(Nhà thơ Đỗ Hoàng (bìa trái) nhận Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp báo chí) |
“TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH” -
QUẢNG TRƯỜNG PHẢN TỈNH
CỦA LƯƠNG TRI
Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng lần đầu tiên ở nhà tôi, anh đi cùng nhà văn Nguyễn
Đình Chính đến để mời tôi giữ chân biên tập trang lý luận cho tạp chí Văn Học
Nghệ Thuật (nhưng việc không thành). Cảm giác đầu tiên của tôi về các nhà thơ
nói chung là cái gì nhũn nhẽo, ẻo lả, yếu ớt, tí tởn, ham vui, đồng bóng. Và
nhà thơ Đỗ Hoàng trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà văn dường như còn vượt
qua cả mức đó, anh sinh ra ở Quảng Bình nơi người ta nói như hát, rồi đi lính
vào Huế nơi hát còn nhiều hơn nói, rồi anh lại là nhà thơ ngâm nga lới lơ,
thành thử giọng của anh cứ võng võng ngòn ngọt một thứ chè nhão cho quá nhiều
đường… thành thử sau khi gặp vài lần tôi cứ mặc định, lại một ông nhà thơ hâm
hấp không nên chấp.
Thời gian sau, đặc biệt khi anh gọi với tôi, tôi dừng lại một cách khiên
cưỡng gượng gạo có chút kiêu kỳ. Tôi đã cầm cuốn thơ dịch “Chinh Phụ Ngâm” của anh. Mặc dù trước đó tôi đã nghe và đọc những
bài thơ anh dịch lại cả tiếng Việt, tôi vẫn cho là thứ “thừa công rồi nghề”.
Tôi đọc “Chinh Phụ Ngâm” của anh với
ý định: hãy cố bỏ chút đỉnh thời gian xem tay này công phá thần tượng ra sao?
Triết gia Nietzsche có nói: “Rồi một ngày
học trò sẽ phản thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Đọc
xong, tôi ngạc nhiên vì nhà thơ Đỗ Hoàng ít nhất là đã luôn bới việc thơ ra để
làm với một tình yêu tự nhiên không thể nào sống nổi nếu không hít thở thơ. Thứ
hai, anh đã dám cày xới lại luống cày đã định hình của các thần tượng để làm
nên vụ mùa mới của mình.
(Tác giả Nguyễn Hoàng Đức) |
Thời gian trôi đi không lâu, tôi nhận thấy trong con người của Đỗ Hoàng
không đơn giản là một tâm hồn ngê nga thơ phú kiểu chè đường, mà là một con
người rất có bản lĩnh thơ. Rất cứng rắn! Rất dũng cảm! Và hôm nay tôi quyết
định viết về anh sau khi đã đọc tập thơ phản chiến rất sớm của anh có tên “Tâm sự người lính”. Cây nào quả nấy,
chúng ta thử xem cái cây Đỗ Hoàng là gì?
Đỗ Hoàng trước hết khá giỏi tiếng Trung, có cả kho tàng thơ cổ trong người.
Tôi đã nghe anh nói tiếng Anh, bình thơ có tiếng Pháp, lại còn nhắn tin cho tôi
bằng tiếng Nga. Riêng về vốn thơ, tôi gặp ba người làm tôi đáng nể và luôn cho
rằng họ giầu vốn thơ nhất Việt Nam, đó là, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc và Trần
Mạnh Hảo.
Đó mới là vốn thơ! Nhưng còn ý chí thơ, sức sống thơ, và bản lĩnh thơ. Đỗ
Hoàng là một quan chức thơ sống giữa môi trường thơ mậu dịch, vậy mà anh dám
sống và sáng tác, bình thơ như một người cô đơn. Cô đơn là một cái gì hết sức
tê tái đặc biệt là trong nền văn hóa tiểu nông cực kỳ lạc hậu và bè phái của
Việt Nam. Nhà thơ, nhà văn hóa Inrasara đã nói, các nhà thơ Việt rất sợ bị cô
đơn và cô lập. Chúng ta biết trong nền văn hóa tiểu nông giầu tính cục bộ đố kỵ
của nước nhà, người ta dễ dàng bỏ rơi tập đoàn, đánh hội đồng vào cá nhân nào
muốn có cá tính hay định chơi chòi. Người ta có thể đồng loạt yêu, đồng loạt
ghét, đồng loạt bao vây, nhất quán trong cả hành động cô lập hiếu - hỉ, đăng bài hay rút bài… tóm lại rất tiểu
nhân. Vậy mà Đỗ Hoàng dám phê phán nhiều nhà thơ, nền thơ bằng cách không ngại
chỉ tận tay day tận trán, như: “…cái Văn
chương Mậu Dịch dở hơi ngự trị văn đàn hơn 5 thập kỷ. Ai cũng biết nhưng không
ai dám nói. Nguyễn Hoàng Đức đập Thanh Thảo là để đập vào nghìn thế hệ nói leo
ăn theo, khen bừa, khen ẩu, nói láo. Tệ hại nhất là những tiến sỹ bò, học giả,
học thật như Đỗ Lai Thúy, Hồ Thế Hà, Phạm Quang Trung, Văn Giá, Chu Văn Sơn và
ông thấp học Phạm Xuân Nguyên không làm được cái tiến sỹ Vịt…”
Trước khi nói về thơ Đỗ Hoàng, tôi muốn bàn qua về bút pháp kẻo lại rơi vào
tùy tiện khen - chê không chuẩn đích:
1- Tầm vóc của nhà thơ (cả nhà văn, và các loại nhà) được xác định đầu tiên
bằng tính đề tài. Đề tài chim, hoa, cá, lá, gái thì không thể lớn bằng đề tài
của thế giới, con người, chiến tranh hay hòa bình. Đề tài sinh họat vi mô ăn
ngủ hút hít gái gú thì không thể bằng các đề tài đầu tiên đó là Sinh - Tử của con người.
2- Thơ hay không phải cứ viết bằng bút pháp phóng đại bột nở vống lên. Thơ
hay luôn phải được dùng cái hư cấu kết hợp với tính chân thực. Chẳng hạn hai
câu thơ vào loại hay nhất của Tây và Đông:
“Anh cùng tôi không một xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này” (Whitman)
Hoặc:
“Mái chèo cắt vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi” (Giả Đảo)
Đỗ Hoàng là một người lính, nhưng thơ anh không chỉ đơn giản hành quân ra
chiến trường để nhằm bắn và đếm xác cả quân thù lẫn quân ta. Nhà văn Bảo Ninh
đã từng được báo chí phương Tây đánh giá rất cao khi gọi là “cuộc phản tỉnh đầu
tiên của chiến tranh” (The first
reflexion of the war). Họ đánh giá cao vì cho đó là một ngoại lệ khác hẳn
các nhà văn ăn tem phiếu chỉ viết theo định hướng ta đỏ địch đen, ta tốt địch
xấu, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta khôn ngoan địch nham hiểm, ta to địch
bé, ta trước địch sau, ta chiến thắng vinh quang địch thất bại ê chề. Vậy thì có
lẽ Đỗ Hoàng là một trong những nhà thơ hàng đầu đồ sộ viết về phản chiến.
Triết gia Kant có lẽ là người đầu tiên nêu ra khái niệm “Công dân nhân loại”. Công dân đó là
người đã vượt khỏi lằn ranh biên giới, con người ai cũng là người, khi ngã
xuống thì đều là một nhân mạng thiệt vong, người lính nông dân ở phía Bắc bắn
chết người lính nông dân ở phía Nam, rõ ràng cả hai người chỉ làm theo mệnh
lệnh của cấp trên, họ đều là giai cấp nông dân, không có chuyện họ là kẻ thù
giai cấp của nhau.
Trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Hoàng, mối ưu tư về nhân loại bao giờ cũng lên cao
nhất, nó không chỉ là đỉnh cao mà là hệ thống, là con đường dằng dặc chạy lên
đỉnh, chứ không phải mấy thoáng chốc bồng bột vu vơ. Đỗ Hoàng ưu tư và bộc
bạch, sợ rằng con người sẽ quên đi bài học mất mát của chiến tranh:
Khi chiến tranh đi xa,
Cuộc đời hồi sinh lại.
Đã ai hiểu cho mà,
Có một thời dữ dội!
Thơ tôi rồi sẽ chết,
Như cuộc đời của tôi.
Qua tháng năm trận mạc,
Thời gian quên con người!
(THỜI GIAN QUÊN 11 - 1973)
Mối ưu tư của Đỗ Hoàng thường gắn với những gì kỳ vĩ, những nhãn quan vũ
trụ, những suy nghĩ gắn liền với nguyên lý sống còn:
Không có mặt trời,
Trái đất ngủ quên.
Trong triệu năm băng giá!
Không có con thuyền,
Dòng sông ngủ quên.
Và tự xoá mình khi về biển cả!
Không có người đi,
Con đường ngủ quên .
Rồi cũng tan vào cây cỏ!
Không có tình yêu,
Trái tim
ngủ quên.
(NGỦ QUÊN - Huế 1983)
Anh ra trận với một cây súng dường như cũng không có được giấc ngủ thiếp
lịm của sắt thép vô tri mà nó luôn ưu tư vì sự điểm hỏa của mình. Ưu tư về một
chiến trường nằm giữa hố thẳm yêu bạo lực của cả một thế giới còn hiếu sát. Vì
suy tư trên tầm rộng lớn nên lời thơ của anh rất hào sảng mạnh mẽ:
Tôi đã hành quân dã chiến dưới đáy cuộc đời
lớp lớp chiến binh.
Mới nhìn rõ trái tim đen ngòm hơn họng súng.
Mới biết
chẳng có gì tốt đẹp như những triết lý rơm nghìn đời mộng tưởng.
Mỗi một ngày trái tim thêm nỗi đau thương!
Nghĩ về cuộc đời hôm nay
Người lính không thể dửng dưng.
Không thể hướng nòng súng mình theo những lời
giả dối.
Không thể dại khờ hành quân đi tới
Tử địa chiến trường bờ vực của chiến tranh!
(NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI HÔM NAY)
Tình yêu và thương xót trong chiến tranh mới chỉ là cảm xúc thuần túy giành
cho những gì đã mất ở cấp độ tình cảm, nhưng để có phản tỉnh người ta đã phải
leo lên rất cao ở tầng lý trí. Chính Đỗ Hoàng đã bày tỏ cuộc sống suy tư trong
sáng tạo của mình:
Tôi đã đi đến cái thực chất bên trong của
cuộc chến đời này
Cái thực chất mà sử sách, thơ văn đương kim
người ta chưa hề nói đến.
Mặc dù báo chí, loa đài ra rả suốt ngày đêm.
Cuộc đời ơi! Chẳng có gì quý mến
Nếu con người chẳng có nghĩ suy riêng!
(THỰC CHẤT CUỘC CHIÊN)
Cái nhìn đầu tiên của Đỗ Hoàng dường như luôn có tầm nhìn bao quát ở trên
cao, trước khi nhìn thấy đồng đội của mình anh luôn thấy số phận của nhân loại
đang lầm than mất mát trong chiến tranh. Một người lính ngã xuống dù ở bên nào
liệu khi biết tin mẹ anh ta có đau xót không ? Và chính lô gic đó Đỗ Hoàng luôn
nhìn xa trông rộng về một thế giới phủ bóng tang thương qua nhiều biên giới
chiến tranh:
Đêm nay ai không ngủ?
Nghĩ số phận loài người.
Hận thù đang còn ngự,
Mấy triệu đời chưa thôi!
Trái đất đen một nửa,
Bom đạn găm đầy mình.
Những đường gươm ly loạn,
Đang chém nát hành tinh!
(SỐ PHẬN LOÀI NGƯỜI)
Đỗ Hoàng đã đặt ra cho mình cũng như loài người những câu hỏi rất lớn,
những câu hỏi mang tầm vĩ mô, hỏi về con người với bản tính đầu tiên, xem có
phải đó là thứ tâm hồn hiếu sát chỉ đòi ăn thịt đồng loại:
bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.
(LOÀI NGƯỜI)
Sau câu hỏi về thế giới tồn tại trong không gian là câu hỏi về thời gian,
về thời đại mà tác giả đang sống và hành quân, về những trận chiến làm đổ máu
những người lính cả quân ta lẫn công dân nhân loại. Bên này hay bên kia chiến
tuyến ư, họ chẳng là những con người sao ?
thế kỷ hai mươi
con người ở đâu cũng tàn ác như nhau!
đâu phân biệt bên kia bờ chiến tuyến!
đất bằng này
sẵn súng, sẵn dao
sẵn những lời đổi đen ra trắng!
cái chết ở đây
nào có khác gì.
phát súng bên này, phát súng bên kia.
(THẾ KỶ HAI MƯƠI)
Đỗ Hoàng giành cho những đồng đội của mình cái nhìn thật yêu thương và trìu
mến. thậm chí một nỗi đau còn đến trước nỗi đau:
Lính lại vào đầy bến.
Chỗ chuyển quân bầm tím cả chân trời
Mùa đông đi ra trận,
Có ánh mắt nào vui!
Và:
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!
Một cái nhìn không chỉ lo lắng việc sinh tử mà còn là thứ tình cảm tàn phai
trống vắng hoang vu phía tình yêu. Một cái gì thật xót xa:
Anh hành quân qua những lề đời chật hẹp.
Nắng phai màu quân phục trái tim anh.
Và em ạ ! Em đừng thương tưởng tiếc.
Một con người trong đời lính chiến chinh!
Đỗ Hoàng suy tư rốt ráo về kết cục của cuộc chiến, kẻ thì chết, người trở
về thì khánh kiệt sức lực và mất mát. Một mất mát không nằm trong chi thể mà
còn bị vắt kiệt trong cả mơ ước. Một làng quê không còn ánh lửa thắp lên nghĩa
là dường như khống có cả ánh sáng cho tư duy, còn người lính rệu rã quay về
liệu có còn sinh lực cho những ước mơ ?
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!
bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bởi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!
phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự
sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.
chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.
(TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH)
Lãnh tụ Stalin có nói: chiến tranh, chết chóc nhiều khi chỉ là những
Đoàn lính gái áo quần còn mới
Lứa lính này đưa tới miền trong.
Họ không hề bị đeo gông,
Mà sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Xương trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ gái tơ diều liệng, chồn giay!.
Lớp này rồi lớp khác thay,
Màu cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Và cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên con đường dẫn tới miền trong.
Chiến tranh dai dẳng chưa xong.
Còn bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!
Rồi Đỗ Hoàng khóc than cho một người đẹp ngã xuống bằng một khúc bi ca thật
trữ tình tráng lệ. Một tiếng khóc khiến người ta thấy chiến tranh đã tàn hủy và
tiêu diệt cả cái đẹp đau xót hoài phí đến nhường nào:
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP
Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.
…
Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.
Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
(Chiến trường
Quảng Trị tháng 1 - 1974)
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy,
dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn
cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và
dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có
một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không
phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc
cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ
bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ
Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập
trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành
tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da
sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
*
Hà Nội, 30 tháng 04.2013
NGUYỄN HOÀNG ĐỨC
Địa chỉ: Số nhà 100, đường Nguyễn Xiển
(ngã 4 Nguyễn Trãi - Nguyễn Xiển)
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Email: Paulnguyenhoangduc@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 14.10.2016.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét