ĐỌC “CAO XUÂN HUY:
NGƯỜI THẦY - NHÀ TƯ TƯỞNG”
*
(Tác giả Đông La) |
Từ thành quả của Lễ kỷ niệm và Hội nghị Khoa học nhân lần thứ
95 ngày sinh của Cao Xuân Huy, Viện Văn học đã biên soạn cuốn "Giáo sư Cao
Xuân Huy: Người thầy - nhà tư tưởng”. Cuốn sách gồm các bài viết của các tên
tuổi hàng đầu của nền học thuật Việt Nam, đều bày tỏ tình cảm và xưng tụng Giáo
sư Cao Xuân Huy.
Giáo Sư Viện sĩ Nguyễn Duy Quý, nguyên Giám đốc Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia viết Giáo sư Cao Xuân Huy có “một tư tưởng thông tuệ
khác thường”; Giáo sư Trần Quốc Vượng: “Ông già không “giáo sư” dạy ông trẻ “giáo
sư” mà cái thằng tôi nghe thun thút”; Phó Giáo sư Bùi Duy Tân viết: “Các môn
sinh hãy làm cho Đạo và Đức của thầy hiển dương như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh đối
với Chu Văn An khi xưa”; Giáo sư Nguyễn Đình Chú viết: “Tư tưởng phương Đông -
gợi những điểm nhìn tham chiếu… Tôi biết sức mình chưa thể hiểu hết… tôi vẫn
muốn coi nó là một hiện tượng đột khởi trong lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, tính từ xưa tới nay”, “tôi muốn nói đây là sự im lặng của núi. Núi của tri
thức. Núi của trí tuệ. Núi của sự suy tư, của sự nghiền ngẫm”; Giáo sư Nguyễn
Huệ Chi: “Ông như một vầng sáng đã đi qua lâu rồi nhưng tới nay ánh sáng mới
kịp tỏa chiếu”; và, cao hơn hết, Phan Ngọc viết: “Việt Nam có triết nhân Cao
Xuân Huy cũng như Trung Quốc có Lão Tử, Trang Tử”; v.v…
“Tôn sư trọng đạo” là một nét đẹp của văn hóa ứng xử phương
Đông. Có điều, những phát kiến của Giáo sư Cao Xuân Huy lại sai.
*
Cao Xuân Huy viết: “vì có cách nhìn tách biệt “không gian”,
“thời gian”, nên “đã có những nhà khoa học như Einstein và những nhà triết học
mưu đồ thống nhất hai phạm trù này, nhưng họ không thành công, vì hai phạm trù
này là kết quả của một sự sai lầm cơ bản trong tư tưởng logic” (Tư tưởng phương
Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu…, tr.77).
Viết vậy, Cao Xuân Huy đã hiểu sai, hiểu ngược về thuyết Tương
đối của Einstein, bởi thuyết Tương đối đã cho không gian, thời gian không phải
là “tách biệt”, không bất biến mà cả hai cùng phụ thuộc vào chuyển động, cả hai
tồn tại trong một thể thống nhất không - thời gian bốn chiều. Phát minh của
Einstein đã được kiểm chứng và ông đã được tôn vinh, nghĩa là ông rất thành
công chứ không phải “không thành công” như Cao Xuân Huy viết.
Cao Xuân Huy viết, do tư duy “chủ biệt” người ta đã “hư cấu” ra “không
gian”, “thời gian”, để rồi cho đó là “những cái trường sở quyết định sự tồn tại
của vạn vật, thậm chí cả Bản thể nữa” (Sđd, tr.116). Và theo ông, nếu “thủ tiêu
hai cái trường sở hư cấu ấy đi thì chúng ta sẽ nhận thấy một cách cụ thể rằng
cái toàn thể, cái bản thể là cái trường sở trong đó mọi vật tồn tại cùng nhau
và kế tiếp nhau” (Sđd, tr.116).
“Không gian” và “Thời gian” là những thực tại, tồn tại khách
quan đối với ý thức con người, là đối tượng nghiên cứu chính của khoa học, và
chúng cũng được triết học phạm trù hóa để khái quát những quy luật chung nhất,
vì vậy, chúng không phải được “hư cấu” ra như ý của Cao Xuân Huy. Còn ý ông
muốn “thủ tiêu” chúng đi thì sẽ mất tất chứ chẳng còn gì để ông nhận ra “bản
thể” đâu, bởi nếu có cái “bản thể” như ý ông đi chăng nữa thì nó cũng phải ở
trong không - thời gian chứ không thể ở bất cứ một nơi nào khác.
Theo Cao Xuân Huy có hai tư tưởng “chủ toàn” của phương Đông
và “chủ biệt” của phương Tây làm nên hai nền văn minh Đông, Tây mà phương Tây
thì thấp và sai lầm, còn phương Đông thì cao và đúng đắn. Rõ ràng là thực tế
không có vậy. Trong nền văn minh có thể có những yếu tố mang tính “chủ toàn”
độc đáo thuộc về phương Đông. Còn nói phương Tây có phương thức “chủ biệt”
ngược với phương Đông là điều không có thật, mà phương thức “chủ biệt” là cái
tất yếu của mọi việc nghiên cứu ở bất cứ lĩnh vực vào, từ bất cứ phương trời
nào, không phân biệt Đông Tây, kể cả trong phương thức “chủ toàn” cũng có tính
“chủ biệt”. Cái tính “chủ toàn” có lẽ được thể hiện rõ nhất ở lĩnh vực Đông y
và lĩnh vực tu luyện thiền định, tu luyện khí công. Từ những cách thức chung
nhất như bắt mạch, ngồi thiền, hít thở, quán tưởng, những động tác, tư thế tập
luyện… người ta có thể phòng ngừa, chữa bệnh (đặc biệt tốt cho các bệnh thoái
hóa và lão hóa) và khai mở những tiềm năng đặc biệt của cơ thể con người mà
phương Tây không có (nếu sau này có là chỉ học theo). Tuy nhiên cả nền triết
học cổ phương Đông cũng như lĩnh vực Đông y và tu luyện về đại thể mang tính
chủ toàn nhưng chúng cũng chứa những yếu tố chủ biệt. Bởi trong triết học người
ta cũng phải phân rõ ra “âm” - “dương”, định ra ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ, và đưa ra luật tương sinh, tương khắc cụ thể của chúng. Kinh dịch cũng đưa
ra quy luật: thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh
bát quái, bát quái sinh vạn vật… Còn trong Đông y cũng phải xác định cụ thể
những đường kinh, lạc, xác định đúng vị trí các huyệt; các thang thuốc cũng có
những vị, tùy theo mỗi bệnh, được phối hợp với nhau tùy theo tính chất riêng
của chúng và với những khối lượng cụ thể… Tất cả, tất cả những điều đó đều mang
tính phân tích, tính chủ biệt. Còn cứ cho phương Tây có riêng tư tưởng “chủ
biệt” đi thì người ta cũng lại phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn, có định
luật bảo toàn năng lượng, họ cũng biết con người, sinh vật sống phải phụ thuộc
vào môi trường, và người ta còn chỉ ra cơ thể con người cũng như toàn bộ sinh
thể cũng đều được cấu tạo từ những nguyên tố trong Tự nhiên. Tất cả những cái
đó cũng đều mang tính chủ toàn.
*
Theo Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Duy Quý, Cao Xuân Huy cho “toàn
thể quyết định bộ phận” (tr.17); Giáo sư Vật lý Nguyễn Hoàng Phương cũng viết:
“Ông Cao Xuân Huy viết: “Phương thức chủ toàn cho rằng toàn thể quyết định bộ phận, bao
giờ cũng sử dụng phương pháp luận biện chứng, còn phương thức chủ biệt cho rằng
bộ phận quyết định toàn thể” (tr.183); PGS. Cao Xuân Hạo: “Quan điểm chủ toàn
đẻ ra phương pháp tư duy biện chứng và tổng hợp; tư tưởng chủ biệt đẻ ra phương
pháp tư duy siêu hình và phân tích tính” (tr.164); v.v…
Theo định nghĩa của triết học, siêu hình coi sự vật, hiện
tượng là bất biến, ngược lại, biện chứng coi vận động là phương thức tồn tại và
động lực của phát triển. Vậy phải cho phương thức chủ toàn có tính siêu hình
còn phương thức chủ biệt mang tính biện chứng mới đúng, nên các vị viết tư
tưởng Cao Xuân Huy có tính biện chứng như trên là viết ngược!
Nếu nhìn vào thực tế ta cũng sẽ thấy có rất nhiều dẫn chứng
cụ thể và sống động chứng minh tư tưởng “toàn thể quyết định bộ phận” là nói
ngược. Bất cứ một việc to hay nhỏ nào, người ta thường phải tìm ra “cái chìa
khóa” hay “điểm mấu chốt”, tức tìm ra cái bộ phận có thể quyết định sự phát
triển của cả cái toàn thể. Như Chiến dịch Điện Biên Phủ chẳng hạn, chính quyết
định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chuyển từ cách “đánh nhanh thắng nhanh sang
đánh chắc tiến chắc” là cái chìa khóa mở ra cánh cửa tới chiến thắng; Chiến
dịch tổng tấn công 1975, đòn điểm huyệt bất ngờ vào Buôn Ma Thuột khiến thế
trận địch đổ vỡ như dãy đô-mi-nô cũng là việc mở một trong những cánh cửa chính
đi tới Ngày Toàn Thắng. Nhìn vào tự nhiên ta cũng sẽ thấy, trong mọi cơ thể
sinh vật thì chính cái gen bé tí trong nhân các tế bào mới là “bộ phận” quyết
định cái “toàn thể” cơ thể, chính từ nó mà làm nên sự khác biệt giữa các giống
loài và lưu giữ mật mã di truyền đến các đời sau. Quá trình sinh sản, sự kết
hợp giữa tinh trùng và trứng thực ra là sự ghép đôi nhiễm sắc thể của hai nửa
tế bào để thành một tế bào mới mang thông tin di truyền của cả cha mẹ, rồi từ
một tế bào gốc đó, tức từ một “bộ phận” bé tí ti đã phân hóa rồi hình thành nên
cả cái “toàn thể” cơ thể. Khi gen bị tác động, như những người lính bị nhiễm
chất độc da cam chẳng hạn, sẽ sinh ra những đứa trẻ tật nguyền; còn làm đột
biến gen có chủ đích và sàng lọc trong sinh học phân tử, sẽ tạo ra được những
giống mới tốt hơn.
Nói chung, giữa toàn thể và bộ phận có mối liên hệ hữu cơ qua
lại tuỳ theo mỗi sự vật hoặc hiện tượng. Còn cứ nhất quyết chia ra xem hơn
thua, thì như chứng minh ở trên, chính “bộ phận” quyết định “toàn thể” chứ
không phải ngược lại.
*
Cao Xuân Huy cho phân chia triết học thành duy vật và duy tâm
“chưa đạt tới tầm cao trong nhận thức bản chất vũ trụ, và không tránh khỏi vi
phạm lô-gic”. Ông cho “nhà triết học phải hiểu biết thế giới như một thực thể
toàn vẹn không chia tách, trong “tâm” có “vật”, trong “vật” có “tâm”; “Nếu tách
“vật” ra khỏi “tâm” thì làm sao “tâm” biết được “vật”. Ngược lại, nếu tách
“tâm” ra khỏi “vật” thì cũng không làm sao giải thích được “tâm” từ đâu mà sinh
ra”. (tr.86-87).
Cũng như “không gian” và “thời gian”, “tâm”, “vật” là những
thực tại, việc xác định và khái niệm hóa chúng để nghiên cứu giống như chuyện
trong đồng ruộng có lúa, có ngô thì người ta nói có "lúa", có
"ngô", sao lại nói là “vi phạm lô-gic”, là “sai”? Những ý này, nếu
diễn tả cho tiện và chính xác, là “phản khoa học”, bởi nếu cho “tâm”, “vật” là
một, và có sẵn trong bản thể thế thì tại sao đất đá và vô vàn vật vô tri lại
không có “tâm”? Tại sao ý thức (“tâm”) lại chỉ có ở con người? Tại sao vật chất
sinh ra ý thức? Vật chất ở đây chính là bộ não người, khi tỉnh thức sẽ nhận
thức, sẽ suy tư, sẽ thể hiện tình cảm… đó chính là “tâm”. Người ta hoàn toàn dễ
dàng chủ động làm cho bộ não ngưng “tiết ra” ý thức, như gây mê trong phẫu
thuật chẳng hạn. Ngược lại, chưa hề có bất cứ chứng cớ nào, cả thí nghiệm khoa
học lẫn các hiện tượng tự nhiên, chứng tỏ “tâm” sinh ra “vật”. Điều này chỉ có
trong truyện thần thoại và một số giáo lý tôn giáo.
Việc cho: “Nếu tách “vật” ra khỏi “tâm” thì làm sao “tâm”
biết được “vật”? Các cụ đã nói “Dao sắc không gọt được chuôi”, giống như dù
tinh đến mấy ta cũng không thể nhìn thấy gáy của mình, việc cho “tâm”, “vật”
phải nhập vào nhau thì “tâm” mới thấy “vật” là nói ngược. Trong thực tế, muốn
nhìn thấy bất cứ vật gì phải có khoảng cách nhất định, tùy thuộc thủy tinh thể
điều tiết tiêu cự của mắt sao cho ảnh của vật hiện đúng võng mạc, tế bào thần
kinh thị giác mới nhận được và chuyển thành ý thức, tức là “tâm”; và với hỗ trợ
của kính thiên văn hiện đại, người ta còn có thể thấy được các thiên hà ở tận
biên của vũ trụ xa xôi, cách ta hàng chục tỷ năm ánh sáng nữa. Còn cái lập luận
cho ta nhìn thấy vật là do ta có cùng bản thể với vật, thì tại sao trong tối
cái bản thể còn nguyên đó, sao ta vẫn không thấy gì? Và chắc những người bị
khiếm thị sẽ là chứng nhân sống động nhất phản bác cái “ngụy vấn đề” mà các vị
đã tưởng tượng ra đó!
*
Phó Giáo sư Cao Xuân Hạo, người con yêu của Giáo sư Cao Xuân
Huy cũng phân tích học thuyết “chủ toàn” của cha mình: “Dương sở dĩ có được là
nhờ có âm và ngược lại… chứ không phải là “trong vũ trụ có dương và có âm” và
“bất cứ vật gì trong vũ trụ cũng có âm có dương: năng lượng, vật chất…” (Sđd,
tr.163).
Cao Xuân Hạo viết vậy cũng là phản khoa học. Bởi khoa học đã
chứng minh không phải “âm”, “dương” có được là nhờ có nhau mà chính “âm”,
“dương” cùng được sinh ra sau Big Bang từ “chân không lượng tử” khi nhiệt độ
giảm xuống phù hợp và các lực vật lý từ từ “kết tinh” tách khỏi nhau. Trong vũ
trụ cũng chẳng phải “bất cứ vật gì cũng có âm có dương” bởi hạt ánh sáng
(photon) tràn ngập trong vũ trụ và nơtron trong hạt nhân không có âm dương (tức
điện tích) bởi chúng là trung hòa tử!
*
Tóm lại, trong lịch sử nhận thức không hề có hai phương thức
“chủ toàn”, “chủ biệt” ngược nhau như ý Cao Xuân Huy, làm nên hai nền văn minh
cao thấp khác nhau. Cao Xuân Huy đã sai đơn giản là vì chưa đủ tri thức. Thực
chất Giáo sư Cao Xuân Huy chỉ học Trường Cao đẳng Sư phạm, mà lại về lĩnh vực
xã hội, lại ở thời trình độ mọi mặt ở nước mình rất thấp, các phát minh mới
trên thế giới cũng chưa có, nhưng khi bàn về bản thể luận và nhận thức luận ông
buộc phải tiếp cận nhiều lý thuyết phức tạp về vật lý như Thuyết Tương đối; về
sinh học và hóa học như Thuyết Tiến hóa, chất vô cơ và hữu cơ, chất vô sinh và
hữu sinh; về triết học, mà đặc biệt triết học duy vật biện chứng lại lấy khoa
học tự nhiên làm “chứng”, như các cặp phạm trù “không gian thời gian”, “Tâm”
“Vật”, “Nhân Quả”, “mâu thuẫn”, “đối lập và thống nhất”, “chất và lượng”,
“riêng”, “chung”, v.v… Để hiểu tất cả những điều đó, cần phải có một nền tảng
tri thức vững chắc và tư duy chính xác, chứ một cái đầu chỉ giàu suy tư và khát
vọng sáng tạo thôi thì khó mà hiểu để rồi sáng tạo ra tri thức mới được. Vì
vậy, việc Giáo sư Cao Xuân Huy sai và một loạt học giả hàng đầu là học trò của
ông cũng sai theo là điều dễ dàng xảy ra; chỉ có những bậc thiên tài, không học
khoa học tự nhiên mà cũng hiểu thì mới không sai mà thôi, mà trên thế giới hình
như còn chưa có, bởi có những học thuyết phức tạp đến nỗi cả thế giới có thời
chỉ vài người hiểu mà thôi. Với nhiều nhà kinh điển phương Tây, trước khi là
nhà triết học, họ cũng là các nhà khoa học tự nhiên, như Descartes là nhà toán
học, vật lý và sinh lý học; Kant là nhà vật lý và Husserl cũng là một tiến sĩ
toán học, v.v… Còn ở ta không ít người không học tự nhiên nhưng đã ngộ nhận tin
mình cũng hiểu. Tôi đã viết, tự tin không phải đi thi nên tha hồ mà tự tin,
nhưng khi viết sẽ lộ ra cái sai, cái dốt ngay.
Thật tiếc, các vị học trò của Giáo sư Cao Xuân Huy đã đọc một
công trình triết học, đánh giá đóng góp khoa học của một con người lại đầy cảm
tính, cảm tình, đã không có một nền tảng tri thức khoa học vững chắc, không dựa
trên thực tiễn cuộc sống, lại cảm nhận một cách xúc động nên đã liên tưởng quá
phong phú như đọc một tác phẩm văn chương vậy. Vì thế sai lầm là tất yếu!
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Đông La0
- Các bài viết của
(về) tác giả Kiều Mai Sơn0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Mạnh Hảo0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Huy Thiệp0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Hoàng Đức0
- Các bài viết của
(về) tác giả Sương Nguyệt Minh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Quang Thiều0
*.
Viết 25-11-2009, sửa lại 23-02-2023
ĐÔNG LA (tên thật: Nguyễn Văn
Hùng)
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Sài Gòn
Email: donglasg@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email:
datinh_1974@yahoo.com.vn, ngày 23.02.2023.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Ảnh minh họa cho bài viết được
sưu tầm từ nguồn: internet.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét