(Nguồn ảnh: internet) |
PHẢN BIỆN
BÀI
“BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP”
CỦA PHẠM
ĐỨC NHÌ
*
------------
(Tác giả Châu Thạch) |
Vừa qua nhà thơ
Phạm Đức Nhì có viết một bài “Bình thơ
không bàn thi pháp” trong đó ông kết tội Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi
Đồng là đã bình thơ không bàn thi pháp, theo lời ông là làm cho “thơ hay thơ dở đánh lộn sòng”.
Nhiều thi hữu điện
thoại với tôi, nói rằng anh Nhì muốn huậy để cho mình nổi danh thôi. Họ yêu cầu
tôi cứ nín lặng vì ai đúng ai trật thì đã có công luận phê phán. Việc anh Nhì
huậy cho nổi danh thì tôi không tin lắm vì anh đã có danh nhiều rồi, đem cái
danh ấy mà tranh chấp với tôi, thứ con dế dưới cỏ, thì chỉ tự hạ mình xuống chớ
nổi con khỉ gì.
(Nhà thơ Phạm Đức Nhì) |
Tôi đã đồng ý nín
câm luôn. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại anh Nhì muốn chém tôi mà không chịu chém
thẳng, lại đem một thi sĩ thật hiền hòa ở Tây Ninh ra chém mới thật là oan cho
anh ấy. Thi sĩ Hà Nhữ Uyên, một người tôi
chưa từng quen biết, có thơ hay được thi hữu miền Nam mến mộ, lại bị anh Nhì
đặt vào cái cẩu đầu trảm chỉ vì cái tội là tôi đồng cảm với thơ anh ấy và viết
lời bình cho bài thơ “Thềm Xưa Em Đợi
Người về”. Bởi vậy tôi xin có đôi lời phản biện để không phải bênh tôi
mà biện hộ cho Hà Nhữ Uyên, người đã vì tôi mà lên đoạn đầu đài.
Trước hết nhà thơ
Phạm Đức Nhì nói loanh quanh về các định nghĩa thi pháp là gì của người xưa rồi
cuối cùng anh tự định nghĩa sau đây:
“Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc
làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối
kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi
sĩ đến độc giả.”
Tôi cũng đồng ý
hoàn toàn với anh Nhì định nghĩa nầy nhưng tôi nghĩ theo định nghĩa nầy thì
thằng cha nào bình thơ mà “không bàn thi
pháp” được nhỉ? Người nào đã viết bình thơ mà có thể không bàn về việc tác
giả “Sử dụng vần, nhịp điệu, nối kết các
con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến
độc giả”. Anh Phạm Đức Nhì nói Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng “chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp”.
Vậy cái ý tứ đó có phải là “sử dụng vần,
nhịp điệu, nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp, cảm
xúc” không nhỉ? Chẳng có nhà thơ nào mà không xử dụng những cái ấy để đưa ý
tứ của mình vào. Cho nên một nhà bình thơ “bình
tán ý tứ” của bài, chính là nhận xét cái tài “sử dụng vần, nhịp điêu, con chữ” của họ hay đến đâu hoặc dở đến
đâu. Anh Nhì nói chúng tôi “bình tán ý tứ
không bàn thi pháp” là chính anh đã “đánh
lộn sòng con chữ” chớ không phải chúng tôi. Một bài thơ mà không có ý, tứ
và không biết sử sụng ý tứ đó cho hài hoà, độc đáo thì là bỏ. Khi chúng tôi
khen một bài thơ hay là chúng tôi khen tác giả có tài thi pháp, có ý tứ hay của
thơ và có cả ý tứ trong sáng tác để kết cấu bài thơ gây cảm xúc cho người.
Bây giờ xin bước
qua biện hộ cho bài thơ của Hà Nhữ Uyên.
Bài thơ như sau:
THỀM XƯA EM ĐỢI
NGƯỜI VỀ
Em đợi người bên
Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt
nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha
từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc
mười ngón tay đan.
Em khắc khoải đợi
một dòng tin nhắn
thèm giật mình khi
nghe tiếng chuông reo
chiếc điện thoại
cũng tảng lờ im ắng
ném niềm vui như
chiếc lá bay vèo.
Mắt ngân ngấn
“Người ơi” - em khẽ gọi
đợi tiếng người
trầm ấm phía bên kia
mà: “… rất tiếc, số
này không kết nối”
ngỡ trời tình ai
thổi tắt trăng khuya.
Buồn vây ráp đêm
dài thêm sợi tóc
tựa vào đâu ấm áp
một bờ vai?
em cố dặn: thôi
đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có
thể chẳng nguôi khuây.
Người gieo lại nửa
hồn nghe ngơ ngẩn
nửa trên tay em
bồng nắng về rừng
như thạch thảo bên
tường mưa ướt cánh
nghe con chim góa
bụa hót rưng rưng.
Em khờ khạo xới lên
miền cổ tích
như mối đùn trăm
nỗi nhớ về nhau
khi yêu dấu môi hôn
chưa nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững
tự khi nào?
HÀ NHỮ UYÊN
- Phạm
Đức Nhì chê:
1/ Nhịp điệu: Mỗi
câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói
buộc mình trong quy luật của thơ mới nên tâm thế, phong thái không được tự do.
- Châu Thạch biện hộ:
Xin hãy đọc đoạn
thơ trong bài Ave Mari của Hàn
Mạc Tử:
Như song lộc triều
nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần
nhạc sánh hơn trăng
Thơm tho bay cho
đến cõi Thiên Đường
Huyền diệu bến
thành muôn linh trọng thể
Toàn bộ bài của Hàn
Mạc Tử đều mỗi đoạn 4 câu và mỗi câu 8 chữ. Bài thơ nầy đã trở thành bất hủ.
- Phạm
Đức Nhì chê:
2/ Vần: Vần gieo cả
1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp
gieo chính vận nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng
“ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại còn chơi cả yêu vận (vần lưng)
- Châu Thạch biện
hộ:
Mời đọc bài thơ “Trên Đường Về” trong tập thơ Điêu
Tàn của Chế lan Viên có 7 đoạn và 14 cặp vần gieo 1/3 lẫn 2/4 không bỏ sót
cặp nào.
Xin đơn cử một đoạn
thôi:
Đây những tháp gầy
mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ
nát giữa thời gian
Những sông vắng lê
mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở
lói rỉ rên than
Bài thơ nầy cũng
cũng đã trở nên biểu tượng của thơ.
- Phạm
Đức Nhì chê:
3/ Dòng chảy của tứ
thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước
sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy.
- Châu
Thạch biện hộ:
Đọc bài thơ Tràng Giang của Huy Cận:
Sóng gợn tràng
giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái
nước song song.
Thuyền về nước lại,
sầu trăm ngả;
Củi một cành khô
lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió
đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa
vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời
lên sâu chót vót;
Sông dài, trời
rộng, bến cô liêu.
Bèo giạt về đâu,
hàng nối hàng;
Mênh mông không một
chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút
niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh
tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn
núi bạc,
Chim nghiêng cánh
nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn
vời con nước,
Không khói hoàng
hôn cũng nhớ nhà.
Đọc bài thơ Tràng
Giang của Huy cận ta thấy có 4 đoạn, mỗi đoạn diễn tả không những một ý riêng
biệt mà còn một cảnh riêng biệt. nhưng tất cả cũng chỉ mục đích là miêu tả
Trường Giang. Từ khổ thơ trước qua khổ thơ sau cũng không hề bắt vận. Ở đây bài
thơ “Thềm xưa em đợi người về”
mỗi đoạn tỏ bày một tâm tư của em, và tất cả cũng để nói lên nỗi lòng của người
ngồi bên “Thềm xưa em đợi anh về”.
Thiết tưởng liên kết của các ý thơ còn sít sao và trôi chảy hơn Tràng Giang nữa.
- Phạm
Đức Nhì chê:
4/ Cảm xúc: Cảm xúc
tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự tiếp nối
“sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở
tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở
tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng này Thềm xưa em đợi người về chắc chắn không thể có hồn thơ.
- Châu Thạch
biện hộ:
Khổ 1: Em đợi chàng
với sự nóng lòng hiện lên trên cử chỉ
Khổ 2: Em khắc
khoải mong chờ và giật mình mỗi khi tưởng có tin anh
Khổ3: Măt ngấn lệ,
em gọi tên anh những đến trăng khuya cũng tắt.
Khổ 4: Em cố nhủ
lòng thôi đừng phiền đừng khóc nhưng muộn phiền vẫn chẳng nguôi khuây.
Khổ 5: Anh gieo vào
lòng em nỗi sầu như hoa Thạch Thảo bên tường mưa ướt, như con chim hóa bụa hót
rưng rưng.
Khổ 6: Em khờ khạo
nên để mối đùn trăm nối nhớ. Ngược lại anh thì cam tâm hờ hững tự bao giờ.
Bài thơ có một nối
kết rõ ràng từ khổ 1 cho đến khổ 6. Cảm xúc “sóng sau dồn sóng trước’ và mỗi lúc một cao độ hơn. Cuối cùng tác
giả dùng hình ảnh tổ mối đùn lên để nói về nỗi nhớ thật là sống động đến độ
tuyệt vời.
Tóm lại theo tôi,
đây là một bài thơ hay. Mà dẫu tôi có bình sai, anh Phạm Đức nhì thấy không hay
thì cũng chẳng nên đem búa ra để đập bài thơ của một tác giả ra như thế, mà lại
phê phán quá bất công với nhà thơ ấy. Tôi thấy anh Nhì còn lấy những tiêu chuẩn
thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức Tùng không
phải là thơ nữa.
Tôi nhớ trước đây
trong “Câu Chuyện Văn Chương”
nhà thơ Lê Mai Lĩnh có nói như sau về việc Phạm Đức Nhì
đã bình “Tống Biệt Hành” của
Thâm Tâm:
“Thế nhưng vừa qua, người anh em tôi, nhà thơ Phạm Đức Nhì đã
chọn một cách rất “không bình thường” để phân tích, mổ xẻ TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG
BIỆT HÀNH:
Ông đã đem BÚA TẠ,
KỀM KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE , THUỐC NỔ QUEEN, BAO TAY
PRINCESS,,,,
Ông TRỤC, KÉO, LÔI
PHO TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG NGƯỜI YÊU của THÂM
TÂM TỐNG BIỆT HÀNH”
Sau đó nhà thơ Lê
Mai Lĩnh nói thêm như sau:
“Thưa
anh nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ:
1/Anh nói: TÔI DÀNH
SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ.
Vậy tôi đề nghị anh
NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN
LÂM, NGƯỜI LỚN.
2/ Mặc dù anh đã
HÀN GẮN NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, những sự MẤT MÁT VẪN
CÒN, NIỀM ĐAU CŨNG CÒN.
Vậy anh nên viết bài tạ lỗi với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.”
Vậy anh nên viết bài tạ lỗi với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.”
Hôm nay Châu Thạch
tôi cũng xin dùng câu đó để nói lại với anh Phạm Đức Nhì nhưng không phải biểu
anh xin lỗi tôi hay xin lỗi anh Nguyễn Bàng, anh Bùi Đồng mà chỉ khuyên anh nên
xin lỗi nhà thơ Hà Nhữ Uyên vậy./.
Mời thư giãn với nhạc phẩm CÁT BỤI
của Trịnh Công Sơn, qua tiếng hát Khánh Ly:
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 01.04.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Phạm Đức Nhì coi thi pháp là phương pháp thể hiện một bài thơ!
Trả lờiXóaĐó là sai lầm của Phạm Đức Nhì!
Thi pháp bao gồm tất cả (về nội dung cũng như về phương pháp) cho một bài thơ (như quan điểm của Châu Thạch trong bài phản biện), trong khi phương pháp nghệ thuật của một bài thơ chỉ là cách thể hiện thuần tuý về hình thức của một bài thơ như hình tượng, ngôn từ, vần điệu!