 1996. Lần đầu tôi đến Atlanta để ra mắt thi tập
thứ hai Mưa Qua Miền Ký Ức, một trong 3 tác phẩm tôi đã xuất bản. là các tập:
Quốc Mưu, Nguyễn Kỳ Thành cùng tôi còn nối dài được thâm tình, gần gũi, tương
đối đều đặn.
Bài
viết sau đây, tôi dành viết về người bạn văn, thơ, báo chí tên Thái Quốc Mưu
với các bút danh Bằng Giang, Liêu Tần Tử, Liêu Tiên Sinh và tên thật.
Tôi
định cư tại Alabama rồi Florida không xa Georgia mấy, tôi vẫn ghé thăm, tâm sự
với hai anh Nguyễn Kỳ Thành, Thái Quốc Mưu nhiều lần. Thái Quốc Mưu cũng mấy
bận lái xe đến Florida và ghé thăm tôi. Ngoài ra, chúng tôi còn gặp nhau ở
nhiều thành phố, tiểu bang khác trong các kỳ sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật, Đại
Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Đại Hội Thi Ca Quốc Tế.
Ngoài
kỳ đến dự Thế Vận Hội Atlanta 1996. Lần đầu tôi đến Atlanta để ra mắt thi tập
thứ hai Mưa Qua Miền Ký Ức,
một trong 3 tác phẩm tôi đã xuất bản.
Thái
Quốc Mưu cùng Nhà văn Lê Nhật Thăng ra đón tôi và qua lần đầu gặp gỡ chúng tôi
đã trao nhau nhiều thiện cảm. Từ đó chúng tôi thân nhau!
Qua
tâm sự, được biết từ năm 1962, Thái Quốc Mưu là Biên Tập Viên Địa Phương và
viết cho 2 Nguyệt san Nông Thôn Vùng Dậy, của Tổng Bộ Xây Dựng Nông Thôn và
Nông Thôn Mới của Bộ Phát Triển Nông Thôn (bút danh Bằng Giang, Liêu Tần Tử).
Cả hai Nguyệt San đều phát hành mỗi số 100 ngàn ấn bản, phổ biến ở Nông Thôn từ
Bến Hải đến Cà Mau, nên tên tuổi Thái Quốc Mưu chưa nổi danh trong làng văn học
Đô Thị. Ông thực sự nổi tiếng vượt cả lằn ranh quốc gia, sau khi ra hải ngoại.
Thái
Quốc Mưu đã có khoảng 8 tác phẩm thơ văn được ấn hành, một số ra mắt bán rất
chạy. Thành công và nổi bật nhất có: Tập
Văn, Thơ Gió Quyện Hương Đồng,
truyện vừa Phía Sau Cuộc Đời,
thơ Đường Luật Thái Quốc Mưu,
thơ Tứ Tuyệt Thái Quốc Mưu.
Thái
Quốc Mưu sáng lập Tạp chí Kiến Thức Phổ Thông Dân Việt, từ tháng 12/1995, sau
gần 3 năm đến định cư ở Mỹ (22-2-92).
Khi
đến Mỹ Thái Quốc Mưu đã ngoài 52 tuổi, ông phải vừa mày mò computer, vừa học
lóm, học qua hướng dẫn của các em sinh viên... Nhờ kiến thức nhạy bén, lòng
nhiệt tâm, giàu nghị lực... hầu thích hợp với cách in ấn hiện đại. Chỉ sau
chừng hai năm tờ Kiến Thức Phổ Thông Dân Việt đã theo kịp và dần vượt mặt những
tờ báo khác về nội dung, số lượng phát hành.
Không
lâu sau, ông phát hành mỗi tháng 2 số, đưa tờ Dân Việt lên Bán Nguyệt San, với
304 trang trên mỗi số, trở thành tờ báo lớn nhất ở Georgia và vùng Đông Nam Hoa
Kỳ.
Ở
bước đầu, theo ông không dễ dàng suôn sẻ gì. Thay vì chỉ bảo, hướng dẫn, giúp
nhau, một số chủ báo khác họ quyết tâm triệt hạ anh - trong đó có hai chủ báo,
Lê Ngọc Diệp (Rạng Đông) và Mạc Thúy Hồng (Hải Nổ - Lạc Việt) cấu kết đánh phá
ông bằng nhiều thủ đoạn, kể cả hành vi đê tiện nhất: Vu Khống! Chụp Mũ! Vì, họ
biết khả năng sáng tác của ông. Họ triệt Thái Quốc Mưu để giành quảng cáo!
Do
phụ trách nhiều vai trò, layout, design, nhận quảng cáo,... Thái Quốc Mưu tâm
sự, mỗi ngày anh làm việc 15, 16 tiếng.
Sau
mấy mươi năm, tờ tạp chí Kiến Thức Phổ Thông Dân Việt vẫn tồn tại đến nay
(2014). Năm 2015, để an dưỡng tuổi già. Thái Quốc Mưu Bán tờ Dân Việt cho người
khác,
Nhiều
tuyển tập thơ văn hải ngoại ở Pháp, Úc, Canada và cả trong nước mời Thái Quốc
Mưu tham gia cộng tác. Rất nhiều nhà văn, học giả. dịch giả, nhiều cây bút bình
luận, biên khảo văn học trong, ngoài nước viết về văn, thơ Thái Quốc Mưu.
Cuốn
Lưu Dân Thi Thoại do Cơ Sở Thi
Văn Cội Nguồn ở California chủ biên, một cuốn sách có nhiều giá trị văn học,
cũng viết về ông. Nhà văn, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Quang ở Sàigòn, dành nhiều
thời gian đọc, sưu tầm đã biên soạn, viết: “Tiểu Luận Phê Bình Văn Học - Viết Về Nhà Văn Thái Quốc Mưu”,
sách dày gần 400 trang, và giao cho công ty Amazon ở Hoa Kỳ ấn loát và phát
hành toàn cầu. Đủ để minh chứng phần nào sự nghiệp văn, thơ Thái Quốc Mưu.
Tác
giả lớp đàn anh, đồng lứa tôi đã viết khá nhiều, khá kỹ về Thái Quốc Mưu, nên
khi viết về anh, tôi vừa thuận lợi vừa trở ngại, vì sợ dẫm lối mòn. Tôi phải cố
lách để không trùng với những điều người đi trước đã viết qua! Tôi phải sưu tập
những gì mà các nhà phê bình trước chưa nói.
Tôi
chú trọng nhiều vào nét đặc thù về nhân cách, tình cảm, lối sống trong đời
thường, trong sáng tác và tình cảm của Thái Quốc Mưu đối với bè bạn cùng người
nghèo khó! Tuy nhiên, ông vẫn không tránh khỏi những điều khuất tất từ bằng
hữu.
Thái
Quốc Mưu hơn tôi một tuổi, nhưng lịch lãm, hoạt bát, hay đùa, phục sức chuẩn
mực, vóc dáng đĩnh đạc, bản chất nhân hậu, người giàu tâm hồn. Đặc biệt, trong
tứ đổ tường, trà không, rượu chẳng, bài chừa... anh chỉ thích... phụ nữ đẹp.
Trong
đàm đạo, Thái Quốc Mưu hay tếu, kể cả tiếu lâm. Qua ngòi bút, với những kẻ nịnh
hót, điếu đóm, phô diễn, hám danh, gian dối,... thơ văn Thái Quốc Mưu “bất
nương tình”. Ông viết nói xa, nói gần, nói toạc... để vạch mặt, chỉ tên. Cho
nên, Thái Quốc Mưu không phải là kẻ ai cũng “Dzô” được. Cá nhân tôi rất quý
những người bạn có tâm tính, lối sống, cách ứng xử thích hợp từng đối tượng như
ông.
Qua
nhiều lần giao tiếp, tôi đã trải qua phong cách, bản chất con người và tâm hồn
chân thật của Thái Quốc Mưu. Tôi rất quý mộ ông.
Sau
đây, tôi xin đi vào thơ, văn Thái Quốc Mưu với đôi nét chấm phá đặc thù thôi.
Vì các nhà bình luận, nhà văn, học giả khác đã viết nhiều về anh rồi.
Hầu
hết các Nhà học giả, bình khảo, dư luận độc giả đều ca ngợi các tập Gió Quyện
Hương Đồng, Phía Sau Cuộc Đời, Thơ Đường Luật Thái Quốc Mưu. Còn mảng Thơ Tứ
Tuyệt Thái Quốc Mưu họ chỉ phơn phớt qua!
Tôi
cố tránh và chỉ khai thác những dữ kiện mà người sính văn thơ chưa viết trọn,
thiếu sót về thi nghiệp Thái Quốc Mưu.
Viết,
đọc hơn năm mươi năm, dù tri kiến giới hạn, tôi nghĩ không chỉ riêng tôi. Ai
đọc Tứ Tuyệt Thái Quốc Mưu, dù
chỉ đọc qua vài bài, cũng khó thể không bị cuốn hút và tỏ bày thiện cảm.
Hiếm
khi bắt gặp thơ Tự Do ở Thái Quốc Mưu, vì như cố thi sĩ Đinh Hùng phát biểu: “Trên nền trời thi ca, mỗi người thơ là một
hành tinh phát tiết ra hào quang, ánh sáng…. Mà muốn được tồn tại bền lâu, tự
mình phải chọn lấy hướng đi gập ghềnh con đường thơ trước mắt” Thái Quốc
Mưu đã chọn được đường thơ.
Văn,
Thi sĩ Hà Trung Yên nhận định: “Thơ Thái
Quốc Mưu có phong cách, hướng đi riêng, không dẫm vào lối mòn của các nhà thơ
khác!” Để rồi ông khẳng định: “Nếu ai
đem vài chục bài thơ Thái Quốc Mưu trộn lẫn trăm bài thơ của người khác, khi
đọc, tôi có thể nhận ra bài nào là thơ Thái Quốc Mưu với xác suất 99%.”
Lục
Bát, theo tôi, dễ vô cùng - Dễ hơn cả Tự Do nhiều. Những ai mon men tìm đến thơ
đều kinh qua Lục Bát. Thế mà, Lục Bát cũng khó vô cùng, nó là cửa tử của người
làm thơ!
Lệch
tay, lơi bút kéo lê ra chỉ hai, ba trang giấy là nhiều! Đừng nói tới 3.254 câu
như Kiều của Nguyễn Du - sẽ... hóa “vè” ngay! Chơi Sáu, Tám là cầm chắc trong
tay con dao hai lưỡi. Lục Bát đến và ngoảnh mặt quay đi là chuyện bình thường!
Trong
số anh em, bạn viết đồng triều, tôi thấy Trần Vấn Lệ hiếm khi phổ biến thơ Lục
Bát. Trần Hoài Thư, ngoài sở trường là Văn, sau này cũng in tới sáu, bảy thi
tập. Tìm đỏ mắt mấy ai gặp được năm, bảy bài Lục Bát? Họ đã chọn đúng đường
thơ!
Lục
Bát nên dành cho Nguyễn Du tiên sinh, vừa triết lý vừa sâu sắc; Nguyễn Bính,
vừa mộc mạc vừa dung dị. Ai đọc cũng ái mộ, gần gũi. Hoàng Trúc Ly như men rượu
nồng nhẹ chua, pha chút hoang tưởng đáng yêu, khiến người đọc như bị cuốn xoáy,
phải suy nghĩ, gặm nhấm mới hiểu và hình dung ra được ý thi nhân muốn thầm thì,
bày tỏ.
Còn
Phạm Thiên Thư, Anh Hoa, Hoa Văn, Viên Linh mỗi hành trình Sáu, Tám mang một
dáng vẻ. Tự Do là thánh địa của Thanh Tâm Tuyền. Có “phần khó hiểu” đã được
Nguyên Sa khai phá êm ái, dịu dàng. Nhất Tuấn dễ thương, dễ gần gũi; một thời
của những kẻ vào yêu nũng nịu, nhõng nhẽo, hờn mát; Trẫm & Ái Khanh Đường
thi trang trọng chuẩn chỉnh, và khi đọc thơ Đường của thi nhân họ Vũ hay Quách
Tấn... ta như thấy thiếu mất một bát trầm hương phải được đốt lên giữa khuya
đêm tĩnh lặng.
Còn
Tứ Tuyệt, khá nhiều tác giả viết thành công. Nó (tứ tuyệt) cần gãy gọn, súc
tích ý. Tôi yêu Vương Đức Lệ và nay ghi thêm Thái Quốc Mưu vào lòng. Tôi coi
Thơ Đường, Tứ Tuyệt là “ngón độ” của ông. Bởi, qua thơ bốn câu rất ngắn, Thái
Quốc Mưu đã vẽ ra được chân dung cuộc đời, hỷ, nộ, ái, ố, bi, lạc, dục. Đọc và
hiểu, không phải lắt léo, quanh co, hay làm ra dáng vẻ...
Tứ
Tuyệt Thái Quốc Mưu đưa lên được, dám nói tới, cái mặt sau sần sùi của tấm huy
chương có tiền diện óng ánh mà người đời ưa phô diễn ra. Đọc mỗi bài thơ chỉ
mỗi bốn câu của Liêu Tần Tử tiên sinh, tôi thường phải đọc ba, bốn, năm lần.
Không phải để moi óc mới hiểu, mà để thầm cười, gậm nhấm, nhíu mắt, cau mày...
mới đã!
Qua
đây, tôi xin trích dẫn để chúng ta cùng thưởng thức - để khích lệ tác giả nên
khai thác mảng thơ nầy - mà không nhận định, luận bàn. Vì Tứ Tuyệt không khác
mấy thơ Haiku Nhật Bản, tự nó đã mang, đã gói trọn ý nghĩa, đôi khi nhốt trọn
cả trời nhân sinh vũ trụ, nghĩa đời trong đó. Có khi, chỉ ba, bốn câu mà phải
nặn óc, moi tim viết, sửa cả tháng trời, chớ không phải dễ.
Người
viết Tứ Tuyệt luôn cô đọng tinh túy chữ nghĩa, ngoài phần kiến thức ra cần có
đủ tuổi đời lăn lộn trải sống, sâu đậm nội tâm, khổ ải, nhục vinh! Ta hãy cùng
nhau thưởng ngoạn mảnh vườn nhỏ đầy hương sắc trong khu vườn lớn ươm hoa thơ,
hoa văn của Thái Quốc Mưu:
BÀ
MẸ GIÀ
Mẹ già tóc trắng như bông
Mắt mờ, tai lãng, lưng còng tháng, năm
Vai mềm gánh nặng chồng, con
Về già cam phận gối mòn, chân run!
*.
Thái
Quốc Mưu
Hay:
LÒNG
MẸ NGHÈO
Đi xúc mớ cá rồng rồng
Đem về kho tộ tiêu nồng, hành thơm
Lặng nhìn đàn trẻ ngon cơm
Mẹ nhường - Rau đắng rau sam ấm lòng!
*.
Thái
Quốc Mưu
Hai
chữ “Xúc” và “Mớ” nó gợi hình làm sao!
Rõ
ràng Thái Quốc Mưu viết về người Mẹ miền Nam. Mẹ Nam dẫu gì cũng sướng hơn
người Mẹ Trung, Mẹ Bắc. Chỉ cần ra bờ ao, kinh rạch, ruộng đồng là có thể có
miếng ăn cho con cái! Không phải bỏ vốn, nuôi trồng, thời tiết, khí hậu bốn mùa
thuận lợi nhất nước! Ruộng lúa thẳng cánh có bay! Quê Bắc tiết đông, mạ non
phải gieo trên nền gạch. Miền Trung đất cày lên sỏi đá, mưa lạnh cắt da, nắng
lửa cháy người. Bà Mẹ nghèo phải mót nhặt từng hạt lúa vương vải về nấu nồi
cháo loãng cho cả gia đình tạm lòng lưng lửng bụng với con cá cấn, cá mại tong
teo! Còn ốc, rạm có đâu để mò, vớt?
Song,
nhìn chung bà Hiền Mẫu ba miền quê hương như một. Đức hy sinh vô bờ, tính cam
phận vì chồng con bất tận! Hình ảnh bà Mẹ với nhiều tên gọi, tùy vùng đất nước:
Đẻ, Má, U, Mẹ, Bầm, Vú... qua thơ Thái Quốc Mưu không phải mang hình tượng dòng
suối trong, ngọn gió mát, tấm chăn bông, sông dài biển rộng mà chỉ là những
bóng hình cả cuộc đời cần cù, lam lũ, tận tụy, hy sinh, dung dị, trải lòng cam
chịu với chồng con. Đúng là thơ Tứ Tuyệt!
Chỉ
bốn câu gói trọn một bài, có khả năng dàn ra cả mẫu chuyện viết thành truyện
ngắn, truyện dài, cuốn sách. Hèn gì Mai Thảo, Thanh Nam cuối đời nhảy qua thơ,
tôn vinh thơ! Cả Lê Tất Điều, Trần Hoài Thư xoay làm, in ấn nhiều tập. Và, thơ
hay chẳng kém gì văn. Đôi khi còn hơn hẳn văn chỉ vì có vài chục chữ mà mô tả
cả câu chuyện đủ để người đọc hình dung được, thấy được sự việc như bức tranh
với hình ảnh rõ ràng.
LÁ
QUỐC KỲ THÁN
Lộng gió tung bay ở giữa trời
Người người tôn kính, phụng thờ tôi
Nhưng khi mưa bão gào giông tố
Thì cũng như đời, rách tả tơi!
*.
Thái
Quốc Mưu
Mấy
ai trong chúng ta, những con người vốn yêu Tổ Quốc, Non Sông hình chữ “S”, vì
vận nước đành lìa xa quê hương, khi nhẫm đọc bốn câu thơ trên mà chẳng chút
chạnh lòng về cố quốc? Ngoài ra tác giả còn ẩn ý, dù con người có đạt được
quyền uy, trên cùng danh vọng, dù giàu có, của cải nghiêng trời... đến khi mạt
vận cũng gặp phải tang thương tơi tả.
Tôi
tạm, chỉ tạm đồng ý với ông bạn thơ Luân Hoán: “Làm được nhiều thơ, dễ kiếm
được số bài thơ hay!” Nhưng ông Châu bạn thơ, bạn lính của tôi ơi! Hãy đọc mấy
dòng Tứ Tuyệt này:
Kim cổ thi nhân chật kín đời
Cạn dầu mới gặp dở, hay thôi!
Vinh danh đâu phải nghìn trang viết
Chỉ một câu thôi, cũng để đời!
Đúng!
Một câu, chỉ một câu, mà suốt đời mày mò tìm kiếm muốn đỏ mắt, nào dễ có!
THỜI
NAY
Em giàu nhờ bán xì-ke
Có tiền rủng rỉnh bạn bè tới lui
Đến Chùa Sư, Sãi reo vui
Viếng Chúa, Cha xứ hết lời bốc thơm!
*.
Thái
Quốc Mưu
Đọc
bài thơ trên của Thái Quốc Mưu, xin đừng vội lên án tác giả bêu dạng Cha, Thầy,
mà đó là một thực tế cần nhìn như lời cảnh báo quý vị lãnh đạo tinh thần -
Không chỉ ở thời nay, như cái tựa của bài thơ - mà trước, nay không ít Linh
mục, Thượng Tọa vẫn yêu mến, kính ái... “thiếu kín đáo” các trung, đại gia,
khiến con Chiên, Phật tử nghèo phải âm thầm mủi lòng, vẫn xảy ra! Theo ý Thái
Quốc Mưu, dẫu các cơ sở tôn giáo cần tiền nhưng có cái người tu sĩ cần hơn đó
là ĐẠO ĐỨC và LIÊM SỈ. Bốn chữ Đạo Đức, Liêm Sỉ Thái Quốc Mưu nói đây thời nào
chúng ta cũng chỉ thấy ở những bậc chân tu.
Bây
giờ, xin qua ngòi bút nhọn như kim con ong vò vẽ của Liêu Tiên Sinh, mời quý vị
đọc hai bài Tứ Tuyệt vạch mặt những tên hề, với trò điếu đóm, giữa xã hội lẫn
lộn vàng thau:
ĐÔI
ĐŨA
Gắp đủ sơn hào khắp mọi nơi
Gắp đầy hải vị, gắp quên thôi!
Tiệc tùng to, nhỏ đều rôm rả,
Lắm kẻ hai tay đút miệng người!
*.
Thái
Quốc Mưu
CÁI
GHẾ
Danh mộc, xà cừ há phải chơi
Sơn son, đánh bóng dáng thêm ngời
Bốn chân đạp đất bừng uy thế
Nhưng lại đem thân... đội đít người!
*.
Thái
Quốc Mưu
Hết
“móc họng” lũ đội đạp, điếu đóm, nham nhở, tới Thái Quốc Mưu thay Liêu Tiên
Sinh “bóp dế” bọn “dân nổ thành Tuy Hạ”, khi về thăm quê hương lếu láo, nổ,
xạo:
VỀ
NƯỚC... NỔ!
Tôi thằng nghèo nhất Hoa Kỳ
Chê Lexus, mua Mẹc-xơ-đì (Mercedes) chạy chơi
Mấy người kha khá hơn tôi
Chê xe chậm chạp, lái, ngồi trực thăng
*.
Thái
Quốc Mưu
Đồng
ý, trong thơ Thái Quốc Mưu có cường điệu. Nhưng thực tế, ở Mỹ, không thiếu những
người, ngày đứng tám tiếng, đêm về mỏi rụng chân tay, đôi khi “vừa nhai vừa
chạy kiếm Job!” Vậy mà, khi “áo gấm về làng” vẫn nổ. Nổ để dối mình, phỉnh
người! Ra vẻ ở nước ngoài “Ta đây...!”
Ngoài
chất thơ “vạch trần”, Thái Quốc Mưu còn khả năng trào lộng, tếu “độc” trong thi
ca. Chúng ta thử xem:
ĐỒNG
HỒ CỔ
Máy kim hoạt động đêm ngày
Dọc, ngang, lên, xuống chỉ hoài ngay ơ!
Của tôi, đồ cổ tảng lờ
Sớm hôm cứ chỉ... “sáu giờ ba mươi!”
*.
Thái
Quốc Mưu
Và:
Súng người bắn nổ rầm rầm
Súng tôi gỉ sét để nằm trong kho
Tần ngần lau lại buồn xo
Thì ra cái bộ máy cò đã hư
*.
Thái
Quốc Mưu
Đã
thọc léc các lão ông, tất nhiên anh cũng không tha các lão bà:
BÀ
LÃO YÊU ĐỜI
Bà già dấm dá, dấm da
Buồn tình dấm dứ, dấm dơ một mình
Neo thuyền bến vắng buồn tênh
Thèm cơn “sóng vỗ xuống, lên dập dềnh”
*.
Thái
Quốc Mưu
Hoặc
với:
TRỚ
TRÊU
Bà già tóc đã pha bông
Lắm bạc, lấy chồng ở tuổi băm băm
Đêm về già, trẻ chung chăn
“Thằng nhỏ” hổng chịu băm băm bà già!
*.
Thái
Quốc Mưu
Giờ
đây chúng ta cùng đọc Tứ Tuyệt Thái Quốc Mưu ở nhiều phương diện khác.
Về
con người, Thái Quốc Mưu quan niệm hãy sống sao cho xứng đáng con người, nghĩa
là phải bao dung, vị tha, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ... nhau là tốt rồi, chớ
đừng mơ tưởng viễn vông!
NIỀM
MƠ ƯỚC VĨ ĐẠI CỦA TÔI
Mặc ai mơ nước Thiên Đàng
Mặc ai mơ cõi Niết Bàn... xa xôi
“Tôi sinh ra giữa Đất, Trời,
Chỉ mong làm được “CON NGƯỜI” - (Viết hoa!)
Chán
ngấy trước cảnh dựng tượng tôn sùng cá nhân. Thái Quốc Mưu viết:
DỰNG
BIA ĐỜI
Ta đi, bão quật đời tan tác
Chén rượu cay sè bật máu môi
Ta vắt máu tim làm bút mực
Đập tan bia đá, dựng bia đời
*.
Thái
Quốc Mưu
Chẳng
riêng gì Thái Quốc Mưu, ai cũng biết xưa nay những bia, tượng bằng đồng, gỗ,
đá, xi-măng,... không thể tồn tại với thời gian. Điều quý nhất, hãy sống sao để
hậu thế còn nhắc nhở đến tuổi tên của mình cách trân trọng. Không ngoài ý đó,
Thái tiên sinh khẳng định:
TA
VÀ PHẾ LIỆU
Xài đã rồi quăng, rồi lượm lại
Đời ta - phế liệu khác chi nào?
Phế liệu tái sinh - Ta chết? - “Mất!”
Không! Còn tên tuổi để ngàn sau!
*.
Thái
Quốc Mưu
Viết,
ấn hành trọn tập Tứ Tuyệt gần 300 trang với 204 bài. Mỗi bài chỉ bốn câu, 28
chữ. Dàn trải nội dung đa dạng, nhiều màu sắc: Cảnh báo, châm chích, chế nhạo,
răn đời, trào lộng... Đủ các thể loại, các hạng người giữa trần đời ô trọc...
như Thái Quốc Mưu, thật hiếm thấy!
Thơ
Thái Quốc Mưu như dòng suối miệt mài chuyên chở, rỉ rả, róc rách, nhẫn nại vượt
qua thác ghềnh, trong bốn mùa...
*.
LÊ NGUYỄN
Địa chỉ: Orlando, Florida, Hoa Kỳ.
........................................................................................
-
Cập nhật từ email: thaiquocmuu1@aol.com ngày 25.01.2021.
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
-
Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
.
0 comments:
Đăng nhận xét