CẢI CÁCH TƯ PHÁP:
PHẢI BẮT ĐẦU TỪ THẨM PHÁN
*
(Tác giả Nguyễn Ngọc Chu) |
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Một quốc gia muốn văn minh thì phải có một nền
tư pháp văn minh tương thích. Trong một nền tư pháp bệnh tật thì không bao giờ
một quốc gia có thể phát triển thành một “đế chế văn minh”. Nền tư pháp là “cái
lồng nhốt quốc gia”. Quốc gia muốn lớn mạnh thì “chiếc lồng tư pháp” phải lớn
nhanh hơn sự bành trướng của quốc gia. Hoàn thiện tư pháp là tiến trình song
hành không tách rời đảm bảo cho sự tiến bộ mỗi quốc gia. Việt Nam muốn bay lên
thì nền tư pháp Việt Nam phải bay lên cùng lúc.
Bởi thế, Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam luôn quan tâm đến nền tư pháp. Trong các Văn kiện Đại hội Đảng (IX- XII)
đều đề cập đến Cải cách Tư pháp. Đặc biệt, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020.
Tuy vậy, Cải cách Tư pháp tiến hành rất chậm và
chưa hiệu quả. Cụ thể, trong Văn kiện Đại hội XII đã chỉ rõ: “Việc triển
khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu,
tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 110).
Trên thực tế, án oan sai mỗi ngày chẳng những
không những bớt đi, mà còn dài thêm dằng dặc với mức độ sai phạm lớn hơn. Vụ án
Hồ Duy Hải đang gây chấn động xã hội, và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết cho
Cải cách Tư pháp.
Không ai bảo vệ cho Hồ Duy Hải nếu Hồ Duy Hải
thực sự phạm tội. Vấn đề cốt lõi là phải chứng minh vững chắc Hồ Duy Hải phạm
tội. Những chứng lý mà tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đưa ra chưa đủ cơ sở pháp lý
để buộc tội Hồ Duy Hải. Bởi thế, để đảm bảo không oan sai cần thiết phải điều
tra lại vụ án Hồ Duy Hải. Công luận kiên trì đòi hủy án tử hình Hồ Duy Hải để
điều tra lại, cũng một phần là vì các vụ án oan kinh rợn gần đây đều do bị ép
cung mà nhận tội. Xin nêu tóm tắt 3 vụ án oan điển hình gần đây - đều về tội
giết người.
Một là vụ án Nguyễn Thanh Chấn. Ông Nguyễn Thanh
Chấn bị kết tội giết người, bị kết án tù chung thân, và bị công an Bắc Giang
bắt giam ngày 29/3/2003. Ông Nguyễn Than Chấn kêu oan nhưng Tòa Án Nhân Dân Tối Cao bác đơn kêu oan của ông
Chấn mà y án sơ thẩm. Mặc dù ông Chấn liên tục kêu oan ở cả 2 phiên sơ thẩm và
phúc thẩm, nhưng tòa dựa vào biên bản nhận tội của ông Chấn tại cơ quan điều
tra để tuyên án. Hơn 10 năm sau, kẻ phạm tội là Lý Nguyễn Chung ra đầu thú vào
ngày 25/10/2013. Ngày 06/11/2013 ông Nguyễn Thanh Chấn được trả tự do. Ông
Nguyễn Thanh Chấn bị ngồi tù oan 3699 ngày.
Hai là vụ án Huỳnh Văn Nén. Ông Huỳnh Văn Nén bị
công an Bình Thuận bắt giam tháng 5/1995 vì bị kết tội giết người trong 2 vụ
án. Ông Huỳnh Văn Nén bị tuyên án chung thân trong phiên sơ thẩm ngày
21/8/2000. Ông Huỳnh Văn Nén liên tục kêu oan. Tháng 10/2014 Tòa Án Nhân Dân
Tối Cao hủy án sơ thẩm để điều tra lại. Ngày 28-11-2015, Công an tỉnh Bình
Thuận đình chỉ điều tra bị can đối với ông Huỳnh Văn Nén. Ông Huỳnh Văn Nén bị
ngồi tù oan 17 năm 5 tháng.
Ba là vụ án Hàn Đức Long. Ông Hàn Đức Long bị
công an Bắc Giang bắt 19/10/2005 vì bị quy tội giết người. Ông Hàn Đức Long 4
lần bị tòa án cấp sơ thẩm (2 lần) và cấp phúc thẩm (2 lần) tuyên án tử hình,
mặc dù ông Long liên tục kêu oan. Tiếp xúc với luật sư, ông Long khai đã bị
dùng cực hình ép cung. Năm 2014, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao tuyên hủy cả bản
án hình sự sơ thẩm lẫn phúc thẩm lần hai để điều tra lại. Ngày 20/12/2016 Viện
Kiểm Sát Nhân Dân Bắc Giang đã đình chỉ vụ án và trả tự do cho ông Hàn Đức
Long. Ông Hàn Đức Long bị ngồi tù oan 11 năm 2 tháng.
II. NGUỒN GỐC CỦA ÁN OAN
Điều đáng sợ là án oan không đơn lẻ, mà liên tục
diễn ra khắp mọi nơi. Không chỉ về số lượng, mà về mức độ phạm tội, đều ở khung
hình phạt khủng khiếp là chung thân và tử hình. Điều này đòi hỏi sự cần thiết
phải chỉ ra nguyên nhân gây án oan để chữa trị. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến án
oan. Dưới đây xin đề cập đến 7 nhóm nguyên nhân chính.
1. ÉP CUNG – NHÓM
NGUYÊN NHÂN SỐ 1 CỦA ÁN OAN
Nguồn gốc số 1 của án oan là ép cung. Bị ép cung
trong tình trạng bị đánh đập tàn nhẫn làm cho bất cứ ai cũng phải nhận tội.
Không chỉ nhận tội, mà còn phải diễn tập hiện trường giả làm hiện trường thật
để lấy bằng chứng buộc tội. Buộc tội tù chung thân. Buộc tội tử hình. Cần thiết
phải trích dẫn trường hợp ông Nguyễn Thanh Chấn làm thí dụ để thấy mức độ tàn
bạo của ép cung.
“Ngày 20/9 tôi lên huyện, công an lấy dấu
chân dấu tay của tôi rất nhiều lần, rồi hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần. Tối họ
cho về, ngày hôm sau lại lên, gặp cán bộ Nguyễn Hữu Tân, lại dấu chân dấu tay,
rồi đánh tôi rất đau. Tôi kêu: Tôi có giết người đâu mà các anh bắt tôi nhận?
Cán bộ Tân bảo: Cho mày uống thuốc lú cho mày cãi khỏe, mày không biết rồi mày
khắc phải nhận. Từ đó các cán bộ Nguyễn Văn Dũng, Ngô Đình Dung, Đào Văn Biên,
Nguyễn Trung Thành, Tuyến, Trần Nhật Luật thay nhau túc trực suốt 4 – 5 ngày
đêm liền bức cung tôi".
"Trong phòng đi cung có một chiếc giường
nhỏ nhưng tôi không hề được nằm một phút nào. Họ đá, họ đấm, họ dùng dép đánh
vào hai bên tai tôi. Đầu óc tôi như nổ tung ra. Họ không cho tôi về, không cho
tôi ngủ, dọa nạt bắt buộc ép tôi thế này ép tôi thế nọ. Như cán bộ Ngô Đình
Dung bắt tôi phải chỉ giấu dao ở đâu? Dưới giếng à? Hay dưới ao? Tôi bảo tôi có
giết người đâu mà giấu dao. Ông Luật bắt tôi vẽ dao, tôi bảo tôi biết dao nào
mà vẽ? Ông Luật bảo tao cho mày một búa vào đầu mày chết bây giờ! Cán bộ Nguyễn
Hữu Tân trên tay lúc nào cũng lăm lăm con dao trên tay hăm dọa tôi, ép buộc tôi
phải nhận…”.
“Cuối cùng, đến ngày 29/9. Suốt đời tôi không
quên được giây phút đó. Nước mắt đầm đìa, tôi nghĩ đến những ngày tháng làm ăn
lương thiện, đến mẹ, đến vợ, đến những đứa con thơ ở nhà. Tôi biết mình làm thế
này là ký án tử hình cho chính mình, là có thể không bao giờ còn được gặp vợ
con nữa. Nhưng tôi không còn cách nào khác! Tôi mệt quá, đau quá, sợ quá! Cứ
hành hạ mãi thế này thì chết mất... chỉ mong sao kết thúc càng sớm càng tốt
những giây phút kinh hoàng này. Thế là tôi nhận đã giết người, để dao trong tủ.”
“Người ta liền bắt tôi viết đơn tự thú. Lá
đơn đó, chính cán bộ Ngô Đình Dung đọc cho tôi từng câu, từng chữ một. Rồi
người ta bắt tôi đọc to cái đơn đó lên, ghi âm lại. Ngay chiều hôm đó, người ta
cho tôi lên trại Kế. Có ngày chuyển 4 - 5 phòng giam.”
“Có lần người ta quẳng tôi vào cùng buồng
giam với 4-5 “đầu gấu”, thằng nào cũng to béo, xăm trổ đầy mình. Có thằng tên
là Hồng Hiển bắt tôi "phục vụ" nó. Và suốt cả tháng sau, họ bắt tôi
diễn. Họ làm mẫu cho tôi diễn. Diễn đi diễn lại. Đâm như thế nào. Bế cô Hoan
đập xuống đất thế nào. Đến ngày 30/10, tại trại Kế, họ dựng lại hiện trường,
bắt tôi diễn lại từ đầu tới cuối, chụp ảnh, ghi hình...”
2. THAM NHŨNG –
NHÓM NGUYÊN NHÂN SỐ 2 CỦA ÁN OAN
Nếu ép cung, buộc nhận tội khi không có tội - là
nguồn gốc số 1 gây nên án oan, thì tham nhũng là nhóm nguyên nhân số 2 gây ra
án oan. Vì tham tiền bạc, tham quyền lực mà làm sai lệch hồ sơ, lập chứng cứ
giả, chấp nhận sự dối trá, và tuyên án ngược với sự thật.
Có vụ án nào mà không phải “chạy”? Bên nào cũng
phải cũng phải “chạy”. Có rất nhiều vụ án mà kết quả xử án phụ thuộc vào bên
nào “chạy mạnh hơn”. “Chạy” quyền, “chạy” tiền, “chạy” tất cả những nhân tố có
thể “chạy”. Những ai đã từng tham gia các vụ kiện thì mới thấy mức đọ khủng
khiếp của tham nhũng trong xử án.
3. TRÌNH ĐỘ ĐIỀU
TRA VIÊN YẾU KÉM – NHÓM NGUYÊN NHÂN SỐ 3
Điều tra viên là người lập hồ sơ vụ án. Điều tra
viên yếu kém gây sai sót trong lập hồ sơ vụ án thì sẽ dẫn đến oan sai trong xét
xử án. Vụ án Hồ Duy Hải là một minh chứng sống động gần đây nhất. Không bảo vệ
hiện trường; đốt bỏ các tang chứng gây án như dao và thớt, rồi mua ở chợ đem về
thay thế; bỏ qua chứng cớ về dấu vân tay; không xét nghiệm máu để xác định thời
gian gây án… Tất cả là do sự yếu kém của điều tra viên mà làm cho vụ án trở nên
phức tạp hơn nhiều.
Ở vụ án Hồ Duy Hải, với xác suất rất lớn là điều
tra viên đã sai lầm trong xác định thời gian gây án. Điều tra viên đã không xét
nghiệm máu để làm cơ sơ xác định thời gian gây án. Nếu xác định sai thời gian
gây án là bỏ lọt tội phạm mà bắt nhầm người. Chính điều tra viên phải thừa nhận
trình độ yếu kém dẫn đến sai sót tại phiên Giám đốc thẩm của Tòa Án Nhân Dân
Tối Cao hôm 06-08/5/2020. Trình độ yếu kém của điều tra viên là nhóm nguyên
nhân thứ 3 gây nên án oan sai.
4. TRÌNH ĐỘ YẾU KÉM CỦA THẨM PHÁN – NHÓM NGUYÊN
NHÂN SỐ 4
Một nhóm nguyên nhân gây nên oan sai trong xử án
xuất phát từ trình độ yếu kém của thẩm phán. Đây là nhóm nguyên nhân số 4 của
án oan sai.
Bỏ qua sự cố tình, thì thẩm phán giỏi sẽ phát
hiện ra hồ sơ sai do yếu kém của điều tra viên, sẽ nhìn thấy sự ép cung, sẽ
nhìn thấy sự cố ý làm sai lệch án. Quan trọng hơn, thẩm phán giỏi sẽ nhìn ra
những sự thật sau tầng tầng lớp lớp ngụy trang của hung thủ mà thẩm phán thường
không thể nhìn ra. Thẩm phán giỏi còn xử lý được những tình huống chưa bao giờ
xảy ra trong thực tiễn, làm giàu có thêm lý luận và kinh nghiệm xử án. Trong
thực tiễn, luôn xuất hiện những vụ án mới ly kỳ phức tạp chưa từng có trước đó,
mà nhiều khi chỉ tài năng của thẩm phán mới trở thành chiếc chìa khóa mở được
cánh cửa công lý.
Tiếc thay, thực tiễn trong nhiều năm vừa qua đã
chỉ ra thảm trạng yếu kém của thẩm phán. Thảm trạng này đã dẫn đến trùng điệp
những án oan sai.
Cựu Chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao (khóa
2002-2007) Nguyễn Văn Hiện đã tiết lộ một sự thật kinh hoàng khi đăng đàn giải
trình trước Quốc Hội, rằng phải “vơ vét” bổ nhiệm các thẩm phán chưa đạt yêu
cầu. Trả lời của ông Nguyễn Văn Hiện đã làm rất nhiều Đại biểu Quốc hội bức
xúc. “Đại biểu Lê Văn Cuông (Thanh Hóa) chỉ trích việc “vơ vét” những người
không đủ tiêu chuẩn vào đội ngũ thẩm phán như vậy sẽ dẫn đến xét xử lọt tội
phạm và oan sai”. “Đại biểu Nguyễn Thị Hồng Xinh, có nhiều thẩm phán “cố tình
đạp lên pháp luật mà đi”. Bà Xinh hỏi: do năng lực thẩm phán kém hay do “chạy
án”?
Sự yếu kém của thẩm phán được chính đương kim
chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Nguyễn Hòa Bình lo
lắng: “ngành tòa án sẽ mở lớp tập huấn để viết bản án theo mẫu định sẵn. Lớp
học này sẽ mời các giáo viên dạy văn đến dạy về chính tả, ngữ pháp và từng dấu
chấm, dấu phẩy…”
(https://www.tienphong.vn/…/nganh-toa-an-se-moi-giao-vien-de…).
Đến thời điểm hiện tại, sự yếu kém của thẩm phán
không chỉ nằm trong các thẩm phán được “vơ vét” mà ngay chính tại các thẩm phán
đầy mình học vị ở Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Minh chứng cụ thể là quyết định của
17 thẩm phán Hội đồng thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao trong phiên Giám đốc
thẩm hôm 06-08/5/2020 về vụ án Hồ Duy Hải - đã gây ra sự phản ứng mạnh mẽ của
các chuyên gia trong ngành tư pháp. Không ai có thể hiểu được, một hội đồng cả
những 17 thẩm phán ở chính tại Tòa Án Nhân Dân Tối Cao lại có những sai phạm sơ
đẳng về pháp luật - thể hiện một trình độ chuyên môn non yếu đến sợ hãi. Đến
mức Giáo sư Tiến sĩ Luật học Thái Vĩnh Thắng (nguyên Chủ nhiệm khoa Pháp Luật
Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội) phải thốt lên “ Nếu không hủy bản
án giám đốc thẩm Hồ Duy Hải, uy tín của nền tư pháp Việt Nam sẽ sụp đổ”. Giáo
sư Thái Vĩnh Thắng đã nêu ra 5 sai phạm:
1/. Vi phạm nguyên tắc hồi tỵ, theo đó chánh án
Nguyễn Hòa Bình không thể tham gia xét xử phiên tòa này vì ông đã từng tham gia
vụ án này với tư cách Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao tối cao ký
quyết định không kháng nghị bản án phúc thẩm.
2/. Vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội, khi
không có nhân chứng hoặc vật chứng chứng minh Hồ Duy Hải phạm tội thì phải coi
như Hồ Duy Hải vô tội.
3/. Kết luận sai về sự vi phạm luật tố tụng của
cơ quan điều tra mà lại không ảnh hưởng đến bản chất của vụ án.
4/. Vi phạm nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa
của bị can, bị cáo và không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.
5/. Không tạo điều kiện tốt nhất để đảm bảo
nguyên tắc độc lập của thẩm phán.
Trình độ yếu kém của Hội đồng Thẩm phán Tòa Án
Nhân Dân Tối Cao đã đưa họ đến một sai lầm mang tính nguyên tắc trong xử Giám
đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải. Đó là không hiểu trọn vẹn chức năng của xử Giám đốc
thẩm. Chính điều này đã đưa đến kết luận hồ đồ trong biểu quyết số 2 “Bản án
phúc thẩm và bản án sơ thẩm kết án Hồ Duy Hải có đúng người, đúng tội, đúng mức
án hay không”? - với kết quả 17/17 thành viên biểu quyết “Đúng người, đúng tội,
đúng mức án”.
Giám đốc thẩm, điều cốt lõi không phải “ngồi để
xử lại” y hệt như sơ thẩm và phúc thẩm, rồi kết luận “Đúng người, đúng tội,
đúng mức án”. Chức năng quan trọng số 1 của Giám đốc thẩm là lấy hai bộ luật là
Bộ luật Tố Tụng Hình Sự và Bộ luật Hình Sự làm “hai kính soi yêu” để phát hiện
ra án sơ thẩm và án phúc thẩm có hoàn toàn tuân thủ 2 bộ luật này hay không? Có
vi phạm gì không? Có bỏ sót gì không? Có mâu thuẫn gì không?... Khi án sơ thẩm
và phúc thẩm tuân thủ tuyệt đối Bộ luật Tố Tụng Hình Sự và áp dụng đúng Bộ luật
Hình Sự trong xét xử, thì tự động kết quả xử án sẽ phù hợp. Kết quả xử án là
sản phẩm của 2 bộ luật này. Giống như trong sản xuất, nếu là sản phẩm đi qua
các công đoạn, không vi phạm điều gì, thì sẽ không phải là phế phẩm. Chức năng
chính của Giám đốc thẩm là lấy 2 bộ luật để soi xét rồi tuyên bố không hủy, hay
hủy để điều tra lại, xử lại – chứ không phải tuyên “Đúng người, đúng tội, đúng
mức án”.
Nay Hội đồng Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao
ngồi trong phòng lạnh ở Hà Nội, không có bị cáo, không có nhân chứng, không
khảo sát thực địa…, chỉ dựa trên hồ sơ có nhiều sai sót của các điều tra viên
yếu kém lập nên mà tuyên bố “xanh rờn” “Đúng người, đúng tội, đúng mức án” thì
thật là liều lĩnh. Bây giờ mới phát hiện ra không có nghi can Nguyễn Văn Nghị
mà lại có nghi can Nguyễn Hữu Nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối
Cao lấy gì để biện minh? Tiếp đến sẽ bộc lộ nhiều mâu thuẫn khác nữa thì Hội
đồng Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao có khăng khăng khẳng định “Đúng người,
đúng tội, đúng mức án” nữa không?
Xử Giám đốc thẩm là lấy tổng thể để soi xét cụ
thể. Nhưng Hội đồng Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao lại lặp lại chức năng của
tòa sơ thẩm và phúc thẩm là “từ xét cụ thể đi đến kết luận tổng thể”. Đó là sai
phạm mang tính nguyên tắc của Hội đồng Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Vì là
sai phạm mang tính nguyên tắc, nên Hội đồng Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao
không bao giờ đối phó được những tình huống mới xuất hiện như công an Long An
trả lời ' không có nghi can Nguyễn Văn Nghị'.
Về biểu quyết số 3 của Hội đồng Thẩm phán Tòa Án
Nhân Dân Tối Cao khẳng định “Quyết định kháng nghị số 15/QĐ-VKSNDTC-V7 của Viện
Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao không đúng pháp luật” đã bị phản đối dữ dội với các
phản bác thuyết phục. Không nhắc lại ở đây, mà chỉ muốn lưu ý đến sai lầm sơ
đẳng mà người không học luật cũng không thể mắc phải. Đó là nếu quyết định
kháng nghị của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao không đúng pháp luật thì Hội đồng
Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao phải bác ngay từ đầu mà không xem xét, hoặc
chỉ xem xét tính hợp pháp của kháng nghị. Chỉ cần tư duy logic thông thường
cũng thấy được thế “việt vị” của Hội đồng Thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao ở
biểu quyết số 3.
Hội đồng thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao qua
phiên Giám đốc thẩm Hồ Duy Hải còn bộc lộ ra nhiều điểm yếu về chuyên môn nữa
mà không thể liệt kê hết ra ở đây. Điều sợ hãi đến cực độ cần phải nói - là ở
Hội đồng thẩm phán Tòa án cao nhất nước mà có chuyên môn yếu như vậy, thì làm
sao tìm đến được công lý trong các vụ án phức tạp? Và án oan vì thế mà cứ mãi
nối tiếp nhau xuất hiện không dứt nếu không có biện pháp ngăn ngừa.
5. THỂ THỨC BỔ NHIỆM CHÁNH ÁN TÒA ÁN VÀ VIỆN
TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT CHƯA HỢP LÝ – LÀ NHÓM NGUYÊN NHÂN SỐ 5
Ở nước ta, các vị trí chánh án tòa án và viện
trưởng viện kiểm sát phải nằm trong cấp ủy tương ứng – từ quận huyện cho tới
tỉnh thành và trung ương. Điều này dẫn đến sự coi nhẹ chuyên môn.
Cụ thể, chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao và viện
trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao phải là ủy viên trung ương. Cho nên chỉ
chọn chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao và viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối
Cao trong số các ủy viên trung ương. Hệ quả là các thẩm phán giỏi nhất đã không
được bổ nhiệm làm chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao và viện trưởng Viện Kiểm Sát
Nhân Dân Tối Cao. Điều này cũng đã xảy ra ở cấp tỉnh thành và quận huyện.
Tư pháp là ngành khoa học phức tạp và hệ trọng,
vì liên quan đến số phận con người và là nhân tố tham gia quyết định sự phát
triển của toàn quốc gia. Vì thế cần những người giỏi dẫn đường. Trong ngành tư
pháp, yếu tố chuyên môn là quyết định áp đảo. Bởi vậy, trong Cải cách tư pháp cần
phải cải cách cả phương thức bổ nhiệm các chánh án và các viện trưởng viện kiểm
sát ở mọi cấp độ. Cần phải tìm ra lời giải hợp lý cho vấn đề này.
6. NÂNG CAO TÍNH ĐỘC LẬP CỦA TÒA ÁN
Tòa án, viện kiểm sát, luật sư - là bộ 3 thành
tố bảo vệ công lý trong ngành tư pháp. Tuy nhiên, tòa án và viện kiểm sát lại
có chung một gốc rễ lãnh đạo là cấp ủy - nên cuối cùng hai thành tố này không
phải lúc nào cũng độc lập hoàn toàn. Làm thế nào để cả 3 thành tố - tòa án,
viện kiểm sát, luật sư – đều độc lập hoàn toàn thì khách quan trong xử án mới
được đảm bảo. Đây là câu hỏi không dễ có được lời giải tốt cho Cải cách Tư pháp.
Trong khuôn khổ bài viết này, chưa đề xuất giải pháp cho vấn đề này ở đây.
7. NHỮNG KHIẾM KHUYẾT KHÁC
Dẫn đến án oan còn do những khiếm khuyết khác
nữa của ngành tư pháp. Trong số những điều cần hoàn thiện - có việc hoàn thiện
pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp. Trong số các vấn đề cần cải cách -
có việc cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp…
Còn những vấn khác nữa mà chỉ các chuyên gia trong ngành tư pháp mới đưa ra
được lời giải - chẳng hạn là sự cần thiết phải có Tòa án Hiến pháp.
III. CẤP BÁCH SỐ 1 CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP LÀ VẤN
ĐỀ THẨM PHÁN
Cải cách tư pháp là một tiến trình gian truân. Nhưng
dù gian truân bao nhiêu thì cũng phải cải cách tư pháp để không trói buộc bước
phát triển của đất nước. Phải cải cách tư pháp để người dân được rộng không
gian phát huy năng lực mà đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Còn nữa,
phải cải cách tư pháp để giảm thiểu sự oan trái làm tiêu tán sức mạnh và lòng
tin của nhân dân.
Trong nhiều mặt của cải cách tư pháp, có vấn đề
cốt lõi nổi cộm đã nêu ở trên phải cấp thiết xử lý. Rằng các thẩm phán chịu
trách nhiệm áp đảo trong các án oan sai. Đó là vì chuyên môn của thẩm phán yếu
kém. Đó là do thẩm phán không chống cự được sự cám dỗ của tiền bạc. Đó là bởi
thẩm phán lùi bước trước quyền lực. Không phải vơ đũa cả nắm, nhưng rất nhiều
thẩm phán mắc các lỗi vừa nêu ra. Đó cũng là một phần hậu quả của chiến dịch “vơ
vét” thẩm phán.
Nếu các thẩm phán giỏi về chuyên môn, tiền bạc
không mua chuộc được, lại không sợ hãi quyền lực – thì đã không có nhiều án oan
sai như trong thời gian vừa qua. Cho nên, thẩm phán là “pháo đài” đầu tiên phải
“công phá” trong cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Biết rằng, phải cải cách cơ chế là chìa khóa.
Biết rằng, nạn tham nhũng đã thành ung thư trong xã hội và đang tạo ra lớp lớp
những đợt “sóng thần” dội vào ngành tư pháp. Nhưng trí tuệ và tâm sáng của các
quan tòa phải như hải đăng giữa muôn trùng bão tố. Thì ngõ hầu mới giảm bớt
được án oan sai.
Thẩm phán phải là bậc trí nhân. Thẩm phán phải
là kẻ sĩ. Thời nào có được thẩm phán như vậy thì quốc gia tất cường thịnh.
*
NGUYỄN NGỌC CHU
Địa chỉ: Viện Toán
Học-A5/18 Hoàng Quốc Việt
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
.
........................................................................................
- Cập nhật từ email: quanboyman1992@yahoo.com.vn
ngày 18.06.2020
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét