VĨ NHÂN VIỆT THU PHỤC NHÂN TÂM
TÀI TÌNH THẾ NÀO?
Sự thành công và thành danh của các danh nhân
trong sử Việt, ngoài yếu tố nhân cách và tài năng đã được họ phát huy cao độ để
giải quyết những yêu cầu lịch sử của thời cuộc, thì còn là sự sáng suốt mưu
lược trong nhận thức và hành động để thu phục nhân tâm, tập hợp lực lượng, tạo
niềm tin cho dân chúng về sự cần thiết phải đi theo hay ủng hộ bậc vĩ nhân của
thiên hạ. Từ đó, nhiều mưu hay kế lạ đã được họ triển khai dưới những dạng thức
độc đáo và thu được hiệu quả ngoài sức tưởng tượng.
Lý Thái Tổ: Đốt chài lưới, thả tù nhân, biểu thị
nền nhân chính của tân triều
Lý Thái Tổ là Hoàng Đế sáng nghiệp triều Lý
(1009-1226). Tháng 11/1009, được sự hậu thuẫn của lực lượng Phật giáo trong
nước và sự tôn phò của bá quan, ông được đưa lên ngai vàng, thay thế triều Tiển
Lê trị vì đất nước.
Lý Thái Tổ lên ngôi giữa lúc tình hình xã hội khá
rối ren do cách cai trị kiểu bạo chính của Lê Ngọa Triều (Hoàng Đế cuối cùng
nhà Tiền Lê) gây ra. Bấy giờ, nhân dân nhiều nơi đói khổ, nhiều địa phương xa
kinh đô không thần phục triều đình, trong ngục tù đầy rẫy phạm nhân. Lý Thái Tổ
là người nhân từ độ lượng, vừa có uy vừa có đức trong mắt người đương thời. Nay
ông làm vua thiên hạ thì sẽ trị nước như thế nào và sẽ làm gì để xã hội được
thái bình yên vui? Đó là vấn đề lớn mà người trong nước ai cũng ngóng trông.
Lý Thái Tổ là người cao minh, ông biết rõ người
dân đang trông đợi điều gì. Sau khi ban thưởng, phong chức tước cho triều thần
và ban chiếu đại xá, ông đã có hai quyết định quan trọng. Một là hạ lệnh thu
gom một lượng lớn chài lưới rồi đem đốt ngay giữa hoàng thành. Hai là thả ngay
28 tù nhân người thiểu số bị Lê Ngọa Triều bắt trước đây, cấp áo quần lương
thực đầy đủ để họ về quê.
Hai hành động trên dù nhỏ nhưng có ý nghĩa rất
lớn. Đốt bỏ chài lưới, Lý Thái Tổ muốn tỏ rõ tính khoan dung, nhân trị của tân
triều. Không chỉ con người được giải phóng mà đến các loài chim cá cũng được
giải thoát. Việc trả tự do cho 28 người Man cũng là cách nêu cao đường lối nhân
chính của triều đại mới. Hành động này ở một mức độ nào đó còn góp phấn xoa dịu
sự bất bình, chống đối triều đình của các tộc người thiểu số và các địa phương
xa trong nước.
Với hai hành động nhỏ nhưng đầy toan tính sâu xa,
Lý Thái Tổ đã bày tỏ đường lối trị nước một cách nhẹ nhàng, cụ thể và thuyết
phục. Muôn dân đồng lòng đi theo tân triều. Nhờ đó, sau 18 năm trị vì, ông đã
tạo lập được nền móng vững chắc cho sự hưng thịnh và tồn tại dài lâu của triều
Lý trong lịch sử. Đánh giá về sự nghiệp của Lý Thái Tổ, sử gia Ngô Sĩ Liên thế
kỉ XV đã hết lời ngợi khen:
“Có đức tất có ngôi, bởi vì lòng người quy phụ.
Lại nhằm sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược, mà Lý Tổ thì vốn tiếng khoan
nhân, trời tìm người làm chủ dân, dân theo về người có đức, trừ Lý Tổ ra thì
còn ai hơn nữa? Xét ra vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng
nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp kẻ phản loạn, Nam Bắc
thông hiếu, thiên hạ yên lành, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược
của bậc đế vương” (Đại Việt sử kí toàn thư).
Trần Quốc Tuấn: Hành động nhỏ khiến anh em đoàn
kết, triều đình tin tưởng
Đại danh tướng, anh hùng chống Mông Nguyên Trần
Quốc Tuấn xuất thân là hoàng tộc cao quý, cháu gọi vị Hoàng Đế mở nghiệp nhà
Trần (Trần Thái Tông) bằng chú. Dẫu vậy, sự nghiệp của ông không được suôn sẻ
ngay từ đầu, mà gặp những trắc trở khó khăn bởi mối ân oán do đời trước để lại.
Thân phụ của Trần Quốc Tuấn – An Sinh Vương Trần
Liễu – suốt đời ôm theo mối hận bị em trai (Trần Thái Tông) cướp vợ. Trước khi
mất, ông cầm tay Trần Quốc Tuấn dặn đi dặn lại, rằng nhất định phải giành lấy
thiên hạ, có thế ông mới nhắm mắt được. Trần Quốc Tuấn ghi nhớ kĩ nhưng không
cho lời cha là phải.
Trần Quốc Tuấn được Trần Thái Tông phong tước
Hưng Đạo Vương, đối đãi trọng hậu. Ông cũng dốc lòng phò tá nhà vua. Nhưng một
số đại thần triều đình vẫn không khỏi lo ngại, sợ rằng Trần Quốc Tuấn sẽ tìm
cách trả thù cho cha. Ngay cả hoàng tử thứ ba của Thái Tông là Chiêu Minh Vương
Trần Quang Khải cũng không ưa gì ông anh con nhà bác này.
Năm 1285, giặc Mông Nguyên xâm lược Đại Việt lần
thứ hai. Vua Trần Thánh Tông (con Trần Thái Tông) phong Trần Quốc Tuấn làm Quốc
Công Tiết Chế chỉ huy quân đội cả nước. Trần Quang Khải được phong làm Thượng
Tướng Thái Sư, địa vị trong quân đội chỉ kém Trần Quốc Tuấn. Vấn đề là giữa hai
người anh em con chú con bác này có hiềm khích với nhau, liệu rằng họ có đồng
lòng chung sức chống thù không? Vì sự an nguy của xã tắc, Trần Quốc Tuấn thấy
oán thù nên cởi không nên kết, vì thế ông quyết định làm hòa với Trần Quang
Khải. Bằng cách nào? Sách Đại Việt sử kí toàn thư kể lại:
"Có một hôm Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp đến, Quang
Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội,
Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải: “Mình mẩy cáu bẩn, xin
tắm giùm”, rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: “Hôm
nay được tắm cho Thượng Tướng”. Quang Khải cũng nói: “Hôm nay được Quốc Công
tắm rửa cho”. Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà”.
Tự tay tắm cho Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đã
chân thành bộc lộ ý muốn xóa bỏ hiềm khích giữa đôi bên. Trần Quang Khải thông
minh nhận rõ sự việc và cũng không hẹp bụng chối từ. Sau lần ấy, hai người rất
thân thiết với nhau, cùng dốc chí chống giặc giữ nước.
Cũng từ khi nắm quyền Quốc Công Tiết Chế, Trần
Quốc Tuấn thường theo hầu bên cạnh vua Trần. Ông thường cầm theo cây gậy có sắt
nhọn bịt ở đầu. Các quan trông thấy ai cũng nghi ngại, đề phòng, sợ răng ông
nhớ mối thù cha mà dùng gậy làm hại nhà vua. Trần Quốc Tuấn tinh ý nhận ra thái
độ ngờ hoặc ấy nên đã tháo bỏ sắt nhọn, chỉ đem theo cây gậy không. Từ đó triều
thần hết nghi ngờ và càng tin tưởng vào tấm lòng trung quân ái quốc của ông.
Chỉ với hai hành động nhỏ, Trần Quốc Tuấn vừa
chứng tỏ được lòng thành, cởi bỏ mối cừu thù đời trước, vừa tạo được đồng tâm
nhất trí nơi nội bộ triều đình và hoàng thất để tạo nên một đầu não chỉ huy
kháng chiến đoàn kết và đầy sức mạnh, kiên quyết đối đầu với tham vọng xâm lăng
đến từ phương Bắc.
Trần Nhân Tông: Câu nói khuyến tiến khiến ba quân
thêm hăng hái
Trần Nhân Tông (trị vì 1278-1293) là Hoàng Đế thứ
ba của nhà Trần. Ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi để lên làm
Thái Thượng Hoàng rồi cả hai cha con cùng chung tay điều khiển chính sự.
Dưới thời Trần Nhân Tông, quân dân nhà Trần đã
phải hai lần chống giặc Mông Nguyên xâm lược vào năm 1285 và 1288. Năm 1285, 50
vạn quân Nguyên ồ ạt tiến vào nước ta. Trần Nhân Tông cùng triều đình tạm thời
bỏ kinh thành, thực hiện cuộc rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng, chờ cơ
hội phản công. Khi thời cơ đến, quân nhà Trần tiến hành tổng phản kích trên tất
cả các mặt trận. Trần Nhân Tông cùng vua cha cũng thân chinh cầm quân.
Tháng 6/1285, dưới sự chỉ huy của Trần Nhân Tông,
quân Trần đánh trận Tây Kết (Hưng Yên) lần thứ hai. Quân Nguyên do hai đại
tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi cầm đầu. Hai bên giao chiến kịch liệt. Cuối cùng quân
Nguyên đại bại. Toa Đô bị chém đầu, Ô Mã Nhi trốn biệt về nước.
Thủ cấp viên tướng giặc được dâng lên. Chính vào
lúc nhìn thấy đầu kẻ thù, Trần Nhân Tông đã có lời nói và hành động vừa thể
hiện sự nhân đức của bậc đế vương vừa mang dụng ý khuyến khích tinh thần quân
sĩ rất rõ. Ông nói: “Người làm tôi thì nên như thế này” và cởi áo đang mặc bọc
lấy cái thủ cấp, sai người đem chôn tử tế.
Toa Đô là viên tướng giặc, nhưng đối với vua
Nguyên hắn là một trung thần hết lòng phụng sự chủ cho đến chết. Thời ấy, vua
là chủ của nước, trung với vua là nghĩa lớn của người làm tôi. Trần Nhân Tông
cảm tấm lòng trung của Toa Đô và cũng muốn khuyến tiến tướng sĩ nên mới nói ra
câu ấy. Chính nhà sử học Ngô Sĩ Liên sống sau đó 200 năm cũng nhận thấy dụng ý
ấy và có lời bình luận rằng:
“Than ôi! Câu nói ấy của vua chẳng phải là câu
nói của đế vương ư? Nói rõ đại nghĩa để cho người bề tôi muôn đời biết trung
với vua chết vì nước là vinh, tuy chết mà tiếng không mất, quan hệ lớn lắm.
Huống chi lại cởi áo khiến khâm liệm mà chôn. Có thể phấn khởi khí sĩ tốt để
trừ giặc mạnh là phải lắm” (Đại Việt sử kí toàn thư).
Lê Lợi, Nguyễn Trãi: Khôn khéo tạo dư luận về
mệnh đế vương của người thủ lĩnh đất Lam Sơn
Đầu thế kỉ XV, giặc Minh xâm lược và đô hộ nước
ta. Nhân dân nhiều nơi vùng dậy khởi nghĩa nhưng đều bị đàn áp đẫm máu. Người
thủ lĩnh đất Lam Sơn (Thanh Hóa) là Lê Lợi không vì thế mà khiếp sợ, đêm ngày
vẫn đau đáu suy tư tìm cách cứu nước diệt thù.
Lê Lợi là thủ lĩnh của một vùng, thuộc hạ và
những người ủng hộ không phải là ít, thế lực không phải là quá nhỏ, nhưng chỉ
bấy nhiêu mà đương đầu với quân Minh đông đảo và hung bạo, lại đã chiếm được cả
đất nước thì có khác gì lấy trứng chọi đá? Nhưng nếu vì thực lực nhỏ yếu mà kêu
gọi nhân dân cùng Lê Lợi đứng dậy thì liệu có mấy ai theo, khi mà tiếng tăm của
ông chưa thể bao trùm cả nước, mà tai mắt quân thù có khắp nơi, không may việc
bại lộ thì đại sự khó thành. Do vậy, việc cần thiết là phải tìm cách nâng cao
uy tín, hình ảnh của Lê Lợi một cách nhanh chóng và gây được ấn tượng mạnh với
nhân dân, để họ hoàn toàn tự nguyện đi theo ông. Trên cơ sở cân nhắc như vậy,
Lê Lợi và những người thân tín đã vạch ra một kế hoạch nhằm ngấm ngầm tuyên
truyền trong dân về chân mệnh đế vương của ông, về thiên ý đã lựa chọn ông là
vị cứu tinh của đất nước.
Kế hoạch ấy biểu hiện ra bên ngoài bằng những sự
việc ngỡ như là ngẫu nhiên tình cờ nhưng lại có liên hệ với nhau, khiến người
ta phải tin theo và tự động loan truyền. Kế hoạch ấy được sách Đại Việt thông
sử (Thái Tổ thượng) chép lại dưới dạng câu chuyện như sau:
"Thời ấy người phường chài ở sách Mục Sơn là
Lê Thận, đêm nào cũng thấy khoảng sông Lam Xuyên có luồng ánh sáng như bó đuốc
cháy, rồi hơn một tháng sau, bỗng chài được một thanh sắt dài hơn một thước,
hình tựa thanh đao cũ, đem về để trong nhà, ngay hôm ấy Hoàng Đế (chỉ Lê Lợi)
đến nhà y, thấy trong nhà tối có một luồng ánh sáng, liền tới chỗ đó lấy thanh
đao đem về, về đến nhà, không phải mài mà sáng như đao mới, nhận thấy có hàng
chữ triện khắc trên thân đao, biết là một thanh bảo kiếm. Đêm hôm sau, có trận
mưa gió, sáng ra, thấy trong vườn rau có lốt chân thần in trên lá rau, Hoàng Đế
sai người vẽ hình vết chân ấy. Ngày hôm sau, Hoàng Hậu (vợ Lê Lợi) ra vườn hái
rau, đến chỗ cây rau có hình bàn chân, bỗng được một quả ấn báu, bề dài bề rộng
ngay ngắn, mặt quả ấn khắc mấy chữ lối triện, trên quả ấn khắc đích họ tên
Hoàng Đế, nhận kĩ mới rõ. Hoàng Đế biết rõ bảo vật của trời đất ban cho, bèn
cúi đầu lạy tạ. Ngày hôm sau, bỗng được cái chuôi thanh kiếm ở cây đa, rửa sạch
đất cát đi, thấy có khắc hình con rồng và con hổ, và hiện ra hai chữ
"Thanh Thúy", đem lắp vào thanh kiếm đã bắt được hồi trước, vừa vặn
không sai tí nào, càng tin là vật thần cho”.
Từ đó tin tức Lê Lợi được trời trao cho ấn kiếm
không cánh mà bay, được nhân dân Lam Sơn và nhiều vùng lân cận không ngừng bí
mật truyền tai nhau. Xã hội thời ấy còn rất mê tín, rất tin vào những việc liên
quan đến thánh thần, thiên mệnh nên không mấy ai nghi ngờ việc Lê Lợi nhận được
mệnh trời. Bởi đó, dân chúng nhiều nơi đã hồ hởi theo về với Lê Lợi, nhiều hào
kiệt tài cao chí cả cũng hăm hở tìm đường đến Lam Sơn.
Trong số những người đến với Lê Lợi có Nguyễn
Trãi. Là người thông minh mưu lược, kiến văn quảng bác, Nguyễn Trãi tất nhiên
biết rõ sự thật phía sau câu chuyện ấn và kiếm kia. Nguyễn Trãi cũng biết rõ đó
là điều phải làm để quy tụ lực lượng chờ ngày phất cờ nổi dậy. Do vậy ông rất
tán đồng cách làm của Lê Lợi và sau đó cùng với Lê Lợi bàn tính rồi triển khai
một số hành động tiếp theo nhằm tạo hiệu ứng xã hội rộng lớn hơn, làm gia tăng
niềm tin cho trăm họ về chân mệnh thiên tử của Lê Lợi. Sách Tang thương ngẫu
lục cho hay:
Nguyễn Trãi “lấy mỡ viết khắp lá cây trong rừng:
Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi). Sâu
và kiến ăn mỡ đục thành nét chữ. Kẻ đi kiếm củi thấy thế cho là chuyện thần
linh. Người nọ bảo người kia, nhân thế theo về ngày một nhiều”.
Bởi mưu kế đó của Nguyễn Trãi, số người theo về
dưới trướng Lê Lợi ngày càng đông, đủ cả anh tài khắp mọi miền đất nước, thuộc
nhiều thành phần xã hội khác nhau. Đó là cơ sở đế đến năm 1416, Lê Lợi tổ chức
Hội thề Lũng Nhai, thực chất là buổi ra mắt bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa trong
tương lai dưới dạng đặc biệt. Ngày mùng hai tết Mậu Tuất (1418), khi mọi thứ đã
sẵn sàng, Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, chính thức giương lên ngọn cờ bình
Ngô đầy chính nghĩa.
Lý Thái Tổ, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Lê
Lợi, Nguyễn Trãi cùng nhiều nhân vật xuất chúng khác trong lịch sử là những
người đã biết căn cứ vào đòi hỏi cụ thể của thế cuộc để vận dụng trí mưu, xếp
đặt hành động, thi hành kì mưu dị kế, bề ngoài có vẻ giản đơn tự nhiên nhưng
chứa đựng những tính toán và mục đích cao xa khôn ngoan. Mục đích đạt thành
chẳng những giúp họ dần vươn đến vinh quang của sự nghiệp mà còn có tác dụng
thúc đẩy sự tiến lên của lịch sử một cách khả quan rõ rệt.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
Mời nghe nhạc phẩm mừng xuân TẾT MIỀN TÂY
của nhạc sĩ Cao Minh Thu, do tốp ca thể hiện:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Nguyễn Thanh Tuyền - nguồn: kienthuc
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét