(Phát quà cứu đói ; Nguồn ảnh: internet) |
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ
TRẦN TRỌNG KIM
THU HỒI VÀ THỐNG
NHẤT LÃNH THỔ
Sau khi được thành
lập, chính phủ đổi Bắc Kỳ thành Bắc Bộ, Trung Kỳ thành Trung Bộ, Nam Kỳ thành
Nam Bộ, dầu lúc đó Nam Bộ chưa chính thức được sáp nhập vào trung ương.
(Giáo sư Trần Gia Phụng) |
Trong phiên họp đầu
tiên của nội các, luật sư Trần Văn Chương, bộ trưởng Ngoại giao, người cao tuổi
nhất, được bầu làm nội các phó tổng trưởng (phó thủ tướng). Trần Trọng
Kim cử Trần Văn Chương ra Hà Nội thương lượng với tướng Yuichi Tsuchihashi,
tổng tư lệnh quân đội Nhật, kiêm toàn quyền Đông Dương, về sáp nhập Bắc Kỳ vào
Việt Nam. Phía Nhật không trở ngại. Ngày 2-5-1945 vua Bảo Đại cử
Phan Kế Toại, xuất thân trường Hậu bổ Hà Nội và trường Thuộc địa Paris là trường chuyên
đào tạo quan chức thuộc địa Pháp, nguyên tổng đốc Bắc Ninh, làm khâm sai Bắc
Bộ. Phan Kế Toại chính thức nhận chức tại phủ thống sứ cũ, nay được gọi
là Bắc Bộ phủ, ngày 5-5-1945.
Ngày 13-7-1945, đích thân Trần Trọng Kim ra Hà
Nội thương thuyết. Toàn quyền Nhật Bản Yuichi Tsuchihashi chịu trả ba
thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng, vốn là nhượng địa của Việt Nam cho Pháp
từ năm 1888.
Chính phủ bổ nhiệm
Trần Văn Lai làm đốc lý (thị trưởng) Hà Nội, Vũ Trọng Khánh làm đốc lý Hải
Phòng và Nguyễn Khoa Phong làm đốc lý Đà Nẵng. (David G. Marr, Vietnam 1945, the Quest for Power, University of California Press , 1995, tt. 132-133.)
Nam Kỳ (cũ) nay là
Nam Bộ vốn là thuộc địa của Pháp, theo quy chế riêng. Vì vậy, lúc đầu
người Nhật trì hoãn việc trả Nam bộ, nhưng sau người Nhật chịu giao Nam Bộ lại
cho Việt Nam từ ngày 8-8-1945. (David G. Marr, sđd. tr. 135.)
Nguyên nhân có thể
lúc đó Hoa Kỳ thả bom nguyên tử ngày 6-8-1945 xuống Hiroshima, Nhật sắp sửa đầu
hàng Đồng minh và rút quân về nước, nên Nhật mới chịu rời Nam bộ. Ngày
14-8-1945, vua Bảo Đại ký dụ bổ nhiệm Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai Nam Bộ. (Vũ
Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8/1945),
Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 106.)
Trong khi đó, Hoa
Kỳ thả bom nguyên tử lần thứ hai xuống Nagasaki ngày 9-8-1945, thì ngày 14-8,
Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Vì vậy, quân Nhật ở Sài Gòn chưa
kịp bàn giao Nam Bộ trở về lại với Việt Nam thì chính phủ Trần Trọng Kim
sụp đổ. Việt Minh nổi lên cướp chính quyền.
GIÁO DỤC VÀ THANH
NIÊN
Về giáo dục, chính
phủ chủ trương dùng quốc ngữ giảng dạy thay chữ Pháp, và rất chú trọng đến
ngành giáo dục kỹ thuật. Cầm quyền chưa được hai tháng, vào ngày 8-
6-1945, chính phủ quy định rằng từ đây, chữ quốc ngữ và tiếng Việt là ngôn ngữ
chính thức ở các công sở và trường học. Trong trường học, Pháp văn được
giảng dạy như một ngoại ngữ. (Phạm Hồng Tung, Nội các Trần Trọng Kim: Bản
chất, vai trò và vị trí lịch sử, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2009, 241.)
Kỳ thi tiểu học năm
nay là kỳ thi đầu tiên bằng quốc ngữ, và dự định sẽ dùng quốc ngữ trong các kỳ
thi cao hơn. Chương trình trung tiểu học được Việt Nam hóa, do bộ
trưởng bộ Giáo dục Hoàng Xuân Hãn đưa ra. Chương trình nầy là nền
tảng căn bản cho chương trình giáo dục của các chính phủ trong chính thể Quốc
Gia Việt Nam
và Việt Nam Cộng Hòa sau nầy.
Bộ trưởng bộ Thanh
niên Phan Anh có sáng kiến vận động thành lập trường “Thanh niên tiền
tuyến”. Trường do Phan Tử Lăng làm hiệu trưởng, khai giảng khóa đầu tiên
ngày 2-7-1945 gồm 43 học viên, hướng dẫn học viên hoạt động xã hội và cả quân
sự. Trụ sở trường đặt tại một trại lính hộ thành cũ, phía trước cửa Quảng
Đức. Cửa nầy ở phía nam kinh thành Huế, bên tay trái của Thượng Tứ từ
ngoài nhìn vào. (Cửa Quảng Đức bị sập trong trận lụt năm 1953 nên còn được gọi
là cửa Sập.) Phong trào thanh niên tham gia hoạt động xã hội phát triển
trên toàn quốc. Ở trong Nam ,
phong trào thanh niên được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đặt tên là “Thanh niên tiền
phong”.
Các đoàn thanh niên
nầy góp phần đắc lực trong việc vận động cứu đói đồng bào Bắc Bộ. Từ đó ý
thức xã hội và tinh thần dân tộc quật khởi mạnh mẽ trong giới thanh niên.
Phong trào thanh niên đang hăng say hoạt động, thì chính phủ Trần Trọng Kim từ
chức sau khi Nhật bại trận.
Nhiều thanh niên
xuất thân từ phong trào nầy chuyển qua hoạt động cho Việt Minh khi Việt Minh
chiếm chính quyền 19-8-1945. Việt Minh sử dụng những lực lượng thanh niên
nầy cho các nhu cầu chính trị của đảng Cộng Sản.
NHỮNG DỰ ÁN CẢI CÁCH
Ngày 30-6-1945, vua
Bảo Đại ban hành đạo dụ số 69 thành lập Uỷ ban Dự thảo hiến pháp gồm 15 uỷ
viên: Phan Anh (thuyết trình viên), Hoàng Đào, Vũ Đình Hòa, Huỳnh Thúc Kháng,
Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thai Mai, Vương Quang Nhường, Nguyễn Tường
Long, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn
Thinh và Nguyễn Trác. (Việt Nam tân báo, số ra ngày 7-7-1945. Phạm Hồng
Tung trích dẫn, sđd. tt. 236-237.)
Đạo dụ số 70 của
vua Bảo Đại thành lập Uỷ ban Cải cách cai trị, tư pháp và tài chánh gồm 15 uỷ
viên: Vũ Văn Hiền (thuyết trình viên), Trần Văn Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc
Hòe, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình
Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình
Thảo, Phan Kế Toại. (Việt Nam tân báo, số ra ngày 9-7-1945. Phạm Hồng
Tung trích dẫn, sđd. tr. 237.)
Uỷ ban Cải cách
Giáo dục hình thành do đạo dụ số 71 của vua Bảo Đại gồm 18 uỷ viên: Hoàng Xuân
Hãn (thuyết trình viên), Nguyễn Thanh Long, Hoàng Thị Nga, Tạ Quang Bủu, Kha
Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thanh Giang, Ngụy Như
Kon-Tum, Hồ Văn Ngà, Bùi Kỷ, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Phúc Ưng Quả, Nguyễn
Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thinh, Hoàng Đạo Thúy, Nguyễn Xiển. (Việt
Nam tân báo, số 10-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr.
237.)
Cuối cùng, đạo dụ
số 83 do vua Bảo Đại ban bố ngày 1-7-1945 thành lập Hội đồng tư vấn quốc gia,
gồm cả ba uỷ ban cải cách trên đây. (Các đạo dụ vua Bảo Đại được công bố trên
báo L'Action các ngày 2, 13, 17-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr.
236.)
Tất cả các uỷ ban
nầy tập trung nhiều nhân tài trên khắp ba miền đất nước, nhưng rất tiếc chưa
hoạt động thì thời cuộc biến đổi.
CHÍNH PHỦ TRẦN
TRỌNG KIM CỨU ĐÓI
Một trong những
chương trình hành động khẩn cấp của chính phủ Trần Trọng Kim là giải quyết nạn
đói ở Bắc bộ. Nạn đói bắt đầu từ mùa đông năm 1944, lúc đó còn Pháp
thuộc. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh, Pháp ở Đông Dương.
Khi chính phủ mới
được thành lập (17-4-1945), chính phủ Trần Trọng Kim ra lệnh bãi bỏ việc
bắt buộc nông gia bán lúa gạo cho nhà nước, và để cho dân chúng tự do buôn bán
gạo. Điều nầy có nghĩa là những quy định trước đây về số lượng lúa gạo
phải bán cho nhà nước theo diện tích canh tác cũng bị bãi bỏ. Người dân
được tự do vận chuyển buôn bán gạo dưới 50 kí lô mà không cần phải có giấy phép
của chính quyền.
Ở các tỉnh, những
ngân hàng nông nghiệp sẽ phụ trách mua gạo cho nhu cầu quân sự hay nhu cầu thực
phẩm của chính quyền dưới sự kiểm soát của tỉnh trưởng. Những người nghèo
đói còn sống sót và những người vô gia cư được chính phủ tập trung vào những
nhà nuôi dưỡng đặc biệt để phục hồi dần dần.
Chính phủ thành lập
ty "Liêm Phóng Kinh Tế", tức cảnh sát kinh tế, và giao cho Nguyễn Duy
Quế điều khiển, kiểm soát gắt gao giá gạo, nhằm ngăn chận những vụ đầu cơ hay
buôn lậu. (Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8/1945),
sđd. tt. 95-96.)
Nhờ thế, việc đầu
cơ tích trữ hay buôn lậu gạo giảm hẳn. Tình hình nông gia được cải thiện
nhờ giá bán cho nhà nước cao gấp 5 lần so với thời gian trước đó dưới thời còn
Pháp.
Vua Bảo Đại ra sắc
chỉ ngày 23-5-1945 hủy bỏ nợ nần do các tiểu nông vay tiền nhà nước trước đây.
(Nguyễn Thế Anh, “The Great Famine of 1945", The Vietnam Review 4,
Spring-Summer 1998, Hamden, Connecticut, USA, tr. 469.) Chính phủ
cho hạ thấp mức thuế nông dân phải đóng góp. Bộ trưởng bộ Tiếp tế Nguyễn
Hữu Thí đến Sài Gòn vào đầu tháng 6-1945 để thương thuyết với người Nhật nhằm
thay đổi phương cách chở gạo từ Nam ra Bắc.
Để tránh bị phi cơ
Đồng minh oanh tạc, gạo sẽ được chở bằng các đoàn thuyền buồm thuê của thường
dân. Bộ trưởng Nguyễn Hữu Thí còn đề nghị đưa 1,000,000 dân từ Bắc bộ và
Trung bộ vào định cư ở Nam
bộ. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 469.) Những chuyến xe hay những
chiếc ghe chở gạo từ Nam ra
Bắc, khi quay trở về, thì chở di dân vào Nam lập nghiệp. (David G. Marr, sđd. tt.
102-103.)
Ngày 30-6-1945,
chính phủ Trần Trọng Kim cho đánh thuế du hý (vui chơi, giải trí) để lấy tiền
tài trợ cho những hoạt động cứu đói ở Bắc bộ. Chính phủ mở chiến dịch báo
chí thông tin về những bất hạnh của đồng bào Bắc bộ để kêu gọi dân chúng tiếp
tay cứu trợ. Những cuộc lạc quyên được tổ chức trên toàn quốc.
Chiến dịch nầy đem đến nhiều thành quả.
Tại Hà Nội, vào
tháng 5-1945, Tổng hội Cứu tế quyên được 782,403 đồng. Với số tiền nầy,
Tổng hội đã mua được từ kho nhà nước 1,476 tấn gạo phát chẩn cứu đói. (David G.
Marr, sđd. tt. 102-103.) Uỷ ban Cứu tế Trung ương giúp đỡ Bắc bộ tại Huế và Uỷ
ban tương trợ giúp đỡ những nạn nhân Bắc bộ tại Sài Gòn, được thành lập.
Số tiền quyên góp được dùng mua gạo chở ra giúp đỡ đồng bào đất Bắc. (Nguyễn
Thế Anh, bđd. tr. 469.)
Tại Nam Bộ, chỉ nội
trong tháng 5-1945, hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong vòng một tháng đã quyên
được 1,677,886 đồng, kể cả 481,570 đồng mua và chuyên chở 1,592 tấn gạo ra Bắc
giúp cứu đói. (Báo L'Action [Hành Động] các số 24-5 và
22-6-1945, Vũ Ngự Chiêu trích dẫn, sđd. tr. 96.)
Lực lượng tham gia
các phong trào cứu đói chủ chốt là thanh niên, sinh viên, học sinh và các đoàn
thể đã được thành lập trong thời toàn quyền Decoux, như Hướng đạo, Gia đình
Phật tử... vì đã có kinh nghiệm đoàn ngũ hóa. Đây là lần đầu tiên giới
trẻ Việt Nam
thực sự bắt tay vào hoạt động xã hội. Những nhân vật nổi tiếng của phong
trào nầy là Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu (Hướng đạo), Lê Đình Thám (Gia đình
Phật tử) ...
Những biện pháp của
chính phủ cùng sự tiếp tay của đồng bào toàn quốc, đã làm cho tình hình Bắc Bộ
nhanh chóng trở lại bình thường. Vẫn còn một vài nơi người nghèo sắp hàng
trước các điểm phân phối thực phẩm miễn phí, nhưng nói chung tình hình khá ổn
định vào tháng 6-1945. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 470.)
Nạn đói tưởng đã
qua đi. Mặc dầu "Uỷ ban Bảo vệ và Giám sát đê điều" được thành
lập để lo việc giữ đê, ngăn ngừa nước dâng lên gây lụt lội, nhưng bất ngờ những
cơn mưa như thác đổ vào tháng 8-1945 đã tràn ngập tất cả các cánh đồng các tỉnh
Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Hải Dương. Nạn mất mùa
trở lại. Vài nơi thiếu gạo, dân chúng đã phải ăn cả lúa giống để dành làm vụ
mùa sau. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 470.)
VIỆT MINH PHÁ RỐI
Khi nạn đói xảy ra
năm 1945, đảng Cộng Sản Đông Dương và Việt Minh lên án Pháp và Nhật là tác nhân
gây ra nạn đói, và chống việc trưng mua lúa gạo.
Ngày 17-4-1945,
chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập và lo chuyện cứu đói, thì Việt Minh lợi
dụng nạn đói để tuyên truyền và phát triển. Việt Minh đả kích chính phủ Trần
Trọng Kim, khích động dân chúng lăng nhục những viên chức chính quyền lo việc
cứu tế. Khi biết được Đức rồi Nhật sắp đầu hàng Đồng minh, một mặt Việt Minh
xúi giục dân chúng đánh phá các kho lúa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tr.
96.) Một mặt khác, Việt Minh đứng ra tổ chức cướp các kho gạo. (Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions Du Seuil,
1952, tr. 131.)
Việt Minh còn âm
thầm chận bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở gạo từ miền Nam ra, rồi Việt
Minh đem tiếp tế cho những mật khu của họ. (David G. Marr, sđd. tt.
102-103.)
Việt Minh hợp tác
và cung cấp tin tức cho phe Đồng minh, chính là cho Hoa Kỳ, dùng máy bay bắn
phá các trục giao thông, khiến việc tiếp tế thực phẩm rất khó khăn. Ngày
23-7-1945, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, bộ trưởng bộ Y tế, trên đường đi công tác, từ
Thái Bình trở về Hà Nội, đến gần Bần Yên Nhân thì bị máy bay Đồng minh bắn
chết. (Trần Trọng Kim, sđd. tr. 78.) Sự đi lại khó khăn đến nỗi
chính phủ Trần Trọng Kim phải dùng xe đạp để chuyển công văn. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tt.
96-97.)
Từ đó, nạn đói trầm
trọng trở lại. Nạn đói càng trầm trọng thì Việt Minh càng dễ tuyên
truyền, vừa phản đối chính quyền, vừa chiêu dụ dân chúng bằng cách dùng gạo
cướp được để cứu đói những ai chịu theo Việt Minh. Nhạc sĩ Văn Cao
(1923-1995) đã tự nhận rằng ông theo Việt Minh vì bản thân và gia đình quá đói.
(Văn Cao, “Tại sao tôi viết Tiến quân ca”, viết ngày 7-7-1976, đăng lại trong
sách Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, TpHCM: Nxb Trẻ, 1988, tt. 14-17.)
Đây là một trong
những lý do giúp cho thế lực Việt Minh (cộng sản) nhanh chóng phát triển rộng
rãi ở các vùng rừng núi và nông thôn vùng đông bắc Bắc Kỳ trong thời gian nầy.
NHÌN LẠI CHÍNH PHỦ
TRẦN TRỌNG KIM
Trong cuộc họp hội
đồng chính phủ ngày 3-8-1945 tại Huế, Trần Trọng Kim báo cáo công việc ra Bắc
thương thuyết và thu xếp với người Nhật. Lúc đó phó thủ tướng Trần Văn
Chương có ý cho rằng Trần Trọng Kim thương thuyết với người Nhật thành công là
do công ông Chương ra Bắc trước đó. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr.
88.) Không biết có phải vì cuộc tranh công nội bộ hay vì nhận thấy
tình hình thế giới biến chuyển và nhất là tình hình Bắc Kỳ xáo trộn do những
hoạt động của Việt Minh, Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 5-8-1945.
Vua Bảo Đại chấp
thuận, nhưng yêu cầu Trần Trọng Kim duy trì chính phủ lâm thời và ủy cho Trần
Trọng Kim lập nội các mới. Trong tình hình lúc bấy giờ, Trần Trọng Kim
không mời đủ người tham gia chính phủ.
Ngày 20-8-1945, Trần
Trọng Kim từ bỏ ý định tiếp tục cầm quyền và tuyên bố đã hoàn thành hai sứ mệnh
lịch sử là thống nhất lãnh thổ và đặt định nền tảng hành chánh căn bản cho đất
nước. (David G. Marr, sđd. tr. 438.). Chính phủ của ông họp
phiên chót ngày 23-8-1945 rồi tự giải tán. Về phía vua Bảo Đại, hai ngày
sau, 25-8-1945, nhà vua tuyên chiếu thoái vị.
Nói chung, cả vua
Bảo Đại và giáo sư Trần Trọng Kim đều muốn nhân cơ hội Nhật đảo chánh Pháp để
thoát ra khỏi nền bảo hộ của Pháp, tuyên bố độc lập. Tuy chỉ cầm quyền
chưa đầy 6 tháng, chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện được nhiều công trình
đáng kể:
Chính phủ Trần
Trọng Kim hợp nhất hai nền hành chánh Pháp và hành chánh Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, thành nền hành chánh
duy nhất Việt Nam .
Chính phủ cũng đã hợp nhất nhất Bắc Kỳ và Nam Kỳ vào chính phủ trung ương Việt Nam .
Tháng 5-1945, Nhật
giao Bắc Kỳ cho Việt Nam
và được đổi thành Bắc Bộ. Nhật cũng đồng ý giao Nam Kỳ cho Việt Nam vào tháng
8-1945, nhưng chưa kịp thi hành thì VM cướp chính quyền. Nhật cũng trả ba
nhượng địa là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cho chính phủ Trần Trọng Kim ngày
13-7-1945.
Trong hành chánh và
trong giáo dục, thi cử, chính phủ Trần Trọng Kim hoàn toàn dùng chữ quốc ngữ
làm chuyển ngữ chính thức, không còn dùng chữ Nho hay chữ Pháp. Chính phủ
mở trường huấn luyẹân thanh niên, phát triển phong trào thanh niên trên toàn
quốc. Chính phủ cũng đã thành lập ủy ban soạn thảo hiến pháp, ủy ban cải
cách văn hóa, giáo dục, xã hội, nhưng rất tiếc chưa hoạt động được thì chính
phủ sụp đổ.
Chính phủ Trần
Trọng Kim không thành lập quân đội để tự bảo vệ, nên khi quân đội Nhật bại trận
thì chính phủ Trần Trọng Kim sụp đổ. Điểm đặc biệt là chính phủ Trần
Trọng Kim được Nhật hậu thuẫn, nhưng từ khi thành lập cho đến khi giải tán,
chính phủ nầy hoạt động độc lập và không lệ thuộc người Nhật.
Chính phủ Trần
Trọng Kim chỉ hoạt động từ tháng 4-1945 đến tháng 8-1945, nhưng đã đặt nền móng
căn bản cho nền hành chánh tương lai Việt Nam, chương trình giáo dục của Hoàng
Xuân Hãn rất hữu ích cho sự phát triển văn hóa Việt Nam và chính phủ Trần Trọng
Kim đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết nạn đói ở Bắc Việt Nam. (Trích: Bảo
Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non Nước 2014)
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm CHẢY ĐI SÔNG ƠI
của Phó Đức Phương qua tiếng hát Ngọc Tân:
*
TRẦN GIA PHỤNG
Nguyên quán: tỉnh Quảng Nam.
Định cư tại: Toronto, Canada.
Email: trangiaphung@gmail.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.07.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét