(Nguồn ảnh: internet) |
NÓI CHUYỆN CHỮ NGHĨA MÀ CHƠI:
“HUYNH ĐỆ CHI BINH”
hay “BINH
CHI HUYNH ĐỆ”?
(Tác giả Thái Quốc Mưu) |
Đôi dòng trước khi vào
bài:
- Trong lãnh vực văn học,
chúng ta đừng vì học vị của những ông khoa bảng mà “BỎ QUÊN” không phê bình
những sai lầm trong các bài viết hay tác phẩm của họ.
- Khi phê bình văn học,
chúng ta phải ra sức tìm tòi, tham khảo, tra cứu, lấy sự trung thực, lòng ngay
thẳng và lương thiện để nhận định rồi chỉ rõ những chỗ sai lầm. Không nể nang,
thiên vị bất cứ kẻ nào! Nếu không làm được những điều đó, chẳng những chúng ta
có tội với tiền nhân mà còn có lỗi với tác giả, độc giả và những thế hệ mai sau.
* *
*
Do người bạn giới thiệu,
tôi vào trang Caroline Thanh Hương, đọc được bài viết của Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu:
“NGÀN NĂM SOI MẶT: Cái Chết Của Một Hàng Tướng: DƯƠNG VĂN MINH:
(1916-2001)” -
NGUYÊN VŨ VŨ NGỰ CHIÊU
Để quý độc giả tiện theo
dõi, người viết xin giới thiệu Tiểu sử của Nhà Nghiên Cứu Sử, Tiến sĩ Vũ Ngự
Chiêu (trích: Chuyên Luận. net)
“Chính Đạo là một trong hai bút danh của Vũ
Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975.
Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù, QL/VNCH, và đã
có hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa
đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm
1984, sau khi cùng gia đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc nhà xuất bản
Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.
Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm
1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có Đời Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô
Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường thiên),
Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký),
Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đã in thêm các tập
Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký), Trận Chiến Chưa Tàn
(truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn
Năm Soi Mặt.
Về nghiên cứu sử học, ông đã in ba tác phẩm bằng
tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo.
Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà
Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết
cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo
đúng yêu sách bác học…” (ngưng trích).
Xin trích một đoạn ở LỜI
MỞ ĐẦU trong bài viết của ông Ts. Vũ Ngự Chiêu. Khi có thời gian chúng tôi sẽ
phê bình trọn bài của vị Ts. nầy.
“… Ngay trong hàng ngũ quân đội nhiều người
cũng không muốn “huynh đệ chi binh”(đúng ra có lẽ phải là “BINH CHI HUYNH ĐỆ”)
với Tướng Minh. (ngưng trích).
Đoạn văn trên, khơi gợi
cho tôi cảm hứng viết bài nầy, tôi chọn NÓI CHUYỆN CHỮ NGHĨA MÀ CHƠI làm đề
bài. Với mục đích “MUA VUI”.
Chúng ta, không ai có thể
tự hào biết tất cả hay tốt tất cả và ngược lại. Sự hiểu biết của mỗi người trên
mỗi lãnh vực đều có giới hạn nhất định; cách sống của mỗi người đều có hai mặt
tốt, xấu. Không ai có bộ óc hoặc, có cuộc sống toàn bích. Những vị Tiến sĩ, Học
giả, ngay cả các tu sĩ cũng không ngoại lệ. Vì thế, không ai tránh khỏi sai
lầm.
Trên Tạp Chí Kiến Thức
Phổ Thông Dân Việt của tôi và trên nhiều Website trong, ngoài nước, các tháng
4, 5/2016, có đăng bài viết nầy.
Hầu hết những bài viết
đăng trên những tờ báo ở địa phương chỉ được phổ biến trong phạm vi hạn chế.
Trái lại, một bài viết được chọn đăng ở các Website đều được phổ biến trên toàn
cầu. Nhờ đó, số người đọc nhiều hơn. Trong số bạn đọc ấy có những Học giả, Tiến
sĩ, các Nhà nghiên cứu văn học, giới viết lách và đông đảo độc giả nhiều thuộc
thành phần khác ở bốn phương, tám hướng.
Nếu người phê bình văn
học nghĩ sai, viết sai tất nhiên sẽ bị dư luận cực lực phản đối. Đồng thời kẻ
viết phê bình phải chịu tránh nhiệm trước lịch sử, trước tác giả và quần chúng.
Đó là lẽ tất nhiên!
Đọan văn dẫn trên, Tiến
sĩ Vũ Ngự Chiêu viết: “… HUYNH ĐỆ CHI BINH” (“ĐÚNG RA CÓ LẼ LÀ, “BINH CHI
HUYNH ĐỆ”. Với câu nói đã dẫn của Ts. Vũ Ngự Chiêu cho ta thấy nó vượt ngoài
khả năng Hán văn của ông ta.
Ts. Vũ Ngự Chiêu không
biết khi thành ngữ Nho Việt dịch sang thuần Việt, thường thì phải theo nguyên
tắc, dịch ngược từ sau tới trước. Hoặc, tùy theo ý nghĩa của câu mà áp dụng
cách dịch phi nguyên tắc miễn sao cho đúng nghĩa với câu ngoại ngữ và suôn sẻ
là được.
“HUYNH ĐỆ CHI BINH” có nghĩa, “(trong quân
đội) người lính (coi nhau) như anh em.” Nếu Ts.Vũ Ngự Chiêu CHỈNH lại “BINH CHI
HUYNH ĐỆ”, khi dịch sang thuần Việt sẽ trở thành “Anh em là lính”.
Ngoài ra, hai chữ HUYNH
ĐỆ trong câu thành ngữ “HUYNH ĐỆ CHI BINH” bao gồm: từ người chỉ huy có cấp bậc
cao nhất xuống tận những anh binh nhì, hoặc lính mới “tò te”
Mặt khác, chữ BINH trong
câu thành ngữ đã dẫn, còn ngụ ý là QUÂN ĐỘI. Vì thế câu “HUNH ĐỆ CHI BINH” phải
hiểu là, “(trong) Quân Đội mà ở đó binh sĩ cùng các cấp chỉ huy đều coi nhau
như anh em – Hàm ý, “(Trong) Quân Đội từ trên xuống dưới đều cùng một lòng
(đồng tâm) để tạo nên sức mạnh”.
Trong bài “Bình Ngô
Đại Cáo” của Nguyễn Trãi có câu “Phụ tử chi binh nhất tâm”, tức
“Quân đội và tướng chỉ huy cùng quân sĩ như cha con một lòng”.
Chữ “CHI” trong “HUYNH ĐỆ
CHI BINH” trong Văn pháp (Văn phạm) là một trợ từ, nên nghĩa của chữ CHI tùy
thuộc vào câu nói và đôi khi, không có nghĩa gì cả. CHI chỉ là tiếng phụ vào
câu để khi nói ra cho thuận miệng, êm tai.
Bởi là một trợ từ, nên
trong một câu CÓ hoặc KHÔNG CÓ chữ (hay tiếng) CHI cũng đầy đủ nghĩa.
Thí dụ 1:
- “Ngô CHI phụ mẫu”,
nghĩa “Cha mẹ CỦA tôi” (chữ CHI ở đây được dịch là CỦA). Khi ta bỏ trợ từ CHI
ra, ta nói, “Cha mẹ tôi” cũng đủ nghĩa.
- “Đại học CHI đạo”
nghĩa: “(cái) đạo CỦA đại học” (chữ CHI trong câu nầy cũng dịch là CỦA). Khi bỏ
chữ CỦA (dịch từ chữ CHI) ta chỉ nói, “(cái) Đạo đại học” cũng đúng.
Thí dụ 2:
- “Huynh đệ CHI binh”,
nghĩa: “(cùng là) người lính (với nhau, hãy coi) NHƯ anh em (chữ CHI ở đây được
“coi là” NHƯ).
- Nếu nói như cách nghĩ
của ông Ts. Vũ Ngự Chiêu là: “Binh CHI huynh đệ” thì nghĩa, “Anh em LÀ lính”
(chữ CHI ở đây lại dịch LÀ). Nghĩa của nó hoàn toàn khác xa nghĩa của câu thành
ngữ chính (Huynh đệ chi binh).
Thí dụ 3:
- Trong Bình Ngô Đại Cáo
có “Điếu phạt CHI sư (nghĩa: quân đi đánh giặc) / Nhân nghĩa chi cử (nghĩa: cử
chỉ nhân nghĩa / Hai câu nầy được Nguyễn Trãi rút ngắn ở hai câu có nguyên văn
như sau:
- Điếu phạt CHI sư, mạc
tiên khử bạo. (nghĩa: “Quân binh đi dẹp loạn trước tiên là diệt bạo.” Chữ SƯ ở
đây nghĩa là binh sĩ, quân đội)
- Nhân nghĩa CHI cử, yếu
tại an dân (nghĩa: “Việc nhân nghĩa cốt yếu là để an dân.” Chữ CỬ ở đây là cử
chỉ, hành động, việc làm)
Chữ CHI ở hai câu trên
đây đều không có nghĩa.
Tóm lại, TRONG CÁC CÂU ĐÃ
DẪN, chúng ta có thể bỏ chữ “CHI” cũng không mất ý nghĩa của câu chính, tuy
nhiên bỏ đi thì đọc ra nghe trúc trắc, hụt hẫng!
Ngoài ra, trợ từ CHI còn
thấy trong tên người, chẳng hạn:
- “Giới CHI Thôi” tức là
tên của ông Giới Thôi (chữ CHI ở đây chẳng có nghĩa gì cả). Ông Giới Thôi là
một bề tôi của Tấn Văn Công thời Xuân Thu (770 – 403 tr. Cn).
“Giới CHI Thôi” trong thư tịch cổ Trung Hoa
viết là Giới TỬ Thôi; chữ “Tử” ở đây cũng là một trợ từ, không có nghĩa.
Tôi nghĩ, về Hán văn,
tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu có thể không biết hoặc, chỉ biết lõm bõm, nên không hiểu
nghĩa tường tận, đầy đủ, rõ ràng.
Mời thư giãn với clip: ÔNG ĐỒ
thơ Vũ Đình Liên, qua diễn ngâm của Nghệ sĩ Quốc Anh:
*
THÁI QUỐC MƯU
Địa chỉ:
6395 GlenBrook Dr.
Tucker, GA 30084, USA - Hoa Kỳ.
Email: thaiquocmuu1@aol.com
Điện thoại: 404-747-5025
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản
tác giả gửi qua email ngày 10.12.2018.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
.
0 comments:
Đăng nhận xét