ĐỌC ‘ĐÊM
TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA’
THƠ TRẦN
THOẠI NGUYÊN
*
ĐÊM TRĂNG LEO LÊN
MÁI CHÙA
Ngồi trong
vườn nguyệt lộ
Hôn một màu trăng non
Nghe lòng mình cười rộ
Chạy băng đồi vô ngôn
Hôn một màu trăng non
Nghe lòng mình cười rộ
Chạy băng đồi vô ngôn
Ồ.Hồn tràn mộng
trắng
Tôi ôm trăng không màu
Tôi ngút xuống biển dạng
Tôi dại khờ mắt nâu
Tôi ôm trăng không màu
Tôi ngút xuống biển dạng
Tôi dại khờ mắt nâu
Ngắt một bông trắng
lau
Hương thắm giọt máu đào
Đêm bừng lên nguyệt thẹn
Tôi nằm dài xanh xao
Hương thắm giọt máu đào
Đêm bừng lên nguyệt thẹn
Tôi nằm dài xanh xao
Chim về ngủ ôm
trăng,
Ngô đồng rơi chánh điện.
Tôi ngồi giữa Phật đàng
Làm thơ như thánh hiện.
Ngô đồng rơi chánh điện.
Tôi ngồi giữa Phật đàng
Làm thơ như thánh hiện.
Máu ràn rụa tây
hiên
Ồ. Máu băng ngực điên!
Tôi tĩnh mịch trang thơ
Hồn bay theo nhang khói
Ồ. Máu băng ngực điên!
Tôi tĩnh mịch trang thơ
Hồn bay theo nhang khói
Chim chết giữa điện
thờ
Tôi rớt xuống điện thờ.
Tôi rớt xuống điện thờ.
*
Chùa BẢO LỘC, Thu 1970
TRẦN THOẠI NGUYÊN
TRẦN THOẠI NGUYÊN
LỜI BÌNH:
(Tác giả Châu Thạch) |
Trước khi đi vào bài thơ, xin vui lòng đọc những
trích đoạn viết về nhà thơ Trần Thoại Nguyên và hoàn cảnh tác giả sáng tác bài
thơ:
“Năm 1970,
khi còn ngồi ở giảng đường đại học Vạn Hạnh, Trần Thoại Nguyên đã có một bài
thơ được chọn đăng trong tạp chí Tư Tưởng của đại học này. Đó là bài “Đêm
trăng leo lên mái chùa”.
Từ đó, Trần Thoại
Nguyên tiếp tục treo mình trên những rung động đỉnh ngọn, như một kiếm tìm sự
hiệp thông giữa thi ca và trời đất, dù không nhiều.
Với những bài thơ
viết sau thời điểm này, dù dù ở hoàn cảnh hay tâm cảnh nào, họ Trần luôn cho
thấy ông không ngừng đạp cánh giữa những hư huyễn thực tại và mộng ảo. Thơ treo
ông trên những va động giữa ngã và vô ngã. Giữa kiếm tìm bản thể và sự thất
lạc, tựa như đó là một định-mệnh-đôi của một thi sĩ. Một cõi riêng tây mà, đôi
khi chính ông cũng thấy được dù chiếc bóng của hình tích mình.”
(Thi sĩ Trần Thoại Nguyên Đời
thơ - Phận người - Zulu DC)
“Đêm trăng leo lên mái chùa là định mệnh, là
cột mốc giữa đời sinh viên lang bạt, bằng một sự kiện hi hữu, Trần Thoại Nguyên
trở thành thi sĩ.
Sau khi bị té từ
mái chùa xuống đất, đầu rướm máu, Trần Thoại Nguyên xuất hồn viết bài thơ trên
giấy của bao thuốc Bastos xanh, bài thơ qua tay người ban đến với Thiền sư Tuệ
Sĩ, được chọn đăng trên Tập san TƯ TƯỞNG của Viện Đại Học Vạn Hạnh – Cơ quan
ngôn luận, dẫn đạo về tư tưởng, Triết lý, Giáo dục và Văn hóa rất uy tín của
Phật Giáo Việt Nam.
Hai mươi tuổi,
chàng sinh viên Trần Thoại Nguyên có thơ đăng trên tạp chí TƯ TƯỞNG là một vinh
dự lớn. Chỗ đứng của một bài thơ tự khắc xác định đảng cấp của một tác giả.
Nhưng với người phê bình, không thể vì “Bứt dây động rừng” mà né tránh những
nhận thức của mình với “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Đọc bài thơ, như
tác giả thổ lộ với Lý Thừa Nghiệp thì leo lên mái chùa là “định chơi ngông muốn
thưởng trăng nơi cõi thượng giới” thưởng trăng cõi thượng giới là cách nói từ
vô thức. Thượng giới thuộc về trời cao, vô biên. Khoảng cách độ cao từ mái chùa
đến mặt đất, đối với vô biên chỉ là con số không, nghĩa là thưởng trăng dưới
đất và trên mái chùa như nhau. Do ý nghĩ sai lầm đó, Trần Thoại Nguyên đem vào
trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó
chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của
Đại học Vạn Hạnh. Bài thơ được đăng ở Tư Tưởng số 16, trang 27, năm 1970. Tên
tuổi Trần Thoại Nguyên đứng chung với những tác giả lừng danh như Thích Minh
Châu, Thích Nguyên Tánh, Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Kim Định, Trúc Thiên, Lê Tôn
Nghiêm, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư ….. tự khắc, chỗ đứng của
bài thơ mặc nhiên khẳng định Trần Thoại Nguyên là một Thi Sĩ. Chàng Thi Sĩ hai
mươi tuổi từ đó sa đà vào dòng thơ mang tính cách bác học, ý niệm Thiền và hơi
hướng Phật giáo chi phối lổn ngổn trong nhiều bài thơ của Trần Thoại Nguyên, nó
hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn
liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn
thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Ngồi trong vườn
nguyệt lộ
Hôn một màu trăng
non.
Nghe lòng mình cười
rộ
Chạy băng đồi vô
ngôn.
Nguyệt lộ là trăng
sáng, sương rơi, là cảnh đẹp thiên nhiên. Vô ngôn trong Thiền tông diễn tả
trạng thái tự chứng pháp, tức là thâm mật, là bản trụ của pháp tính. Một khổ
thơ rất đẹp, trong vườn sương long lanh ánh trăng, chàng thanh niên ngồi hôn
màu trăng non, lòng vui sướng tự chứng cho mình một pháp tính, các khổ thơ tiếp
theo diễn đạt thêm.”
(Thi sĩ Trần Thoại Nguyên Đời thơ - Phận
người - Zulu DC)
Bây giờ xin hãy đi vào khổ thơ đầu:
Ngồi trong vườn
nguyệt lộ
Hôn một màu trăng
non
Nghe lòng mình cười
rộ
Chạy băng đồi vô
ngôn
“Ngồi trong
vườn nguyệt lộ”: Theo định nghĩa của từ điển, nguyệt lộ là trăng và sương.
Hát nói của Nguyễn Công Trứ có câu: “Thơ
một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà”. Vậy “Ngồi trong vườn nguyệt lộ” là ngồi trong vườn đầy trăng
và sương
“Hồn một
màu trăng non”: Tâm hồn đắm chìm
trong trăng thượng tuần
“Nghe lòng
mình cười rộ”: Trong lòng cảm thấy hứng khởi bất ngờ, cười lên sảng khoái
“Chạy băng
đồi vô ngôn”: Chạy băng qua đồi “không
lời” là chạy qua ngọn đồi bình tịnh, yên lặng, không tiếng động dưới trăng.
Khổ thơ nầy cho ta nhận biết diễn biến trong tâm
hồn khi tác giả thưởng ngoạn cảnh đẹp của đêm trăng vể khuya. Chỉ vể khuya thì
mới có sương rơi.
Như trên ta biết nhà thơ đang ngồi trên nóc chùa
trong đêm trăng. Vây “Chạy băng đồi vô
ngôn” không phải là thể xác của tác giả chạy, mà chính là linh hồn nhà thơ.
Linh hồn nhà thơ đã “chứng pháp” theo
như nhận định của ZuLu DC ở trên. Vậy có thể nói ở thời điểm nầy Trần Thoại
Nguyên đã ở trạng thái kiến tánh, nghĩa là giác ngô được một điều gì đó, nghĩa
là cái tâm đã thực chứng điều cao siêu mầu nhiệm, khiến linh hồn ông vui mừng
bay bỗng trong không gian, vào cõi vô ngôn. Điều nầy cũng giống như khi ta đọc
một nhà thơ Thiên Chúa giáo đi vào cõi im lặng:
Dáng ngọc lượn về
trong giấc êm
Nhẹ tựa hoa bay
chốn nguyệt thiềm
Đường vào im lặng
mê ly quá
Lót toàn tơ lụa cõi
thần tiên
Trăng sao lịm ngủ
từ muôn năm
Nhạc hội xuân nào
cũng lặng câm
Mà đây sáng quá!
Đây sáng quá!
Dào dạt cung êm vạn
nguyệt cầm
(Im Lặng – Xuân Ly Băng)
Đọc thơ, ta thấy Trần Thoại Nguyên và Xuân Ly
Băng cùng đi vào một cõi. Đó là cõi “hư
không vắng lặng, vũ trụ muôn màu, trăng rằm đỉnh núi, hoa hồng nở rộ, đại dương bát ngát, nhạc trời du duơng, bình
minh tỏ rạng, dị thảo kỳ hoa, là cái vui vĩ đại, là cái tịnh như nhiên, là tâm
can êm ả, là trí tuệ sáng soi…” Đó là “đồi
vô ngôn”, con đường dẫn đến Thiên Đàng của Chúa và Niết Bàn của Phật .
Bây giờ xin mời đọc tiếp khổ thơ thứ hai:
Ồ.Hồn tràn mộng
trắng
Tôi ôm trăng không
màu
Tôi ngút xuống biển
dạng
Tôi dại khờ mắt nâu
“Ô. Hồn
tràn mộng trắng”: Màu trắng là màu tượng trưng cho sự tinh khiết, sự trong
trắng và sự giản dị. Trong ánh sáng, màu trắng là màu của tất cả các màu kết
hợp lại mà thành. Vậy “mộng trắng”
trên đồi “vô ngôn” nghĩa là không
mộng, nghĩa là thật mà như là mộng. Linh hồn tác gỉa đã lọt vào nơi vô nhiểm,
nên giấc mộng ở đây chỉ là sự tinh khôi
tuyệt đối của linh hồn. Màu trắng của Phật giáo còn tượng trưng cho “Tín Căn”, là niềm tin đúng chân lý, phát
sinh ra những hạnh lành.
“Tôi ôm
trăng không màu”: “Trăng không màu”
bây giờ, chính là trăng màu trắng nằm trong đôi mắt “Tràn mộng trắng” của thi nhân. Vậy nên ánh sáng của trăng cũng là thứ ánh sáng do đủ màu hợp nhất
lại. Trong đời Phật, ta thấy ngài đảng sanh vào đêm trăng, xuất gia vào đêm
trăng, thành đạo vào đêm trăng và nhập Niêt Bàn cũng vào đêm trăng. Vậy ánh
trăng trong đạo Phật mang ý nghĩa chân lý. có giá trị thẩm mỹ, mang tính giải
thoát, nhất là khi Phật chỉ trăng mà nói ý nghĩa rằng: theo ngón tay ta để thấy
trăng, như theo lời dạy của ta mà thấy đạo.
Ôm trăng không màu tức là ôm được chân lý trong
trẻo vô biên, vắng lặng tinh khôi của
tánh “không” trong giáo lý Phật.
“Tôi ngút
xuống biến dạng”: Có thể là nhà thơ đã rơi từ mái chùa xuống đất lúc nầy.
Sư rơi của Trần Thoại Nguyên lúc nầy như lọt vào một thạch động lưu ly màu sắc.
Nhà thơ thấy những sự huyền vi bằng con mắt dại khờ màu nâu của mình.
“Tôi dại
khờ mắt nâu”: Vậy mắt nâu có ý nghĩa gì trong câu thơ nầy? Mắt nâu có vẽ
đẹp độc đáo và riêng biệt. Đó là màu mắt ngây thơ, dịu dàng và dễ tính. Trong
dôi mắt nâu, thường ẩn chưa những điều kỳ bí. Đọng trong ánh mắt nâu thứ anh
sáng của lý trí, được suy nghiệm nhưng lại dấu kín trong lòng. Hãy đọc vài câu
thơ tình yêu về mắt nâu của nhà thơ Du Phong”
“Em đã giấu điều gì
vậy, em ơi,
Sau đôi mắt nâu là
những lời chưa nói?
Đến bao giờ em trả
lời câu hỏi,
Chúng mình là gì đó
của đời nhau?
Em giấu điều gì
trong đôi mắt nâu?”
(Em Dấu Điều Gì Trong Mắt Nâu)
Đọc khổ thơ thứ hai của bài thơ, ta có thể hình
dung linh hồn nhà thơ đang bay qua đồi “Vô
Ngôn”, thân thể liền rơi xuống trần. Vậy nhưng khi rơi xuống trần, nhà thơ
vẫn chưa tỉnh mộng, giấc thụy du vẫn còn kéo dài qua những khổ thơ như sau:
Ngắt một bông trắng
lau
Hương thắm giọt máu
đào
Đêm bừng lên nguyệt
thẹn
Tôi nằm dài xanh
xao
Lúc nầy có lẻ là lúc nhà thơ đã đập đầu xuống đất. Nhà thơ đã ngất đi và linh hồn bước qua một
cơn mơ khác. Có lẽ trong khi bất tỉnh, linh hồn nhà thơ vẫn chưa quay lại
với thân thể, nên nhà thơ thấy máu của
mình trong bông lau màu trắng, thấy thân thể mình nằm xanh xao, đó là giấc mơ
pha trọn giữa mộng và thực.
Hoa cỏ lau là loại hoa có những cánh hoa nhẹ
nhàng và mềm mại đung đưa trong gió, tuy nhiên chúng lại là loại hoa có sức
sống rất kiên cường và mãnh liệt khi đứng trước sóng to gió lớn. Vậy nên loại
hoa này thường tượng trưng cho vẻ đẹp hoang sơ cùng với sức sống mãnh liệt, nó
làm biểu tượng cho những kí ức được khắc sâu trong tâm trí của nhiều người.
Tác giả thấy mình ngắt một bông hoa cỏ lau thắm
giọt máu đào nhưng vẫn có hương thơm. Điều đó thể hiện ký ức bừng trong linh
hồn tác giả ngay giờ phút bị va đập
mạnh. Bông hoa lau thể hiện sự phất phới của kỷ niệm bay về trong bầu trời
huyễn mộng mà tác giả đang lơ mơ nửa tỉnh nửa mê. Đêm bây giờ không còn là “nguyệt lộ” mà đã trở thành “nguyệt thẹn” vì cái thân thể “Tôi nằm dài xanh xao” của tác gỉả dưới
trăng.
Dẫu thân thể đã “Tôi nằm dài xanh xao” nhưng linh hồn nhà thơ qua một cuộc “chạy băng
đồi vô ngôn” đã chứng ngộ được pháp tính, đã an trú trong niềm khoái lạc của đạo:
Chim về ngủ ôm
trăng,
Ngô đồng rơi chánh
điện.
Tôi ngồi giữa Phật
đàng
Làm thơ như thánh
hiện.
Máu ràn rụa tây
hiên
Ồ. Máu băng ngực
điên!
Tôi tĩnh mịch trang
thơ
Hồn bay theo nhang
khói
“Chim về
ngủ trong trăng”: là sự an trú trong thanh tịnh của linh hồn tác giả.
“Ngô đồng
rơi chánh điện”: Ngô Đồng là một loại cây quý, chim Phượng Hoàng đến đậu,
thân cây làm nhạc khí. Câu thơ tượng trưng cho một linh hồn tốt đẹp, quay về
đúng nơi bệ thờ cao quý, như chiếc lá Ngô Đồng rơi vào nơi chánh điện.
Đọc cả hai khô thơ trên, cho ta nhận biết sự
thanh thoát trong linh hồn tác giả. Tuy “Máu
ràng rụa tây hiên/ Ôi. Máu băng ngực diên!” nhưng người thơ vẫn tỉnh tọa “ngồi
giữa Phật đàng” để “tỉnh mịch trang
thơ”. cho hồn mình “bay theo nhan
khoái” là một sư thăng hoa nhẹ bổng, êm đềm.
Cuối cùng nhà thơ ví mình như con chim chết giữa
điện thờ:
Chim chết giữa điện
thờ
Tôi rớt xuống điện
thờ.
Chim là con vật yếu đuối, được chết giữa điện thờ
là một vinh dự lớn lao. Trần Thoại Nguyên xem sự rớt của mình như con chim chết
giữa điện thơ là một hạnh duyên tốt đẹp, như một cú đánh mạnh vào đầu cúa vị
thiền sư trong lúc thiền sinh đang ngồi
viễn mộng, hồn thụy du về một cõi xa xăm.
Toàn bộ bài thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” tác giả nói về trăng. Nhà thơ ngắm
trăng, bay qua trăng, rơi trong trăng và ngộ ra điều huyền nhiệm cũng ở trong
trăng. Trăng là những điều huyền diệu soi khắp bản thể của muôn vật trong trời
đất. Mỗi con người trong linh hồn cũng có một vầng trăng nội tại, nói xa xôi là
một vị Phật còn ẩn trong lòng. Bài thơ như nói về vầng trăng ngoại tại, vầng
trăng thiên nhiên đã khai sáng, cho linh hồn thấy được vầng trăng nội tại. Khi
nhà thơ rơi từ cao xuống, cú va đập làm cho tóe máu cũng chính là lúc hai vầng
trăng hòa điệu cùng nhau, tánh Phật trong tâm lóe sáng, hiển hiện khi nhà thơ
ví mình như con “Chim chết giữa diện thờ”.
Như nhà thơ ZuLu ĐC đã viết ở trên: “Trần Thoại Nguyên đem vào trong thơ những từ
ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ phù hợp với một
số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh”.
“Nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn
liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn
thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Bởi vậy với trí óc nông cạn của mình, Châu Thạch
tôi viết bài nầy vì yêu bài thơ và tác giả bài thơ, nên liều mạng múa rìu qua
mắt vạn vạn thợ anh tài.
Xin cúi đầu nhận những lời phê phán trách chê.
Bài viết khi sao lục, chép lại của giả khác, đều dược đóngvào trong ngoặc
kép./.
*.
CHÂU THẠCH (Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 03.05.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét