THƠ LỤC BÁT
Thể thơ, bản thân nó chỉ là một loại khuôn hình của tác phẩm văn học. Cũng
giống như khuôn hình làm bánh trung thu vậy. Nó hoàn toàn có thể dùng chung cho
nhiều hiệu, nhiều hãng. Nhưng chất lượng của bánh trung thu không phụ thuộc vào
cái khuôn đúc bánh, mà nó tùy thuộc vào phẩm chất các nguyên liệu và tài nghệ
pha chế, chế biến của người làm bánh. Cố nhiên, nói cho công bằng, thì độ dày
độ mỏng, độ vuông độ tròn, tỉ lệ cân đối hay không cân đối hay không cân đối,
dáng vẻ bắt mắt hay không bắt mắt...có thể cũng có đóng góp một phần nào nhưng
không quan trọng, không quyết định. Thể thơ lục bát cũng vậy. Nó vốn có từ
trong dân gian. Nhiều người và qua nhiều đời đã dùng nó để đúc ra các bài ca,
khúc hát...Nhưng phải đến Nguyễn Du , với tài năng lỗi lạc của mình, ông mơi
đúc ra được một truyện Kiều tuyệt thế giai nhân. Trong quá trình đúc truyện
Kiều, ông đồng thời cũng căn chỉnh, uốn nắn lại cho cái khuôn hình lục bát trở
thành thuần khiết và điển phạm nhất. Với truyện Kiều, Nguyễn Du đã cùng mọt lúc
tạo ra một "cú đúp", một thành công kép.
(Tác giả Đỗ Đình Tuân) |
Nhưng vì sao khi viết truyện Kiều, Nguyễn Du lại chọn thể thơ lục bát? Thực
ra thì Nguyễn Du cũng đã từng viết rất nhiều thơ chữ Hán theo thể thơ bát cú
Đường luật. Ông cũng đã viết "Văn
tế thập loại chúng sinh" nổi tiếng bằng thể thơ song thất lục bát.
Trước ông đã có người dùng bát cú Đường luật để kể chuyện và không thành công.
Nhiều người khác cũng đã dùng thơ lục bát để diễn nôm lại các câu truyện cổ
nhưng cũng rất ít thành công về mặt nghệ thuật văn chương. Nhưng khi viết
truyện Kiều, Nguyễn Du vẫn lựa chọn thể lục bát. Có lẽ là vì ông đã nhìn thấy
những ưu việt hơn hẳn của thể thơ lục bát so với các thể thơ khác. Và quả đúng
như vậy. Chỉ nói riêng về phép gieo
vần của thơ lục bát dường như cũng nó cũng đã tổng hợp được mọi phép
gieo vần của các thể thơ. Thực ra thì trong thơ cũng chỉ có hai phép gieo vần
cơ bản là phép gieo vần lưng và phép gieo vần chân. Phép gieo vần lưng phổ biến thấy xuất
hiện ở tục ngữ và các bài đồng giao thể 3 chữ, 4 chữ.
1- Học không hay,
cày chẳng biết
2- Con rô cũng tiếc, con riếc cũng muốn
3- Khôn cho người ta rái, dại cho
người ta thương,
dở dở ương
ương cho người ta ghét
4 - Chi vi chi vít
Bán mít chợ đông
Bán hồng chợ tây
Bán mây chợ huyện
Bán kiến chợ đào
Bắt được anh nào
Thì xào anh
ấy
Ù à ù ập
Các chữ mang vần giống như các "ốc vít" để "chốt" các
vế của câu tục ngữ lại
Câu 1, câu 2 chỉ có 2 vế nê chỉ cần 1 "ốc vít" thôi. Câu 1 là
"chốt" trực tiếp, còn câu 2 là trường hợp có thêm cái "long
đen"(con) độn giữa.
Câu 3 có 3 vế nên cần những 2 "ốc vít" để "chốt". Còn
ví dụ 4 là một trong nhiều bài đồng dao chơi trò chi vi chi vít rất phổ biến
trong dân gian thời xưa. Do làm theo thể "bốn chữ" nên các vế được
ngắt ra thành các dòng thơ. Nhưng phép gieo vần thì vẫn là phép gieo vần lưng.
Phép gieo vần chân thường
xuất hiện trong các thể thơ có số chữ trong câu ổn định như các thể thơ bốn
chữ; năm chữ; sáu chữ; bảy chữ; tám-chín chữ...Theo phép gieo vần này thì các
chữ mang vần nằm ở chữ cuối câu (chân). Nếu hai chữ mang vần nằm ở cuối hai câu
liên tiếp thì gọi là gieo vần liên
tiếp:
Rứa là hết! Chiều
ni êm đi mãi
Còn mong chi ngày
trở lại Phước ơi!
Quên làm sao, em
hỡi, lúc chia phôi
Bởi khác cảnh, hai
đưa mình nghẹn nói
Em len lét, cúi đầu
tay xách gói
Áo quần dơ, cắp
chiếc nón le te
Vẫn chưa thôi, lời
day dứt nặng nề
Hàng dây tiếng rủa
nguyền trên miệng chủ...
(Đi đi em-Tố Hữu)
Nếu hai chữ mang vần cách nhau một câu thì gọi là gieo vần gián
cách:
Dưới gốc đa già,
trong vũng bóng
Nămg mát đàn trâu
ngấm nghĩ nhai
Ve ve rung cánh,
ruồi say nắng
Gà gáy trong thôn
những tiếng dài.
(Trưa hè-Bàng bá Lân)
Nếu trong một khổ thơ 4 câu mà hai câu giữa gieo vần liên tiếp, còn câu 1
và câu 4 gieo vần gián cách đôi, thì gọi là gieo vần ôm nhau:
Trên suối nhỏ chiếc
cầu tre hẻo lánh
Tốp người qua, lẩy
bấy vịn thanh ngang
Lũ trẻ con sung
sướng nổ cười vang
Đùa với bóng chảy
theo dòng nước lạnh.
(Nắng thu-Nam Trân)
Thơ bát cú Đường luật cũng là thể thơ sử dụng phép gieo vần chân trong đó
câu1 với câu 2 là gieo vần liên tiếp. Các câu còn lại 2, 4, 8 là gieo vần gián
cách...
Trong thể thơ lục bát thì lại cùng một lúc sử dụng cả hai phép gieo
vần. Trong câu 8 của thơ lục bát có 2 chữ mang vần, thì chữ mang vần
thứ nhất (chữ thứ 4 hoặc chữ thứ 6-riêng ở lục bát truyện Kiều thì chỉ là chữ
thứ 6) vần với chữ thứ 6 của câu 6 trên. Đây chính là phép gieo vần lưng. Chữ
mang vần thứ hai là chữ thứ 8 lại vần với chữ thứ 6 của câu 6 dưới. Đây lại là
phép gieo vần chân. Hai chữ mang vần ở câu 8 lại luôn khác nhau về thanh điệu -
riêng lục bát truyện Kiều thì còn khác nhau cả về khuôn âm nữa.
Trăm năm trong cõi
người ta
Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc
bể dâu
Những điều trông
thấy mà đau đớn lòng
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói
má hồng đánh ghen...
Chính sự đắp đổi đều đặn của hai phép gieo vần chân-lưng đã làm cho thơ lục
bát có một nhịp điệu nghe uyển chuyển nhịp nhàng. Và chính sự chuyển đổi thanh
điệu và khuôn âm của hai chữ mang vần ở câu 8 đã làm cho hệ thống vần của thơ
lục bát luôn chuyển hóa và thông thoáng, rất tự do và dễ liên kết. Làm thơ lục
bát có vẻ như dễ, ai cũng có thể làm được có lẽ là vì thế chăng?
Nếu trong lục bát dân gian có xu hướng tự do hóa mình bằng cách mở rộng
dung lượng câu và thay đổi cách gieo vần, thì lục bát truyện Kiều lại ổn định
số lượng câu chữ và phép gieo vần. Nhưng tự do hóa mình bằng cách đa dạng cách
ngắt nhịp trong nội bộ câu. Rất nhiều câu thơ trong truyện Kiều, nếu đem trình
bày các dòng thơ theo nhịp thơ sẽ thấy nó hệt như những câu thơ tự do hiện đại:
- Hỏi tên
Rằng
Mã Giám sinh
Hỏi quê
Rằng
Huyện Lâm Thanh
Cũng gần
- Người lên ngựa
Kẻ chia bào
Rừng phong
Thu đã nhuốm màu
quan san
- Cửa người
Đày đọa chút thân
Sớm
Ngơ ngẩn bóng
Đêm
Nhờ những đặc điểm trên mà thể thơ lục bát, đặc biệt là lục bát truyện
Kiều, luôn uyển chuyển nhịp nhàng một cách ổn định. Đồng thời vẫn dễ co thắt,
dễ duỗi dài. Tính đàn hồi này đã làm giầu có thêm khả năng diễn tả của thơ lục
bát mà các thể thơ khác khó sánh kịp. Có thể nói thể thơ lục bát là một sáng
tạo đặc sắc của thơ ca Việt Nam .
Nó hết sức gắn bó với đời sống tâm hồn người Việt và cũng mang nhiều dấu ấn của
tâm hồn và tính cách của con người Việt Nam vậy.
*.
ĐỖ ĐÌNH TUÂN
Địa chỉ: nhà số 9, ngõ 4, phố Tôn Đức Thắng,
KDC Nguyễn Trãi 2, phường Sao Đỏ,
thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 01.05.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét