THỬ
PHIÊU CÙNG
“SÔNG
TRỜI HOA KHÓI”
Cho
tới thời điểm hiện tại, Nguyễn Thanh Lâm đã có 6 tập thơ xuất bản, một hành
trình thơ cũng khá dày dặn, kể cả số lượng sách và số bài trong một tập. Tôi
đọc anh muộn. Chỉ mới đọc HƯƠNG DƯƠNG CẦM (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2009) và
SÔNG TRỜI HOA KHÓI (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2013). Cả hai tập thơ đều có tên
khá gợi, bảng lảng, huyền ảo… Hoa thì hoa khói, hương thì hương dương cầm, sông
thì sông trời. Ngay ở đó đã hé lộ bản năng thi sĩ, sự mê đắm, thích những làn
hương, thích sương khói mờ ảo trong cõi tinh thần, trong nhập thế hơn là những
gì gồ ghề, góc cạnh của đời sống thực. Ấy là căn cốt của người thơ lãng mạn,
yêu và cảm trên những vẻ đẹp tinh túy của người Hà Nội, kể cả phía chìm khuất
sau thi ảnh.
Tôi
nói thế bởi HƯƠNG DƯƠNG CẦM, tập thơ có tới 76 bài, mà phần lớn viết về Hà Nội,
một tình yêu Hà Nội đến mê thiếp, miên man không dứt của chàng thi sĩ sinh ra
và lớn lên ở thành phố này:
“Tiếng dương cầm lan xa hương
Thơm thơm mùi nhớ / Vương
vương dặm tình
Nghìn mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp
Tiếng dương cầm loang loáng ướt …
Bên kia sông Hồng mưa có rơi
Tiếng dương cầm có cùng hạt mưa thấm vào
lòng đất
Phía bên này năm cửa ô thao thức
Hay đang mơ giấc nhạc dương cầm…”
(Hương
dương cầm)
Tình
yêu Hà Nội, yêu phố cổ và những phong rêu trầm tích của nó đến mức dường tác
giả không ôm xuể khối tình quá lớn cho riêng mình, mà phải kêu gọi bạn tình,
thiên nhiên đồng hành, hòa nhập một tình yêu “tay ba” vào phố cổ: “Vầng trăng người tình thứ
nhất / Ngọn đèn người tình thứ hai / Ta âm thầm yêu phố
cổ / Là ba người yêu một người”. Người ta tưởng là thế thật,
nhưng sáng mai, thì: “Sớm mai trăng
tàn đèn tắt / Chỉ còn một mình ta thôi” (Thơ tình phố cổ).
Lôi thêm bạn tình vào hóa ra là cái mẹo để “độc chiếm”, để nhấn nháy cái tình
của riêng mình với Hà Nội. Và tình yêu ấy Trong Nguyễn Thanh Lâm cũng không đơn
giản, nó được săm soi dưới nhiều góc cạnh, cảm xúc, hồi tưởng, cũ mới, mất còn,
nói xa để yêu gần… Một tình yêu thường trực của không gian, thời gian: “Hà Nội ẩn hiện trong mặt trời mặt trăng
hương hoa trời đất / Đi đâu, ở đâu Hà Nội cũng hiện về” (Tâm
tình người Hà Nội). Một tình yêu ngẩn ngơ du mộng, phiêu diêu thực ảo, ẩn
hiện: “Ta đứng ở ngoài hồn nhập vào
Tháp Bút / Ta bay hay gió bay / Ta trôi hay trăng
trôi / Tháp Bút nhập vào ta hay ta nhập vào Tháp Bút” (Bên
Tháp Bút). Và, với Hà Nội, luôn luôn thành kính, cả cảm xúc sám hối đó
đây:
“Con xin quỳ bên người, Hà Nội ơi
Mong được sà vào lòng người như trẻ thơ sà vào
lòng mẹ”
(Con
đã trở về Hà Nội ơi)
Trong
tình yêu xứ sở tầng tầng lớp lớp như vậy, còn có một tình yêu khác song hành,
cũng mướt mát lắm, luôn đan xen trong mỗi con phố, mỗi ký ức, mỗi làn hương hoa
sữa, mỗi mùa xuân sắc thắm hoa đào, trong cả những tàn phai:
“Ta bơi trong tình yêu, lặn chìm trong đau khổ
Đời chiều rồi, vẫn vụng dại, ngây ngô
Tự xé hồn mình thành muôn mảnh nhỏ
Rồi lại chắp vào thêu dệt thành thơ”
(Em
đã hóa tâm hồn đau khổ thơ tôi)
Đến
SÔNG TRỜI HOA KHÓI - bài thơ đầu tập sách, cũng là tên cho cả tập, theo tác
giả, nó là tinh thần, tư tưởng chung cho cả tập, lưu vết thơ dọc nhân gian của
ông. Vẫn bắt đầu là những bảng lảng:
“Sông trời mây trắng bồng bềnh
Neo thuyền trăng vào vô định
Sông mây không bờ bến
Neo bến bờ thơ tôi”.
Một
cái gì đó buồn lắng, khát khao, không định dạng, hoặc dạng ảo, mà ở đó: “Đâu ngờ thơ tôi cũng không bờ không
bến / Một đời hoa khói tự nhiên trôi”. Để cho hồn thơ cuốn đi
lang bạt, phiêu du, như duyên tình với nàng thơ dắt díu trở về cõi tự nhiên,
mặc nhiên lôi cuốn, gần với “bèo dạt mây trôi” lãng tử, ngoài sự kiểm soát của
chủ quan. Có lẽ thế mà Nguyễn Thanh Lâm thường “nương” giữa thực và ảo, ngay cả
trong tình yêu, nương vào cái “duyên”, là cái mà “cơ trời” có se hay không
se:
“Cõi mơ và thực
Nương vào nhau thành đôi
Vui tình tùy duyên
Em ơi”
(Đi
lễ chùa Thầy)
Chữ
“duyên” trong quan niệm phương Đông quả nó cũng ảo, cũng huyễn hoặc, cũng nhiều
luyến láy làm sao!
Và
sau những va đập, lôi cuốn, tương tác của đời thực, vốn rất mệt mỏi bởi các vai
kịch, xử thế khác nhau, đặc biệt là trong xã hội hiện đại, người ta càng ý thức
muốn được là mình, khát vọng được tự do, dù đã chủ động “tùy duyên”:
“Sau một ngày
Chung vui chung khổ
Nhập vai cùng diễn với đời
Trở về với mình
Tháo mũ
Cởi giầy
Cởi áo quần
Bỏ buông
Quyên tất cả
Có lẽ con người thật người hơn
Biết đến bao giờ
Ở đâu
Tôi cũng thấy như mình đang ở nhà”
(Sau
một ngày)
Tất
nhiên, đấy là mơ ước của con người muốn được tự do, được thật là mình khi không
phải sắm những vai diễn. Nhưng con người xã hội thì không thể, vẫn phải sắm
vai, đấy cũng là mâu thuẫn là bi kịch của người đời. Mà cái đời ấy, cái xã hội
ngoài ta ấy thì luôn vận động: “Ôi
cuộc sống bao giờ cũng mới/ Ta vừa nghĩ suy thì đã cũ rồi” (Chiếc
gương). Nó đòi hỏi một sự bứt tốc để không nhàm cũ, lạc hậu mới có thể hòa điệu
vào cuộc sống. Nó cũng mách bảo đổi mới, luôn luôn làm mới mình là một đòi hỏi
khách quan.
Hiển
lộ hơn, ở SÔNG TRỜI HOA KHÓI, vẫn là cái thước ngắm tình yêu, cảm nhận trên các
góc cạnh đời sống, nhưng Nguyễn Thanh Lâm đang “cựa quậy” những góc nhập cuộc
mới, cách nhìn khác, giàu suy tưởng, muốn lập lý, triết lý, hoặc bày tỏ những
trải nghiệm tình yêu của người từng trải, có những dấu hiệu tìm đến thiền, thả
lỏng tinh thần trong cõi mênh mông, sương khói; không bị đời sống thực nhiều
lầm lũi kéo lùn lại sau cơm áo của nó. Tần xuất hiển lộ những mối quan tâm quan
thiết như đã nói ở Nguyễn Thanh Lâm nhiều lên trong tập này và nhiều hơn ở
những bài thơ ngắn: Soi gương, Đêm mưa, Hỏi đường, Mục đích, Du lịch ký, Thư viện, Nằm bên biển…
Thử cùng ông vào một Đêm mưa:
“Một tiếng còi tàu
Vào ga
Hay đi xa không rõ
Tiếng còi
Gió đưa vào phòng ta rộng mở
Ta dang tay đón tiếng còi tàu
Gục vào ngực ta
Niềm thương nỗi nhớ
Chia li gặp gỡ
Nồng mặn thương đau
Ngực ta ướt đầm nước mắt
Mưa
Trong quả tim ta vội đập”
Ở
đây, dường như có bước chuyển trong cảm xúc. Ý thơ đồng hiện cùng ùa về các ký
ức, các ngữ cảnh khác nhau của một đêm mưa hối thúc tiếng còi tàu. Tiếng còi
đánh thức cùng lúc những cảnh, những cung bậc tình cảm khác nhau. Nó không mới,
nhưng là mới trong khúc thức thơ của Nguyễn Thanh Lâm.
Hỏi
đường là bài thơ ngắn, nói về một người hỏi đường cụ thể, bất kỳ khi ta gặp,
nếu không chỉ đường thì thiếu từ tâm, nhưng nếu chỉ đường có khi lại làm cho
người ta lạc, bởi người chỉ chắc gì đã đúng, đã thạo? Và tác giả: “Tôi im lặng nhìn chân mình / Nhìn
chân bạn / Và nhìn ngắm chân trời”. Cái tâm sự ngoài tình huống
của Nguyễn Thanh Lâm ở đây là, mỗi người hãy tìm cho mình một con đường, không
ai có thể “chỉ” cho ai được. Hãy khám phá chân trời của bạn. Cũng như trong
cuộc sống, mọi sự tồn tại không phải lúc nào cũng lý giải được một cách thấu
đáo, và có lẽ nó là cấu trúc, cân bằng tự nhiên, cũng không cần lý giải:
“Đâu là mục đích của mặt trời mọc hàng ngày
mỗi sớm
Đâu là mục đích cây cỏ nở hoa
Chim hót vì mục đích gì?
Không mục đích
Rất cần cho sự sống”
(Mục đích)
Bài
thơ chỉ có 5 câu. Một cách lập luận ngược lại mệnh đề có lẽ không ít người ngạc
nhiên. Quả thực, nhiều khi chẳng có mục đích gì cả, nhưng ngay cả điều ấy cũng
là một phần của đời sống tự nhiên, vậy thôi. Chỉ có điều, cái kết của nhà thơ
có vẻ hơi gượng. Để Mục đích được tự nhiên, trong cả một số bài thơ khác dạng
này nữa, cần độ nhuyễn tình - ý - tứ, để nội hàm những câu thơ tự nói về sự
“cần” ấy, một cách thuyết phục hơn. Rõ ràng ở đây, Nguyễn Thanh Lâm trở nên tỉ
mẩn hơn, vân vi hơn những ý nghĩa của đời sống và cũng khoáng đạt hơn, tìm đến
những ngôn ngữ ngoài câu chữ, ngoài thi ảnh, là những cái mà bất cứ sự sáng tạo
nghệ thuật nào cũng muốn vươn tới và khám phá.
Nguyễn
Thanh Lâm đã bắt đầu chăm chút cho các dòng suy tưởng của mình, một cách điềm tĩnh,
đến trầm lặng, không cố ồn ào, to tiếng. Cũng giống như những gì anh vẫn miệt
mài, lẳng lặng trên thi đàn, theo cái cách tự tìm lấy “thi trường” của mình,
như phép ứng xử của người chỉ đường đã nói ở trên; đến nỗi, mới chỉ đến năm
2013, tôi mới đọc anh khi có người nói về thơ anh và cái sự “kiêu” của người
thơ này. Có lẽ, bởi cái cách tiếp cận “thì thầm”, điềm tĩnh của thi cảm, mà
phải có lối đọc thật bình tĩnh mới cảm nhận, mới dào dạt, đồng cảm và rồi lay
thức với thi điệu của Nguyễn Thanh Lâm, như khi ta ngồi trong khu rừng du lịch
này: “Tôi ngồi lặng lẽ trong rừng
cây/ Ngôi nhà của các loài chim/ Ngôi nhà trong tiếng thì thầm của trái đất
nhòa dần vào bóng đêm/ Đón ngôi sao đầu tiên lấp ló/ Đợi vầng trăng giữa đêm
lên đồng/... Đáng kể là sự giao cảm giữa thiên nhiên và tôi/ Tôi đưa thiên
nhiên du lịch ở lòng mình” (Du lịch ký). Cái khác của Nguyễn
Thanh Lâm ở đây chính là anh biết cách đưa thiên nhiên du lịch ở lòng mình, chứ
không tán trải lòng ra. Hay nói một cách khác là biết mở các kênh thức, các cửa
tâm hồn để đưa vũ trụ, thiên nhiên, sự sống vào tĩnh tại, tươi xanh ở mình.
Nguyễn Thanh Lâm cũng khác với rất nhiều người yêu, viết về Hà Nội hay những
mảng đời sống ngoại vùng, là ông không chạy theo sự quen bị những ký ức, dù rất
đẹp và gợi nhớ, như tiếng rao đêm, tiếng xe điện một thời… lôi cuốn; cũng không
bị những băn khoăn, quặn thắt, cần chia sẻ của đời sống mưu sinh cần lao trì
kéo đôi cánh của thi ca, bởi ông là người của Hương dương cầm, của Sông trời
hoa khói rồi.
Tìm
một cách tiếp cận, diễn ngôn khác. Cũng cái cách cảm thụ, để dòng suy tưởng của
mình phiêu du vào những ngõ ngách, thu nhận những tín hiệu, những “mật chỉ” của
đời sống, mà mật chỉ ấy lại rất giản dị là biết cách hòa nhập vào thiên nhiên,
thế giới tự nhiên mà cảm và ngộ, mật chỉ ấy ngoài cả sách vở, sự giao
giảng: “Tất cả những cuốn sách đang
cười/ Trí tuệ loài người đang cười/…Đạo vốn vô ngôn/ Phật đã giảng năm ngàn bốn
mươi tám chân lý/ Mà chưa từng nói về chân lý/ Chân lý chỉ là những ngón tay
chỉ trăng/…Có tiếng đập trái tim hướng tới vầng trăng gọi ta ngoài thư viện/ Ta
bước ra lòng nhẹ lâng lâng” (Thư viện).
Nhưng
để có ăng ten thu nạp đa tầng những tín hiệu của đời sống, của thiên nhiên và
chuyển động của thế giới quanh ta, còn gì khác là những tiền tố của tình yêu,
sự mê đắm và nhạy cảm của tâm hồn. Tình yêu ấy là sợi dây tình cảm bền bỉ, máu
thịt của một người yêu Hà Nội, yêu thiên nhiên, yêu những “người yêu”… miên man
trong HƯƠNG DƯƠNG CẦM, chuyển tiếp SÔNG TRỜI HOA KHÓI ở một tầm vực cao rộng,
sâu sắc hơn, có màu sắc thiền hơn, như khi nhà thơ bật mở hết các kênh cảm xúc,
các giác quan của mình trong và cho một thế giới tĩnh tại, thiền định, huyền
tưởng và cao đẹp:
“Ta nằm dài trên cát
Đọc những dòng thơ ánh sáng trời cao
Tất cả các cửa hồn ta mở rộng
Tràn đầy rỗng không”
(Nằm ở biển)
Cánh
cửa đã mở ra những bước phiêu du mỹ cảm trong một thế giới thực và ảo, trong và
ngoài, biết và chưa biết, giữa tự do cá nhân và các vai kịch xã hội…trong cuộc
sống đa phức đang chờ đón một lối đi, sự khám phá của Nguyễn Thanh Lâm. Nhưng
lối đi ấy cũng đầy thách thức, không dễ dàng gì để thành hình khối, mà ở đó, nó
rất cần sự “biết” trong mỗi bước chân thơ đang phiêu của ông.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài phê bình,
cảm nhận thơ0
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe nhà thơ Trần Quang Quý đọc thơ:
*.
Hà
Nội, 09/06/2014
TRẦN
QUANG QUÝ
Địa chỉ: Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Email: tranquangquy9@yahoo.com
Điện thoại: 090.345.83.45
.................................................................................................
- Cập nhật từ email:
thanhlam.tho@gmail.com ngày 13.12.2015
- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét