VÀNG LỬA
Rầu lòng vậy… Cầm lòng vậy…
(Dân ca)
Ông Quách Ngọc Minh, ngụ ở Tu Lý, huyện Đà Bắc
viết thư cho tôi: Tôi đã đọc truyện ngắn Kiếm sắc của
ông kể về tổ phụ tôi là Đặng Phú Lân. Riêng chi tiết gặp Nguyễn Du không thích.
Nhân vật “Người trẻ tuổi trong quán trong trẻo lạ lùng, tâm hồn sạch như nước ở
núi ra” không ra gì. Bài hát Tài mệnh tương đố có ý gán cho Nguyễn Du
là khéo mà không khéo vậy. Ông gắng thu xếp lên chơi, tôi sẽ cho ông xem vài tư
liệu, biết đâu giúp ông có cách nhìn khác. Con gái tôi là Quách Thị Trình sẽ
mời ông món canh cá nấu khế ông thích…
Nhận được thư tôi đã lên thăm gia đình ông
Quách Ngọc Minh. Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo.
Về Hà Nội, tôi viết truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi
tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lý lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện.
*
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh chiếm Thăng Long, lên
ngôi vua, đặt tên hiệu là Gia Long. Bên cạnh nhà vua có vài người châu Âu giúp
việc. Trong số ấy có một người Pháp tên là Phrăngxoa Pơriê do chính giám mục Pi
nhô đờ Bê hen (Bá Đa Lộc) tiến cử. Nhà vua thường gọi y là Phăng.
Phăng từ nhỏ đã thích phiêu lưu. Y từng tham
gia cách mạng 1789, bạn với Xanh Giuýt. Năm 1794, cách mạng thất bại, Phăng
trốn ra nước ngoài. Năm 1797, Phăng theo chân một tàu buôn trôi dạt dến Hội An.
Người ta không rõ cuộc gặp gỡ của y với Bá Đa Lộc, chỉ biết Bá Đa Lộc có viết
thư giới thiệu Phăng với vua Gia Long. Trong tập bút ký của mình sau này, Phăng
viết:
Nhà vua là một khôí cô đơn khổng lồ. Ông
đóng trò rất giỏi trong triều đình. Ông đi, đứng, ra, vào, ra các mệnh lệnh,
chấp nhận sự tung hô của bọn quần thần. Ông là người cha nghiêm khắc của lũ con
ích kỷ, đần độn. Là người chồng đáng kính của các bà vợ tầm thường… Ông biết
ông đã già, với bọn cung tần mỹ nữ trẻ đẹp ông bất lực. Ông biết rõ cái triều
đình thiển cận do ông dựng lên, biết rõ quốc gia mình nghèo đói. Ông luôn lo sợ
bởi quyền lực nắm trong tay, nó lớn ngoài sức chứa một con người…
Trong một chuyến đi săn ở phía Bắc kinh
thành Huế, Phăng đi theo vua Gia Long. Phăng kể: Nhà vua cưỡi ngựa, lưng rất
thẳng. Ở giữa thiên nhiên, trông ông rạng rỡ mất đi vẻ đăm chiêu cau có hàng ngày.
Ông vui vẻ vào cuộc săn hào hứng. Buổi tối, nói với tôi, ông bảo: Khanh biết
không, cái lũ chó chết ấy, chúng nó chuẩn bị cả rồi, chỗ nào trẫm đi qua thì
chúng thả thú ra. Tôi ngạc nhiên hỏi vì sao nhà vua (vốn xuất thân là một võ
tướng) lại chịu được sự nhục mạ ấy. Ông cười: Khanh chẳng hiểu gì. Vinh quang
nào chẳng xây trên điếm nhục. Tôi ngồi nghe nhà vua, nhận thấy ông trải đời ghê
gớm. Ông hiểu bản chất đời sống cộng sinh. Số phận ngẫu nhiên giao cho ông đứng
trên đỉnh cao nhất, ông không dám phá vỡ bất cứ quan hệ nào làm hại đời sống
cộng sinh đó, bởi phá vỡ nó, nghĩa là ngai vàng không còn đứng vững. Tôi có hỏi
nhà vua về các nhà lư tưởng phương Đông. Tôi nhận thấy ông không quan tâm đến
họ. Ông bảo: Tất cả do cay cú đời sống. Họ là quá khứ. Thời khắc đang sống, là
đáng kể. Nhà vua chăm chú ăn món gân hổ hơn là tiếp chuyện tôi…
Phăng được vua Gia Long cho phép đi lại
nhiều nơi, Phăng từng gặp Nguyễn Du, bấy giờ đang giữ chức tri huyện. Phăng kể:
Trước mặt tôi là một người bé nhỏ, mặt
nhàu nát vì đau khổ. Ông nổi tiếng là một nhà thơ có tài. Tôi thấy ông hoàn
toàn không hiểu gì về chính trị. Trước sau, ông là một viên quan tận tụy. Ông
hơn những người khác ở nhân cách nhưng nhân cách ấy có giá trị gì khi cuộc đời
thực của ông xúi xó, túng kiết. Ông hoàn toàn thiếu tiện nghi. Ông không phù
phiếm nhưng sự hào hoa cũng không có nốt. Đời sống tinh thần bóp nghẹt ông. Ông
nói chuyện giản dị và hóm hỉnh. Trực giác tuyệt vời. Cũng như vua Gia Long, ông
là một khối nguyên liệu to lớn nhưng nhẹ đồng cân hơn, hợp chất tạo thành ít
hơn, độ bám của bụi bặm cũng ít hơn. Cả hai đều là những khối nguyên liệu vô
giá, những vật quốc bảo.
Phăng được Nguyễn Du dẫn đi thăm một vài
nơi trong địa hạt của mình. Phăng viết:
Ông ta (tức Nguyễn Du) có sự thông cảm sâu
sắc với nhân dân. Ông yêu nhân dân mình. Ông đại diện cho nhân dân ở phần u uất
nhất, trữ tình nhất nhưng cũng đáng thương nhất. Vua Gia Long không đại diện
cho ai, ông chỉ chịu trách nhiệm với mình. Đấy là điều vĩ đại nhưng cũng đê
tiện khủng khiếp. Nhà vua có cách nhìn thực tiễn với chính từng khắc tồn tại
của bản thân mình. Nhà vua biết xót thân. Nguyễn Du thì khác, Nguyễn Du không
biết xót thân. Nguyễn Du thông cảm với những đau khổ của các số phận đơn lẻ mà
không hiểu nổi nỗi đau khổ lớn của dân tộc. Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là
nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp.
Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều
ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn
Du thì khác, ông không hiểu điều ấy. Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh
kia, dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ
mình. Nguyễn Du ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng
cao hẳn ngoài đời sống ấy. Người mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đuơng
thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế.
Phải ba trăm năm sau người ta mới thấy điều này vô nghĩa. Nguyễn Du sống dân
dã, ông hồn nhiên chịu đựng sự nghèo tùng cùng nhân dân. Ông không đứng cao hơn
họ, không hưởng thụ cao hơn họ, và như thế, ông hoàn toàn không biết làm chính
trị. Tất cả đời sống vật chất của ông do những hoạt động cù lần mang lại, năng
suất thấp, chỉ thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu. Lòng tốt của ông là thứ lòng
tốt nhỏ, không cứu được ai. Vua Gia Long thì khác. Ông khủng khiếp ở khả năng
dám bỡn cợt với Tạo hóa, dám mang cả dân tộc mình ra lường gạt phục vụ cho
chính bản thân mình. Ông làm cho lịch sử sinh động hẳn lên. Đấy là lòng tốt lớn
của nhà chính trị. Lòng tốt lớn của nhà chính trị không chỉ là làm việc thiện
với một số phận đơn lẻ mà còn là sức đẩy của ông ta với khối cộng đồng. Từng
phần tử trong cộng đồng do luật tự nhiên chi phối sẽ tự tồn tại, định hướng và
phát triển. Không có một sức đẩy mạnh, cả cộng đồng sẽ mọc rêu, mủn nát. Cộng
đồng Việt là một cộng đồng mặc cảm. Nó nhỏ bé xiết bao bên cạnh nền văn minh
Trung Hoa, một nền văn minh vừa vĩ đại, vừa bỉ ổi lại vừa tàn nhẫn…
Phăng có kể lại cho vua Gia Long ấn tượng
khi gặp Nguyễn Du. Phăng viết:
Nhà vua nghe tôi một cách lơ đãng. Tôi có
cảm giác ông bị nặng tai nhưng không phải. Ông không coi Nguyễn Du ra gì, hoặc
có thể ông coi Nguyễn Du là con ngựa giống tốt trong cả đàn ngựa, lợn, bò, gà
mà ông chăn dắt. Ông bảo: Trẫm có biết người ấy. Cha nó là Nguyễn Nghiễm. Anh
nó là Nguyễn Khản. Tôi thấy nhà vua hiểu sự bất lực của ông đối với đời sống
nghèo khó và những trì trệ của dân tộc ông. Ông không tin học vấn có thể cải
tạo giống nòi. Điều ấy có lý. Trước hết là vật chất. Những hoạt động kinh tế cù
lần chỉ đủ sức cho một dân tộc sống khắc khoải. Vấn đề ở chỗ phải đứng lên vươn
mình thành một cường quốc. Làm điều đó, phải có gan chịu đụng sự va xiết trong
quan hệ với cộng đồng nhân loại. Thói hủ nho và thủ dâm chính trị sẽ không bao
giờ tạo được những quan hệ trong sáng, lành mạnh. Sẽ đến lúc nền chính trị thế
giới giống như món nộm suồng sã, khái niệm thanh khiết ở đấy vô nghĩa.
Năm 1814, người ta phát hiện ra một nơi có
vàng, Phăng xin vua Gia Long cho một số người châu âu cùng mình đi tìm kiếm.
Vua Gia Long đồng ý. Phăng không để lại tư liệu nào kể về chuyến đi tìm vàng
này. Tuy nhiên có một người Bồ Đào Nha tham gia đoàn tìm vàng đã viết hồi ký.
Người Bồ Đào Nha này kể lại: Đoàn chúng tôi có mười một người gồm bốn người Bồ
Đào Nha, một người Hà Lan, năm người Pháp và một người Việt dẫn đường. Chỉ huy
chúng tôi là Phơrăngxoa Pơriê. Y là một người tàn bạo được vua Gia Long tin
cậy… Chúng tôi đi ngựa, mang theo vũ khí và những dụng cụ đãi vàng như dân tìm
vàng hồi thế kỷ trước ở Bắc Mỹ. Ngay Phơrăngxoa Pơriê cũng không lường trước sự
việc diễn ra. Điều ấy khiến cho chúng tôi sau này phải trả giá đắt. Đa số chúng
tôi tham gia chuyến đi vì sự hiếu kỳ. Chúng tôi chuẩn bị lương thực đủ trong
một tháng. Chúng tôi luồn rừng và đến nơi sau một tuần đi đường. Nơi đây là
thượng nguồn một con sông lớn nằm kẹp trong thung lũng hoang vắng. Không hề
thấy một bóng người qua lại. Quạ bay hàng đàn. Trong bản đồ, Phrăngxoa Pơriê
gọi đây là thung lũng Quạ. Chúng tôi cắm lều ngay trên bờ sông. Ngay ngày đầu
tiên, người Hà Lan trong đoàn đã lên cơn sốt. Ông ta lên những cơn co giật
khủng khiếp, người nóng như than, mặt xám lại Chúng tôi đề nghị để lại một
người chăm sóc ông ta nhưng Phơrăngxoa Pơriê không nghe. Y dồn tất cả chúng tôi
vào núi đào vàng và lọc quặng. Buổi tôí, khi chúng tôi trở về thì người Hà Lan
đã chết. Phơrăngxoa Pơriê sai ném xác người Hà Lan xuống sông. Quạ lập tức bu
đen trên thây người chết…
Mỏ vàng gần như lộ thiên. Sụ hào hứng
khiến chúng tôi quên mệt nhọc. Đến ngày thứ ba, chúng tôi bị thổ dân tấn công.
Chúng tôi co cụm lại. Những người thổ dân cầm dao, gậy đứng từ xa chửi rủa và
dùng đá ném chúng tôi. Họ có ý muốn đuổi chúng tôi chứ không có ý gì khác.
Người Việt dẫn đường đi theo chúng tôi đã biến mất ngay từ khi những người thổ
dân xuát hiện. Phơrăngxoa Pơriê nói tiếng Việt rất tồi. Y giơ cao tấm thẻ tín
bài của vua Gia Long nhưng vô hiệu. Đáng lẽ chúng tôi phải rút ngay nhưng
Phơrăngxoa Pơriê không kìm chế được. Y nổ súng. Một người thổ dân trúng đạn. Số
còn lại chạy tán loạn. Chúng tôi đòi Phơrăngxoa Pơriê quay về nhưng y không
nghe, y bắt chúng tôi tiếp tục làm việc. Vàng đã làm cho y lóa mắt và mụ mị đi.
Buổi chiều khi chúng tôi quay về lều thì thấy đầu lâu của người Việt dẫn đường
cắm trên cọc nhọn ngay bên cạnh đấy. Trời nóng như thiêu, chúng tôi thấy rất
nhiều quạ bay từ rừng trên, vừa bay vừa kêu những tiếng man rợ. Khoảng nửa đêm,
lửa bốc cháy dữ dội xung quanh lều. Những mũi tên lẩm thuốc độc ở đâu bắn đến
như mưa. Năm người trong đoàn chúng tôi chết ngay. Phơrăngxoa Pơriê mang theo
số vàng đãi được mở con đường máu thoát ra. Lửa nóng quá. Trước mặt, sau lưng,
trên trời, dưới đất, đâu đâu cũng thấy lửa cháy rùng rực…
Hồi ký của người Bồ Đào Nha vô danh không
viết gì thêm. Tôi, người viết chuyện này đã cất công đi tìm các thư tịch cổ và
hỏí han nhiều bậc bô lão. Không có tài liệu gì và cũng không ai biết gì về
thung lũng Quạ hoặc chuyện của những người châu âu thời vua Gia Long. Mọi cố
gắng của tôi trong nhiều năm nay vô hiệu. Tõi hiến bạn đọc ba đoạn kết cho câu
chuyện này để bạn đoc tùy ý lựa chọn.
Đoạn kết I
Đoàn tìm vàng còn sót lại ba người. Phăng
bảo toàn nguyên vẹn số vàng đào được mang về. Vua Gia Long vui mừng vì đã tìm
được mỏ vàng. Nhà vua cho khoanh vùng thung lũng Quạ và cho tiến hành khai thác
mỏ. Phăng được cử trông coi việc này. Hai người châu âu sót lại trong đoàn tìm
vàng cũng được mời tham gia nhưng họ từ chối. Phăng trông coi việc khai thác mỏ
vàng trong hai năm. Vua Gia Long rất tin cẩn y và thường ban cho y những bổng
lộc hậu hĩnh. Một hôm, người ta đưa đến cho y món ăn quý do nhà vua ban: món
chim hầm bát bảo nấu rất công phu. Phăng an xong thì thấy bụng đau cồn cào dữ
dội, mắt trợn ngược, máu ộc ra đầy mồm miệng. Y chết ngay trên bàn ăn. Trong
một quyển sổ ghi chép còn sót lại của y, người ta đọc thấy những dòng chữ sau:
Tất cả những cố gắng của con người hướng
về điều thiện đều là nhũng cô gắng đau đớn, nhọc lòng. Điều thiện hiếm như vàng
và sau đó phải được vàng bảo đảm nữa mới có giá trị thực.
Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo khó và đau
khổ trong những lý thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những môí bất hòa kỳ thị dân
tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết
bao. Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?
Đoạn kết II
Thoát khỏi biển lửa, đoàn tìm vàng sót lại
một mình Phăng. Y mang số vàng tìm đến được dinh quan sở tại. Phăng đưa tấm thẻ
tín bài có dấu triện của vua Gia Long xin được che chở. Quan huyện là một vị
túc nho già, biết nghề thuốc. Phăng đã dưỡng bệnh ngay tại huyện lỵ hẻo lánh
này. Con gái quan huyện là Vũ Thị còn trẻ nhưng góa chồng mang lòng yêu mến y.
Sau khi Phăng vể kinh đô, y được vua Gia Long ban thưởng hậu hĩnh. Nhà vua đã
cho tiến hành khai thác mỏ vàng.
Lúc này ở châu âu, nền Đế chế của
Napôlêông Bonapac đã sụp đổ. Châu âu chín chắn hơn. Họ đã bắt đầu hiểu vẻ đẹp
và vinh quang một dân tộc không phải do cách mạng hoặc chiến tranh mang lại,
cũng không phải do các nhà tư tưởng hoặc các Hoàng đế mang lại, bởi vậy họ sống
đỡ căng thẳng hơn, giản dị hơn, hợp tự nhiên hơn. Phăng xin vua Gia Long mang
theo Vũ Thị và một số vàng lớn hồi hương. Về Pháp, ông lập một ngân hàng và
sống sung sướng đến già. Ông thường kể lại cho con cháu nghe về những kỷ niệm
quá khứ, về những biến cố ở xứ An Nam xa xôi. Theo ông, thời kỳ ông ở An Nam
mới là sự bắt đầu lịch sử của quốc gia người Việt, khi này biên giới phân định,
chữ viết có gốc từ chữ La tinh phổ biến, người Việt dần thoát ra sự cầm tù đáng
sợ của nền văn minh Trung Hoa, có những mối giao lưu chung với cộng đồng nhân
loại.
Đoạn kết III
Tất cả đoàn tìm vàng bị giết chết. Lính
triều đình bao vây và tấn công họ chứ chẳng có thổ dân nào cả như trong hồi ký
của người Bồ Đào Nha vô danh lầm tưởng. Người ta tìm được vàng giấu trong đồ
đạc của những người châu âu, nó lẫn trong quần áo và ở cả trong những sổ sách
ghi chép. Vua Gia Long cho xung công và sau đó cử một người trong hoàng tộc
đứng ra lo việc khai thác mỏ vàng. Cuối đời, vua Gia long sống trong cung cấm,
tìm cách tránh mọi tiếp xúc với bên ngoài. Nhà vua rất ghét những ai nhắc lại
mối quan hệ với người này, người nọ khi nhà vua còn hàn vi, dù đấy là người
Việt, người Trung Hoa hay người châu âu nào khác. Triều Nguyễn của vua Gia Long
lập ra là một triều đại tệ hại. Chỉ xin lưu ý bạn đọc đây là triều đại để lại
nhiều lăng.
*
NGUYỄN
HUY THIỆP
Địa chỉ: 71 ngõ 77, phố Bùi Xương Trạch,
quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
0 comments:
Đăng nhận xét