(Nhà thơ Lê Vĩnh Tài - Nguồn ảnh: internet) |
THƠ LÊ VĨNH TÀI,
BẢN SẮC VÀ BẢN LĨNH
(Đọc tập thơ “Đêm & những khúc rời của Vũ”
của Lê Vĩnh Tài)
từ tôi đến miệng tôi
xa quá không sao kêu cứu được…
L.V.T
(Tác giả Mai Văn Phấn) |
Đọc thơ Lê Vĩnh Tài thời điểm này, vẫn thấy “ngổn ngang” như một công
trường với những tòa nhà cao tầng hoàn thiện và nhiều hạ mục khác còn dang dở.
Như một số tác giả cách tân cùng thế hệ, nhà thơ Lê Vĩnh Tài khởi nghiệp từ thi
pháp truyền thống, một cách gọi khác là “lãng mạn hậu kỳ”, tiến tới kết hợp
những tinh hoa thơ Việt với một số thủ pháp nghệ thuật phương Tây để thiết lập
giọng nói riêng/ khác giàu bản sắc sáng tạo.
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài đã xuất bản tám tập thơ: “Hoài niệm chiều mưa”,
"Hạt thóc và Hoa dại" (in chung), "Lục
bát Phượng yêu” (in chung), “Và nỗi nhớ đã bắt đầu với gió”,
trường ca “Vỡ ra mưa ấm”, “Liên tưởng”, “Đêm & những khúc rời của Vũ”,
“Thơ
hỏi thơ”. Từ năm 2008 đến nay, Lê Vĩnh Tài sáng tác liên tục và đều
tay, nhưng chỉ công bố trên mạng Internet hoặc gửi cho bạn bè. Qua thư gửi tôi
ông tâm sự: “bản thảo giờ nhiều in chắc không lo nổi chi phí”. Tôi đồ rằng, đấy
chỉ là cách nói khiêm cung của nhà thơ. Có thể vì nhiều lý do mà Lê Vĩnh Tài
không muốn lấy giấy phép xuất bản, như sự bộc trực, dữ dội trong một số tác phẩm
của ông, hoặc nhà thơ “dị ứng” với sự cắt xén của biên tập...
Trên xa lộ thông tin toàn cầu hiện nay, tôi cảm giác thơ Lê Vĩnh Tài tựa
một cỗ xe chở đầy ắp hàng hóa đi nhiều nơi, đến được nhiều địa chỉ. Chỉ tính
riêng về trường ca, ngoài “Vỡ ra mưa ấm” – viết năm 2003, nhà
thơ đã công bố thêm năm trường ca nữa trên các website: “Bài trường ca người Mông”
- 2012, “Bài trường ca Bauxite” - 2013, “Bài trường ca cho người đã chết
nhưng vẫn còn sống trong sự thật” - 2014, “Bài trường ca cánh đồng bất nhân”
- 2014, “Bài trường ca Tây Tạng” – 2015. Còn nhiều bài thơ khác được ông
công bố trên các website, mạng xã hội và báo in. Theo khảo sát của tôi, tính
theo đơn vị chữ, Lê Vĩnh Tài hiện là một trong số các nhà thơ thời kỳ Đổi mới
có nhiều tác phẩm công bố.
Quan sát tác phẩm của Lê Vĩnh Tài theo thời gian, tôi nhận thấy năm 2008 là
dấu mốc quan trọng trong hành trình sáng tạo của ông. Từ thời điểm này, thơ Lê
Vĩnh Tài đã định hình phong cách, khẳng định được giọng điệu thơ có bản sắc.
Nhiều ý kiến cho rằng, thơ Lê Vĩnh Tài gần đây ảnh hưởng trào lưu hậu hiện đại.
Cá nhân tôi không cho là như vậy. Thực tế, Lê Vĩnh Tài đã tiếp thu có chọn lọc
những giá trị tích cực một số trào lưu, khuynh hướng thơ ca phương Tây. Ông vận
dụng cách thiết lập không gian đa chiều của Siêu thực và Tượng trưng. Đồng
thời, kết hợp có chọn lọc một số thủ pháp của hậu hiện đại, như phân mảnh, liên
văn bản, hỗn dung, diễu nhại… Điều quan trọng là, Lê Vĩnh Tài đã sống và sáng
tạo bằng tâm thế và tâm thuật của một nghệ sỹ, một công dân trước những biến
động tiêu cực khôn lường của đời sống đương thời. Ông phơi bày đến tận cùng cái
lõi của sự xấu xa, giả trá, ác độc… trước ánh sáng của lương tâm, của công
luận. Dù ông biết rằng, sự phơi bày ấy có thể sinh ra nhiều hệ lụy, hiểm nguy
cho chính mình trước khi căn bệnh trầm kha được chữa lành.
Để có thể nhận diện chính xác về một hiện tượng thơ khá đa dạng và phong
phú như Lê Vĩnh Tài, tôi chọn tập thơ “Đêm & những khúc rời của Vũ”,
một trong những tác phẩm thành công nhất của ông để tập trung phân tích và lý
giải bản sắc thơ, đồng thời, qua đó nhận chân bản lĩnh cầm bút của một tác giả
trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động như hiện nay.
Thật ra, những tìm tòi, cách tân của thơ Lê Vĩnh Tài đã manh nha từ
trường ca đầu tiên “Vỡ ra mưa ấm”, hoàn thành năm 2003. Trong trường ca này đã bắt
đầu xuất hiện những câu thơ có cách kết nối đa tuyến tính trong nguồn mạch cảm
xúc truyền thống: như đôi môi em/ ta ca hát reo cười trong đó. Bắt đầu từ đó, nhà thơ Lê Vĩnh Tài tiếp tục
dấn bước trên hành trình cách tân, đổi mới thi pháp, thể hiện rõ trong những
tập thơ tiếp theo. Trong “Bài thơ tả đám mây” (nằm ở tập "Liên tưởng”),
một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần kiếm tìm hệ hình thẩm mỹ mới, chúng ta dễ
dàng nhận thấy, cách liên kết không gian và thời gian, đặc biệt ngôn ngữ thơ
của Lê Vĩnh Tài đã khác xa với thơ truyền thống, khác biệt với chính ông so với
những tập thơ xuất bản trước đó. Không gian trong bài thơ này tựa khoảng trời
để ngỏ cho con chim được tự do mở đường bay về bất kỳ hướng nào:
những đám mây màu thiếu nữ nhợt nhạt
nhàn tản rong chơi
nàng vừa nói vừa cười nhè nhẹ
bộ xương của nàng là gió
và ngạc nhiên thấy ta ghi lại lời nàng
làm bài thơ của kẻ mộng du
sau khi nàng bước sâu xuống đất
nơi nàng nằm xuống
hơi ấm đã đọng thành nước mắt
nó lo nàng ngạt thở
nhưng nó không mất hy vọng
về bầu trời
và ngôi sao và mây trắng và mơ hồ
và hát
mây xanh...
(Bài thơ tả đám mây)
Đến tập thơ “Đêm & những khúc rời của Vũ”, những dòng chảy mới lạ trong
thơ Lê Vĩnh Tài thực sự được khai mở mạnh mẽ. Người đọc có thể nhận biết quá
trình khai mở ấy trong kết nối điểm nhìn, cách tạo từ trường cảm xúc, thiết lập
giọng nói tự nhiên, hồn nhiên mang tinh thần tự do của nhà thơ. Theo tôi, đây
là tập thơ đánh dấu độ chín, là đỉnh cao trong quá trình sáng tạo của nhà thơ
Lê Vĩnh Tài.
* * *
Đặc điểm nổi bật làm nên bản sắc thơ Lê Vĩnh Tài là giọng điệu độc
thoại-trữ tình. Giọng điệu này hầu như xuyên suốt các tác phẩm, từ bài thơ lẻ
đến các trường ca của ông, và ngày càng rõ ràng, mở rộng những âm vực và âm
sắc. Đặc điểm này tương đồng với một số tác giả cách tân cùng thế hệ. Họ thường
mở đầu bài thơ bằng giọng điệu tự sự, giãi bầy về những điều mình chú tâm đi
tìm hoặc ngẫu nhiên được chứng kiến.
Xin dẫn chiếu thơ của một số tác giả khác có cách viết tương tự Lê Vĩnh
Tài. Đây là cách mở đầu bài thơ của nhà thơ Đỗ Doãn Phương. Trong bài thơ sau
đây, tôi nhận thấy điểm nhìn được nhà thơ xác định trước đó. Và, câu thơ đầu
tiên trong bài vang lên như tiếng chuông mở cánh màn nhung đêm diễn:
Từ đỉnh núi khô cằn
Tôi lao xuống khe trũng
Cuốn cây lá đá theo
Dòng bất an sôi sục
(Lòng hồ 1)
Nhà thơ Lê Ngân Hằng lại có cách mở đầu bài thơ bằng giọng nói hồn nhiên,
tự nhiên. Trong bài thơ “Khúc nhạc đêm trăng” ta thấy, nhà thơ và người bên
cạnh mới bắt đầu cuộc đối thoại. Nhưng âm hưởng những giọng nói vang lên trong
bài thơ cho ta cảm nhận, họ đã hiểu nhau, thân thiết từ lâu. Điểm khởi đầu câu
chuyện cũng chính là thời khắc hiện thực trong bài thơ hiện lên và chạm vào
trái tim nhà thơ, tựa như chiếc công-tắc vừa được bật cho bóng đèn vụt sáng:
Không nghe thấy vì đôi tai tầm thường
Chân dẫm lên vũng đêm đẫm gió
Hương trong vườn đâu đâu chẳng rõ
Có thể vườn nhà có thể vườn hoang
Có thể vườn trời từ sâu sâu thẳm
Có thể trăm năm...
(Khúc nhạc đêm trăng)
Với Lê Vĩnh Tài, cách khai mở bài thơ của ông có nhiều khác biệt với
các bạn viết. Cũng tạo được giọng điệu hồn nhiên tưng tửng, nhưng thơ của Lê
Vĩnh Tài cho tôi cảm nhận, hiện thực đời sống hiển lộ trên văn bản mới chỉ một
phần nhỏ của những mặt khuất lấp mà tác giả từng chứng kiến, nếm trải. Khổ đầu
bài thơ “đêm & những khúc rời của Vũ” gợi cho bạn đọc liên tưởng một
con đường đèo, chỉ thoáng hiện một khúc quanh trong sương mù. Nó chính là ánh
xạ của đời sống sinh động và phồn tạp đang diễn ra:
không cần phải bay
chúng ta không muốn làm chim trời mà cần giải thoát
cần bỏ trốn
cái chết không sao đuổi kịp
(đêm & những khúc rời của Vũ) (1)
Nội dung câu chuyện có khi được Lê Vĩnh Tài “phong kín”, rồi nhẹ nhàng mở
ra cho bạn đọc thấy một “mê cung” trong đó. Điều đặc biệt tôi muốn nhấn mạnh
là, cái mê cung ấy không hề xa lạ, mà ngược lại, gần gũi, thân quen qua cách xử
lý ngôn ngữ của nhà thơ.
cuộn len rối tung một mê cung
trong giấc ngủ tôi thấy cuộn len lăn như cỏ
sự bện chéo vào nhau của sợi dọc sợi ngang
như sợi rơm chú chim sâu đan chiếc tổ
sau đó đẻ những quả trứng
(bài thơ về cuộn len)
sau một tin nhắn vay thi thoi
ướt đẫm câu nói mớ
đêm không ngựa không yên cương mà phi nước chảy
đuổi theo nhau ngày tháng có nhau
đuổi theo nhau không còn nhau nữa
(bài thơ người tuổi ngựa)
Giọng điệu độc thoại-trữ tình trong thơ Lê Vĩnh Tài thường diễn ra đều đều,
kết hợp với cách nói tự nhiên, như buông lơi, như thả trôi… Nhưng thực chất,
chúng đã được ông chắt lọc kỹ lưỡng, mang đến cho bạn đọc cảm giác như chứng
kiến cơn gió lớn ùa về, hay thủy triều đang lên nhanh. Tuy trong đó, những con sóng
hiện lên lại không lớn, mà cứ liên tục mấp mô, bệp bênh, có lúc như lặng lẽ
chảy trôi… Và thơ Lê Vĩnh Tài như những thước phim đưa tới bạn đọc cảm giác,
con sông kia đang vận chuyển một lượng phù sa lớn bồi đắp cho bãi bờ, làm màu
mỡ những cánh đồng mà nó chảy qua: … hát lên tim vỡ/ một tiếng chim bạn nghe thấy gì không/
bạn không lo âu gì nữa/ bàn tay xoè ra ánh sáng (bài thơ hót lên như tiếng chim); quê hương ôi Người vỡ ra mưa ấm/ ta cùng Người đến bên bờ
sông đầy cỏ/ lấy vạt áo ta lau gượng nhẹ cho Người/ ta lặng ngắm Người hạnh
phúc/ bài trường ca dâng lên Người (bài trường ca cho quê hương của một trăm năm
trước)… Dòng nước ấy trong thơ Lê Vĩnh Tài đã thấm sâu, tràn vào những góc tối,
từng ngóc ngách của đời sống này, và cuốn đi cả bụi bẩn, rác rưởi và uế tạp
trong đó. Tôi tưởng tượng một nghi lễ thanh tẩy đang diễn ra trong thơ Lê Vĩnh
Tài:
dường như chiều nay
chúng ta quên mất cuộc đời nhiều cánh cửa
cùng đóng lại ước mơ
lẽ ra phải kêu lên nỗi đau của rừng đã cháy
chúng ta cứ hát ca ban mai lá ướt
những chân mây thật nhiều gió và buồn
(bài thơ về sự cả nể)
Từng bài thơ của Lê Vĩnh Tài trải ra trước mắt bạn đọc hiện thực xã hội
đương diễn ra hàng ngày đầy sống động và chua xót. Thơ ông mang tính thời sự
cao. Tứ thơ thường được nhà thơ lấy cảm hứng từ những sự kiện cụ thể xảy ra
hàng ngày tại Việt Nam
và những điểm nóng trên thế giới. Tôi có cảm giác, dường như những va đập trong
đời sống thực tế dội vào Lê Vĩnh Tài và tạo ra những khoảnh khắc ấn tượng trong
thơ ông:
như xác xơ lơ thơ ác mộng
như mầm chồi
hết mẫu giáo đi vào lớp một
hết đại học đi vào nước mắt
nhưng đứa trẻ còn lênh đênh trên phố
tờ vé số gay gắt sa mạc
trôi lang thang vỉa hè
(nằm vạ…)
mỗi sáng dậy thổi mùi khói bếp
mẹ dựa lưng vào mùi bóng tối
mùi củi cháy mùi cơm sôi
những bông hoa ngập nước lâu ngày
mùi nặng trĩu
ngày xưa sức người mùi sỏi đá...
những hạt cơm mùi thủng đáy nồi
(những ngày mưa mưa mãi không thôi...)
Đọc "Đêm & những khúc rời của Vũ", người đọc được
chứng kiến tài nghệ của “bác sỹ” Lê Vĩnh Tài khi thực hiện những cuộc “đại
phẫu” đời sống xã hội, nhân thế. Mỗi người như gặp lại chính mình, gặp lại
những tình huống, trạng huống mà mình từng bươn trải, vượt qua… Bằng những “vết
mổ”, “đường chỉ khâu” quyết liệt, dứt khoát mà cũng đầy nhân bản, “bác sỹ” Lê
Vĩnh Tài đã cắt bỏ những khối u, phần hoại tử và cả những mảng cơ thể bị thương
tật để đánh thức lương tâm, lương tri con người. Song, những đường rạch đại phẫu
trongtập thơ này mới là giai đoạn khởi đầu dấn thân của một công dân-thi sỹ.
Thơ Lê Vĩnh Tài ở giai đoạn sau và gần đây thể hiện thái độ phản kháng ngày
càng dữ dội, bộc trực hơn. Điều đó thể hiện rõ bản sắc và bản lĩnh nghệ sỹ của
ông. Nhà thơ quan niệm sáng tạo chính là hành trình đi tìm tự do, công bằng,
hạnh phúc cho con người và vì con người. Tinh thần ấy được thể hiện rõ trong
những bài thơ lẻ và năm trường ca ông viết gần đây.
Hiện thực đời sống thường hiện ra sắc lạnh, thô ráp và khá gai góc trong những
tác phẩm của Lê Vĩnh Tài. Không mượt mà, trau truốt như một số thế giới thơ
khác, chính sự thô ráp, cộc kệch ấy với tôi lại là ấn tượng mạnh mẽ nhất của
thơ ông. Có những chi tiết, sự kiện được nhà thơ phơi ra ánh sáng, hoặc truy
lật đến tận nơi cư ngụ cuối cùng của nó. Điều đặc biệt là, chi tiết, sự kiện ấy
lại được biểu đạt bằng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và sắc thái biểu
cảm. Qua ngôn ngữ ấy, tôi cảm nhận được trái tim nhân hậu, bao dung của nhà
thơ.
đêm làm ướt chiếc yêng của mẹ
hai cánh đã ướt của con chim Phí ngày mưa
run lên khi về tổ ấp lên những quả trứng
hơi lạnh làm ung các chú chim con
đang ngủ ngon trong nhà mồ tập thể
(dịu dàng như một gợi nhớ của đêm)
trước khi buổi sáng vào bờ
những đợt sóng dừng lại một khoảnh khắc
ngay cạnh bên tôi
như thể giấc mơ suốt đêm xoay loang loáng
nan hoa nước mắt
mắt tôi khu rừng nguyên sinh
mắt bão mịt mù hơi nước
(những căn nhà bây giờ nền cát trắng)
Trả lời câu hỏi của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng “sự xúc động đến từ đâu?” Nhà thơ Lê Vĩnh Tài trả lời: “Có xúc động lung linh tơ trời làm ta ngân
lên tiếng kêu nao lòng. Có xúc động bầm dập làm ta kêu lên như bị cháy nhà… Khi
chúng ta cảm thấy sự xúc động, hay cái gì tương đương với sự xúc động, có lẽ
chúng ta đang ưu tư về thân phận con người chăng?... Con người ta được sinh ra
không phải do ý chí của mình quyết định và thế giới mà ta đang hiện hữu trong
đó đang ngày càng trở nên xa lạ và bất an hơn.”(2)
Sự bất an của đời sống, của thế giới hiện lên hầu khắp trong những bài thơ
của ông. Trong bài thơ “xa quá không sao khóc được…”, tôi cảm nhận được nhà thơ
đang run lên trước những nỗi đau của cõi nhân tình. ôi ngón tay, dưới lớp da mỏng/ máu của tôi đang chảy/ tôi
lấy sức mạnh ở đâu để kháng cự/ tôi cứ buông xuôi. Những câu thơ như thể hiện một trạng thái
buông xuôi, như “lả đi”. Nhưng không, đó chính là quá trình thu nạp năng lượng
để nhà thơ bật dậy mạnh mẽ trong khổ cuối của bài thơ này:
này đêm không muốn dứt
hãy để ngày ấy lụi tàn/ những cơn hấp hối cũ kỹ
ông già sắp sửa tan nát
xoay tròn trôn ốc khi mua vé ra khỏi đường hầm
lờn răng mỏi gối
muốn nói tất cả
tại sao?
tại sao?
tại sao?
chúa ơi
con không máu lạnh
xin đừng im lặng
nữa
(xa quá không sao khóc được…)
Đoạn thơ sau đây khắc họa một hiện trạng đời sống đang diễn ra thông qua
những hình ảnh sắc nhọn, khô khốc nhưng thấm đẫm nước mắt:
thơ ngất xỉu khi ngang qua cây cầu sập
còng lưng chảy máu mẹ nghèo
thơ ngất xỉu khi ngang qua hàng hàng núi đá
[ở đâu có núi đá ở đó có công trường
ở đâu có công trường ở đó có tai nạn]
và trẻ con nước mắt trong veo
(những câu thơ như gió rã rời)
Khảo sát thơ Lê Vĩnh Tài, tôi thấy thường xuất hiện hình ảnh con mắt, nước
mắt và khóc. Chỉ riêng trong tập thơ “Đêm & những khúc rời của Vũ”,
tôi thống kê được 90 từ “mắt” và 23 từ “khóc”. Từ “mắt” cũng được ông sử
dụng nhiều trong một số tác phẩm sau này. Như trong trường ca "Vỡ ra
mưa ấm": 51 từ, “Bài trường ca Tây Tạng”: 21 từ, “Bài trường ca người
Mông”: 18 từ, “Bài trường ca cho người đã chết nhưng vẫn còn sống trong sự
thật”: 5 từ, “Bài trường ca cánh đồng bất nhân”: 10 từ, “Bài trường ca
Bauxite”: 11 từ. Nói như vậy để thấy, “mắt” đã trở thành một trong những “từ
khóa” của thơ Lê Vĩnh Tài.
Trở lại với tập thơ "Đêm & những khúc rời của Vũ", Lê
Vĩnh Tài đã sử dụng hình ảnh con mắt rất linh hoạt, biến ảo lạ lùng. buổi sáng, tôi không biết có còn gương mặt. Mắt
và môi đã thành xa lạ…./ … Đã gươm đao trong mỗi mắt nhìn (buổi sáng). Ở đây, nhà thơ biến con mắt và nước mắt thành
những nhân vật sống động trong cuộc chìm nổi mưu sinh và chống chọi với mọi
hiểm họa của đời sống xã hội để tồn tại: nước mắt xếp hàng vào
cửa tự do/ không ai mua vé (ở Lebanon...); nước
mắt tràn trên mặt/ tôi quên mất mình còn gương mặt không biết mình còn là người
hay không (xa quá không sao khóc
được…); đôi mắt hú còi báo động/ vô ích mênh mông (bài thơ về sự cả nể); những ánh mắt nhìn theo như thủy triều rút xuống (bài thơ hót lên như tiếng chim); một bên máu một bên nước mắt/ ngước nhìn bờ bên kia…/ …
hai mắt mẹ mây mù mưa bão (dịu dàng như một gợi nhớ của đêm); có gì đâu mà khóc/ ngủ đi nước mắt/ dài và xanh sương mù (ngủ đi, nước mắt)…
Hình ảnh con mắt trong thơ Lê Vĩnh Tài khá phong phú, đa dạng. Nhà thơ
thường biến con mắt trở thành điểm nhấn, và, đã phá vỡ sự đơn điệu, đều đều
trong giọng điệu độc thoại-trữ tình của ông. Giọng thơ của Lê Vĩnh Tài không
giống như tiếng suối chảy, mà tựa những bước sóng cơ dao động lan truyền trong
môi trường, ta vẫn gọi là sóng hình Sin. Những bước sóng này có biên độ dao
động, chu kỳ, tần số và tốc độ tương đối đồng nhất và điều hòa. Đó chính là nét
đặc trưng của thơ Lê Vĩnh Tài. Trong một khổ thơ của ông thường xuất hiện trọn
vẹn các bước sóng cơ bản. Ví dụ, một bài thơ có năm khổ thơ, có thể nhìn thấy
trong đó năm bước sóng. Điều này rõ hơn trong năm trường ca viết gần đây của
nhà thơ. Cách tạo bước sóng này đem đến cho bạn đọc cảm giác chảy trôi, tự
nhiên, gần với “vô thủy vô chung” như bản chất của vũ trụ.
Đọc liên tục nhiều tác phẩm của Lê Vĩnh Tài, tôi nhận ra sự trùng lặp giọng
điệu (monotone). Các bài thơ chỉ khác nhau về đề tài. Cá nhân tôi quan niệm, đề
tài đôi khi chỉ là cái cớ để nhà thơ hướng tới lý tưởng sáng tạo. Mục đích cốt
tử của nhà thơ là khám phá vẻ đẹp miên viễn của thơ tiềm ẩn trong các đề tài.
Dù đơn giọng điệu như vậy, nhưng Lê Vĩnh Tài đã sử dụng tài tình từ khóa “con
mắt” và một số hình ảnh khác đặc trưng của ông (đêm, giấc mơ, khuôn mặt…) để
làm lệch đi những bước sóng và chuyển động đơn trong thơ ông. Dĩ nhiên nó cũng
làm “lệch” nhịp sinh học của bạn đọc, mở ra nhiều liên tưởng khác lạ khi tiếp
cận văn bản.
* * *
Trong đa số những bài thơ của Lê Vĩnh Tài, đặc
biệt trong tập thơ "Đêm & những khúc rời của Vũ",
cách đặt tên bài có nhiều khác biệt so với thế hệ thơ trước đó. Trước đó, tên
bài thơ chính là thần thái/ hồn vía của tác phẩm, hoặc thông qua nội dung để
hiển lộ mục đích mà tác giả hướng tới. Cách đặt tên này khá phổ biến trong thơ
truyền thống phương Đông và cả phương Tây. Thậm chí trong thơ vô ngôn và cả
những bài thơ không thể đặt tên đều được các nhà thơ vận dụng. Nhà thơ Octavio
Paz(3) quan niệm thơ “vừa là hình ảnh và vừa là im lặng”. Hay công án thiền
"Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?" của thiền sư Bạch Ẩn Huệ
Hạc(4) đã trở thành một trong những công án nổi tiếng của các thiền phái Nhật
bản và trên thế giới. Riêng với cách đặt tên bài thơ của một số nhà thơ
thế hệ Đổi mới sau 1975 ở Việt Nam, trong đó có Lê Vĩnh Tài lại có những điểm
khác và phong phú hơn.
Cụ thể như trong tập thơ "Đêm & những khúc rời của Vũ",
nhà thơ có thể chọn một ý thơ bất kỳ trong bài thơ để làm tiêu đề. Ví dụ, tên
bài thơ “đơn giản chỉ là người ngồi bên”. Bài thơ kể về một giấc mơ vào một
thời điểm nào đó không xác định. Trong giấc mơ ấy, nhà thơ thấy “người ngồi
bên” với ngôn ngữ
nhạt màu/ chia cắt giấc mơ thành bậc thang. Rồi từ tiêu đề như nhặt được, như cố ý ghép
vào ấy lại mở ra những điều vô tình tương tự làm bạn đọc ngạc nhiên đến sững
sờ:
đôi khi tiếng vang cây đàn đột nhiên tắt
đôi khi muốn nghe một tiếng thì thầm
đôi khi hai vì sao sa xuống
mắt em đau đớn. Lặng câm
cây nến còn bốc khói
(đơn giản chỉ là người ngồi bên)
Có lúc Lê Vĩnh Tài đặt tên bài thơ bằng cách mượn lối ví von dung dị của
những làn điệu dân ca, đồng dao, ca dao, như: “bài thơ hót lên như tiếng chim”,
“chỉ còn giấc mơ là mù sương và thường trực”, “những câu thơ như gió rã rời”,
“những ngày mưa mưa mãi không thôi”, “Dịu dàng như một gợi nhớ của đêm”… Cách
ví von này không mới, nhưng trước đây thường được các nhà thơ vận dụng trong
phần nội dung thay vì dùng để đặt tên tác phẩm.
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài còn có cách đặt tên bài thơ khá lạ và thú vị. Đó
là chộp bắt một hình ảnh thoáng hiện, thậm chí thu nạp ánh xạ của nó để đưa lên
làm tiêu đề. Như tên các bài thơ sau: “thơ à...”, “qua cửa sổ, tôi nhìn thấy
một con hẻm”, “hay là gió làm em nước mắt…”, “Và buổi chiều có thể là thơ
mộng”… Trong bài thơ “xa quá không sao khóc được…”, nhà thơ không nói về
khoảng cách “xa quá” từ “tôi đến mắt tôi… trên gương mặt không còn nước
mắt”, hay lý do tại sao không thể bật khóc, mà những hiện thực cay đắng và đau
đớn đã được ông phô bầy trong từng đoạn thơ:
sống sẽ còn gì
tôi nghe tiếng kêu trong quán nhậu
này tôi đột nhiên được giải thoát
vỉa hè đắng cay trên miệng
không cần ai mủi lòng
đừng cố nữa
những chai bia tiếp thị toát mồ hôi
***
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài áp dụng khá nhiều thủ pháp nghệ thuật của các trào lưu
hiện đại và hậu hiện đại. Trong bài thơ “đêm & những khúc rời của Vũ”, Lê
Vĩnh Tài tạo những hình ảnh mang dấu ấn tượng trưng để thiết lập một không gian
đa chiều với nhiều hướng tiếp cận:
ngày tụi mình ngồi với nhau, Vũ ơi có người con gái
lặng lẽ leo lên leo mãi lên những ngón tay
gảy những tổ khúc muộn phiền
vào chiếc ly của đêm toàn nước
đất nước ơi, lớn lên!
(đêm & những khúc rời của Vũ)
Điều khá thú vị trong tập thơ này là, tác giả đã chuyển một số bài thơ tự
do sang văn bản thứ hai ở thể lục bát. Như một số nhà thơ cách tân khác, Lê
Vĩnh Tài cũng là một trong những “cao thủ” của sân chơi 6 & 8 truyền thống
này. Người đọc có thể thưởng thức tài nghệ của ông trong những câu thơ sau đây:
một hối tiếc một long lanh
sớm ngày đã rối tung thành đêm đen
một người rách áo rồi em
một người lại giấu cuộn len đâu rồi...
(bài thơ về cuộn len)
Đặc biệt trong tập thơ “Đêm & những khúc rời của Vũ”,
nhà thơ Lê Vĩnh Tài đã tạo ra một kiểu xếp chữ riêng trong câu thơ, đoạn thơ để
tạo cho bạn đọc ấn tượng lạ mắt khi tiếp cận văn bản. Ấn tượng này giúp bạn đọc
liên tưởng tới Nghệ thuật Thị giác (Visual Art) hay còn gọi nghệ thuật
trực quan, được vận dụng trong mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, điện ảnh, thiết
kế thời trang, thủ công mĩ nghệ... Ở đây, những ký tự được nhà thơ Lê Vĩnh Tài
sắp xếp không đơn thuần để tạo nghĩa, mà vị trí cũng như độ giãn khoảng cách
của mỗi từ, kể cả những dấu trong tiếng Việt đều được tham gia tạo hình. Sự sắp
xếp ấy mang lại cho người đọc/ người xem những giá trị biểu cảm mới, mở thêm
biên độ tưởng tượng về một không gian thơ hấp dẫn và lôi cuốn.
thế thì cho tôi hỏi
anh có còn hy vọng nữa k-> h-> ô-> n-> g?
(thế là chịu thua)
tràn lan những lá cờ trắng
chỉ câu thơ tìm mọi cách
trồi lên
t r o ^ i l e ^ n…
t r o ^ i l e ^ n…
t r o ^ i l e ^ n…
(thơ à...)
Xóa nhòa ranh giới giữa ngôn ngữ thơ và cách nói sinh hoạt đời thường cũng
là một thủ pháp mà một số tác giả cách tân thuộc thế hệ Đổi mới thường vận
dụng. Với Lê Vĩnh Tài, ông sử dụng thủ pháp này với kết hợp linh hoạt giọng
điệu diễu nhại để tạo ra những tình huống bi hài, khá thú vị:
có người chết vì hạnh phúc
vì yêu…
dù người ta chết vì bệnh không có tiền mua thuốc nhiều hơn
(xa quá không sao khóc được…)
Thủ pháp này của Lê Vĩnh Tài rõ ràng làm gia tăng khả năng biểu đạt của
ngôn ngữ thơ hiện đại. Điều đó cho thấy, nhà thơ có thể sử dụng bất kỳ cách nói
nào, kể cả cấm kỵ (taboo) để đạt tới mục đích cao cả của sáng tạo. Nhà thơ Lê
Vĩnh Tài từng quan niệm: “Làm thơ là một việc tự nhiên và “tuôn chảy” vô cùng,
nhiều thứ cùng đến và cùng chồng mờ lên nhau cùng một lúc”(5)
* * *
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài sinh 1966, tại TP. Ban Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ với bề dày văn hóa trầm tích từ ngàn đời đã tạo cho
thơ Lê Vĩnh Tài nguồn cảm hứng sáng tạo liên tục và mạnh mẽ. Từ
trường ca "Vỡ ra mưa ấm" trước đó, bạn đọc được chứng kiến một
Tây Nguyên vạm vỡ và kiêu hãnh hiện lên trong thơ ông: Tây Nguyên mênh mang tận cùng máu chảy/ mẹ dạy ta nhìn
thấy/ một bông lúa rẫy cũng khát như người/ giấu ngọt bùi sau lần trấu mỏng/
Tây Nguyên mênh mang tận cùng sự sống/ chàng Đam San yêu con gái Mặt
Trời. Mặc dù trong tập thơ "Đêm & những khúc rời của Vũ", nhà
thơ ít nhắc tới từng địa danh cụ thể cùng những hình ảnh đặc trưng vùng đất
này, nhưng bạn đọc dễ dàng cảm nhận một bóng dáng và tinh thần Tây Nguyên trong
những câu thơ phóng khoáng, khỏe khoắn của ông: như hợp nhất trời và đất/ đàn bà và đàn ông/ uống và
không khát/ một hối tiếc/ một nước mắt (bài thơ về cuộn len). Bóng dáng và âm thanh
Tây Nguyên cũng thường được nhà thơ tái hiện khá đa dạng và phong phú trong
những tác phẩm sau này.
Lê Vĩnh Tài đã mang trên vai sứ mệnh của kẻ sáng tạo. Hàm nghĩa sáng tạo,
qua tác phẩm của nhà thơ đồng nghĩa với sự tự nguyện hiến dâng, hết lòng dấn
thân, trước hết vì tự do, công bằng và hạnh phúc của con người, và vì sự thiêng
liêng và cao đẹp của thơ ca. Nhà thơ từng tâm sự: “Tôi nghĩ bất cứ một người
làm công việc sáng tạo nào cũng đều mang trên mình sứ mệnh. Sứ mệnh của thơ là
một tiếng kêu lạc giọng, đau đớn làm dấu hiệu của nỗi đau đã gây ra nó. Sứ mệnh
của nhà thơ là làm sao cho tiếng kêu ấy phải là âm thanh ngôn ngữ của mình.”(6)
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài đã thể hiện tài năng và bản lĩnh một cá thể sáng tạo
trên hành trình đổi mới và cách tân thi pháp trong điều kiện không mấy thuận
lợi. Tôi biết, ông phải đối mặt với nhiều luồng dư luận trái chiều và không ít
những ý kiến phản bác, dị ứng trước những giá trị mới lạ của mình. Tuy nhiên,
qua tác phẩm của Lê Vĩnh Tài và các nhà thơ cách tân thế hệ Đổi mới, ta có thể
thấy, sự hình thành những khuynh hướng sáng tác mới đã và đang làm thay đổi
diện mạo thơ Việt Nam
đương đại. Chúng ta có quyền tự hào và đặt niềm tin vào thế hệ tác giả mới này.
Lê Vĩnh Tài đang độ chín trong quá trình tích lũy, trải nghiệm, thăng hoa
cảm xúc... Nhà thơ đã và đang bền bỉ và tự tin hoạch
định cho riêng mình một hướng đi và bản lĩnh trong
sáng tạo để khẳng định một bản sắc thơ độc đáo, phong phú hơn. Nhân đây, tôi
muốn dẫn câu thơ “máu
thắm đỏ giấc mơ thi sĩ” trong bài “xa quá không sao khóc được…” của Lê Vĩnh Tài
để khép lại bài viết. Đó cũng là lời chúc của tôi gửi tới nhà thơ, và mong đợi
được đọc tác phẩm của Lê Vĩnh Tài trong những vỉa tầng khác nữa.
___________
(1) Tên các bài thơ trong tập thơ “Đêm & những khúc rời của Vũ”, tác giả Lê Vĩnh Tài không viết hoa.
(1) Tên các bài thơ trong tập thơ “Đêm & những khúc rời của Vũ”, tác giả Lê Vĩnh Tài không viết hoa.
(2), (5), (6) Nguyễn Đức Tùng, sách
chuyên luận ”Thơ đến từ đâu”, Nxb Lao Động, 2009.
(3) Octavio Paz (1914 - 1998), là
nhà thơ, nhà văn Mexico
đoạt giải Nobel Văn học năm 1990.
(4) Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴, 1686 – 1769), là một trong những thiền
sư Nhật Bản quan trọng nhất của tông phái Lâm Tế.
*
Hải Phòng, tháng 04/2016
MAI VĂN PHẤN
Địa chỉ: Số nhà 12/56 phố Cát Cụt,
Quận Lê Chân, TP. Hải Phòng.
Email: maivanphan@gmail.com
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn gửi ngày 02.05.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét