KINH
PHẬT NÓI GÌ VỀ VONG LINH?
*
Trong
nước đang sôi nổi về chuyện thỉnh vong, giải trừ oan gia trái
chủ tại ngôi Chùa Ba Vàng, tỉnh Quảng Ninh. Bài này không có ý trực tiếp góp
tiếng thảo luận về những sự kiện người viết không theo
dõi đầy đủ. Chủ đề bài này nêu ra là: Kinh Phật trong Tạng Pali
nói gì về chuyện vong linh? Đây là một đề tài gây sôi nổi, được nhiều học
giả tôn túc tìm hiểu, thảo luận. Bài này cũng tránh nói về các
cuộc tranh luận về vong trong học giới Tây phương, nơi đây
chủ yếu sẽ dẫn ra hai kinh trong Kinh Tiểu Bộ đã được Hòa
Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt, và tiếp
theo sau đó sẽ là các bản Việt dịch khác của Hòa
Thượng Indacanda. (Tác giả Nguyên Giác)
Kinh
thứ 6 trong nhóm Kinh Tiểu Tụng (Khuddakapàtha) là Kinh
Châu Báu (Ratana Sutta) – kinh này cũng có trong Kinh Tập (ký số
Sn 2.1) hiện có nhiều bản Anh dịch.
Bhikkhu
Thanissaro giới thiệu Kinh Châu Báu, xin dịch như sau:
“Sự
kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị
nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác
chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố; kế
tiếp là bệnh truyền nhiễm chết người. Vì gặp cả ba nỗi lo về đói, về vong
dữ, và về dịch bệnh, cư dân tìm tới, xin Đức Phật, lúc đó ngài đang ở
Rajagaha, cứu giúp.
Đi
cùng nhiều vị tăng, trong đó có thị giả Ananda, Đức
Phật vào thành Vesali. Khi Thế Tôn bước vào, mưa rào đổ
xuống, quét sạch các xác chết đang phân hủy. Khi không
khí trong sạch, thành phố thanh tịnh hơn.
Nơi
đây, Đức Phật đọc bài Kinh Châu Báu cho ngài
Ananda, dạy ngài về cách nên hướng dẫn và cùng với cư dân Vesali đi quanh thành
phố, tụng kinh này để dùng như oai lực bảo vệ cư dân
Vesali. Ngài Ananda làm theo lời dạy, rải nước tịnh thủy từ bình
bát riêng của Đức Phật. Do vậy, các ác vong được nhẹ nghiệp, nạn dịch
bệnh giảm. Sau đó, ngài Ananda cùng dân Vesali trở về hội
trường, nơi Đức Phật và chư tăng đang chờ. Kế
tiếp, Đức Phật một lần nữa, đọc Kinh Châu Báu.”
(hết trích dịch)
Nối kết bản Anh và Việt của Kinh Châu Báu và Kinh Ngoài Bức Tường (Tirokudda Sutta) sẽ nằm ở (1). Cũng cần ghi rằng có bản Việt dịch khác của Kinh Ngoài Bức Tường do Đại sư Indacanda thực hiện, và kinh này nằm trong Tiểu Bộ Kinh, phần Petavatthu (Chuyện Ngạ Quỹ).
Nơi
đây, hai kinh do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sẽ viết theo
thể văn xuôi cho dễ nhìn, trích:
“VI. Kinh
Châu Báu (Ratana Sutta)
1.
Phàm ở tại đời này, Có sanh linh tụ hội, Hoặc trên cõi đất này, Hoặc
chính giữa hư không, Mong rằng mọi sanh linh, Được đẹp ý vui
lòng, Vậy, hãy nên cẩn thận, Lắng nghe lời dạy này.
2.
Do vậy các sanh linh, Tất cả hãy chú tâm, Khởi lên lòng
từ mẫn, Đối với thảy mọi loài, Ban ngày và ban đêm, Họ đem vật cúng
dường, Do vậy không phóng dật, Hãy giúp hộ trì họ.
3.
Phàm có tài sản gì, Đời này hay đời sau, Hay ở tại thiên
giới, Có châu báu thù thắng, Không gì sánh bằng được,
Với Như Lai Thiện Thệ, Như vậy, nơi Đức Phật, Là châu
báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh
phúc.
4. Đoạn
diệt và ly tham, Bất tử và thù diệu. Phật Thích-ca
Mâu-ni, Chứng Pháp ấy trong thiền, Không gì sánh bằng được,
Với Pháp thù diệu ấy. Như vậy, nơi Chánh Pháp, Là châu báu thù
diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
5.
Phật, Thế Tôn thù thắng, Nói lên lời tán thán, Pháp thù
diệu trong sạch, Liên tục không gián đoạn, Không
gì sánh bằng được, Pháp thiền vi diệu ấy. Như vậy,
nơi Chánh Pháp, Là châu báu thù diệu, Mong với sự
thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
6.
Tám vị bốn đôi này, Được bậc thiện tán thán. Chúng đệ tử Thiện
Thệ, Xứng đáng được cúng dường. Bố thí các vị ấy, Được kết quả
to lớn. Như vậy, nơi tăng chúng, Là châu báu thù diệu Mong
với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
7.
Các vị lòng ít dục, Với ý thật kiên trì, Khéo liên hệ mật thiết,
Lời dạy Gô-ta-ma! Họ đạt được quả vị, Họ thể nhập bất tử,
Họ chứng đắc dễ dàng, Hưởng thọ sự tịch tịnh, Như vậy,
nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu, Mong với sự
thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
8.
Như cây trụ cột đá, Khéo y tựa lòng đất. Dầu có gió bốn phương, Cũng không
thể dao động. Ta nói bậc Chơn nhân, Giống như thí dụ này,
Vị thể nhập với tuệ, Thấy được những Thánh đế, Như vậy,
nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu, Mong với sự
thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
9.
Những vị khéo giải thích, Những sự thật Thánh đế, Những vị
khéo thuyết giảng, Với trí tuệ thâm sâu. Dầu họ có hết
sức, Phóng dật không chế ngự, Họ cũng không đến nỗi, Sanh
hữu lần thứ tám, Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu báu thù
diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
10.
Vị ấy nhờ đầy đủ, Với chánh kiến sáng suốt, Do vậy có ba pháp,
Được hoàn toàn từ bỏ, Thân kiến và nghi hoặc, Giới
cấm thủ cũng không, Đối với bốn đọa xứ, Hoàn toàn được giải
thoát. Vị ấy không thể làm, Sáu điều ác căn bản, Như vậy, nơi Tăng
chúng, Là châu báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được
sống chơn hạnh phúc.
11.
Dầu vị ấy có làm, Điều gì ác đi nữa, Với thân hay với lời, Kể cả với tâm ý, Vị
ấy không có thể, Che đậy việc làm ấy, Việc ấy được nói rằng,
Không thể thấy ác đạo. Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu
báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh
phúc.
12.
Đẹp là những cây rừng, Có bông hoa đầu ngọn, Trong tháng hạ nóng bức,
Những ngày hạ đầu tiên, Pháp thù thắng thuyết giảng, Được ví dụ như
vậy. Pháp đưa đến Niết Bàn, Pháp hạnh phúc tối thượng, Như
vậy, nơi Đức Phật, Là châu báu thù diệu, Mong với sự
thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
13.
Cao thượng biết cao thượng, Cho đem lại cao thượng, Bậc Vô
thượng thuyết giảng, Pháp cao thượng thù thắng, Như vậy nơi đức
Phật, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống
chơn hạnh phúc.
14.
Nghiệp cũ đã đoạn tận, Nghiệp mới không tạo nên, Với tâm tư từ bỏ,
Trong sanh hữu tương lai, Các hột giống đoạn tận, Ước muốn
không tăng trưởng Bậc trí chứng Niết Bàn, Ví
như ngọn đèn này, Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu
báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh
phúc.
15.
Phàm ở tại đời này, Có sanh linh tụ hội, Hoặc trên cõi đất này, Hoặc
chính giữa hư không, Hãy đảnh lễ Đức Phật, Đã như thực đến đây,
Được loài Trời, loài Người, Đảnh lễ và cúng dường, Mong
rằng, với hạnh này, Mọi loài được hạnh phúc.
16.
Phàm ở tại nơi này, Có sanh linh tụ hội, Hoặc trên cõi đất này, Hoặc
chính giữa hư không, Hãy đảnh lễ Chánh pháp, Đã như thực đến
đây, Được loài Trời, loài Người; Đảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng với hạnh này, Mọi loài được hạnh phúc.
17.
Phàm ở tại đời này, Có sanh linh tụ hội Hoặc trên cõi đất này, Hoặc
chính giữa hư không, Hãy đảnh lễ chúng Tăng, Đảnh
lễ và cúng dường, Mong rằng với hạnh này, Mọi loài được hạnh
phúc.
__()__
VII.
Kinh Ngoài Bức Tường (Tirokudda Sutta)
1.
Ở bên ngoài bức tường, Bọn họ đứng chờ đợi, Giao lộ, ngã ba
đường, Trở về mái nhà xưa, Đợi chờ bên cạnh cổng.
2.
Nhưng khi tiệc thịnh soạn, Được bày biện sẵn sàng, Đủ mọi thức
uống ăn, Không một ai nhớ họ. Sự kiện này phát sinh Từ nghiệp
xưa của họ.
3.
Vậy ai có từ tâm, Nhớ cho các thân nhân, Thức
uống ăn thanh tịnh, Tốt đẹp và đúng thời.
4.
Món này cho bà con, Mong bà con an lạc, Đám ngạ
quỷ thân bằng, Đã tề tựu chỗ đó.
5.
Sẽ mong muốn chúc lành, Vì thực phẩm đầy đủ, Mong quyến
thuộc sống lâu, Nhờ người, ta hưởng lợi.
6.
Vì đã kính lễ ta, Thí chủ không thiếu quả Tại đó không cấy cày,
Cũng không nuôi súc vật.
7.
Cũng không có buôn bán, Không trao đổi tiền vàng, Các ngạ
quỷ họ hàng, Chỉ sống nhờ bố thí.
8.
Như nước đổ xuống đồi, Chảy xuống tận vực sâu, Bố thí tại chỗ
này, Cung cấp loài ngạ quỷ.
9.
Như lòng sông tràn đầy, Đưa nước đổ xuống biển, Bố thí tại chỗ
này, Cung cấp loài ngạ quỷ.
10.
Người ấy đã cho ta, Đã làm việc vì ta, Người ấy là quyến thuộc, Người ấy
chính thân bằng. Hãy bố thí ngạ quỷ, Nhớ việc xưa chúng làm.
11.
Không khóc than, sầu muộn, Không thương tiếc cách gì, Giúp ích
loài ngạ quỷ, Quyến thuộc làm như vầy, Không lợi
cho ngạ quỷ.
12.
Nhưng khi vật cúng dường, Khéo đặt vào chư Tăng Ích
lợi chúng lâu dài, Bây giờ, về sau nữa.
13. Chánh
pháp được giảng bày, Như vậy cho quyến thuộc, Kính
trọng biết chừng nào, Đối với người đã khuất, Chư
Tăng được cúng dường, Cũng tăng thêm dõng mãnh, Người tích
tụ công đức, Thật to lớn biết bao.
(GHI
NHẬN: Kinh Ngoài Bức Tường, trong bản Anh dịch của ngài Ven. Kiribathgoda
Gnanananda Thera có thêm câu đầu là, “Đức Phật đọc bài kinh này cho
Vua Bimbisara sau khi vua thiết lễ trai tăng cúng dường cho tang
đoàn.)
__()__
Nhóm
chuyện Petavatthu bao gồm 51 bài, kể về các trường hợp khác
nhau, cho thấy ác nghiệp sẽ dẫn tới tái sanh vào cõi “quỷ
đói” (ngạ quỷ - peta).
Nơi
đây, xin dẫn ra bản kinh ngài Xá Lợi Phất (Sariputta – có
thế danh là Upatissa) thấy một quỷ đó hiện ra, và đó là người mẹ
từ kiếp trước. Ngài đã hướng dẫn giải nghiệp cho mẹ. Kinh này ký
số 2.2 trong Petavatthu.
Bản
Việt dịch kinh này do ngài Indacanda thực hiện như sau:
“Này
cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có
vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”
“Tôi
là mẹ của ngài trong những kiếp sống khác trước đây, đã bị sanh vào cảnh
giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.
Bị tác
động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra,
vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang
bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết
thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.
Tôi
có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con
người, không chốn nương tựa, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc
giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).
Này
con trai, hãy cho tôi vật thí, sau khi bố thí xin ngài
hãy chỉ định (việc ấy là) dành cho tôi; được như thế thì tôi có
thể thoát khỏi việc thọ thực mủ và máu.”
Sau
khi lắng nghe lời nói của người mẹ, vị Upatissa, bậc có lòng thương
tưởng, đã thỉnh ý các vị Moggallāna, Anuruddha, và Kappina.
Sau
khi thực hiện bốn liêu cốc, vị ấy đã dâng các liêu cốc và cơm ăn nước
uống đến Hội Chúng bốn phương; vị ấy đã chỉ
định sự cúng dường là dành cho người mẹ.
Khi
được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay
lập tức: vật thực, nước uống, vải vóc; quả báo này là do sự cúng
dường.
Do
đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết,
có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm
vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp vị Kolita.
“Hỡi
nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng
rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
Do
điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành
tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích
ý sanh lên cho nàng?
Hỡi
nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm
việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như
vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
“Tôi
là mẹ của Sāriputta trong những kiếp sống khác trước đây, đã bị sanh
vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.
Bị tác
động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra,
vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang
bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết
thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.
Tôi
có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con
người, không chốn nương tựa, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc
giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).
Nhờ
vào sự bố thí của Sāriputta, tôi vui sướng, không có sự sợ
hãi từ bất cứ đâu. Thưa ngài, tôi đi đến để đảnh lễ bậc hiền
trí, đấng bi mẫn ở thế gian.”
Chuyện
Ngạ Quỷ—Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta là thứ nhì.”(hết
trích) (2)
__()__
Tiếp
theo nơi đây, xin trích ra truyện một quỷ đói hiện ra trước ngài
Nandasena xin cứu, nói rằng cô khi sinh tiền là vợ của ngài trong cõi
người, vì làm ác nghiệp nên rơi vào cõi ngạ quỷ. Truyện này, ký
số 2.4 trong nhóm Petavatthu, cũng do Hòa Thượng Indacanda dịch ra
tiếng Việt, như sau.
“Nàng
đen đủi, có vóc dáng xấu xí, thô kệch, có dáng vẻ ghê rợn, có
mắt đỏ ngầu, có răng hô, tôi nghĩ rằng nàng không phải loài người?”
“Này
Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của ông. Sau khi
làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
“Vậy ác
hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành
tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ
quỷ?”
Tôi
đã là người nhẫn tâm, có lời nói thô lỗ, không tôn
trọng ông. Sau khi nói lời tồi tệ với ông, tôi đã đi
đến thế giới ngạ quỷ.”
“Này,
tôi cho nàng tấm choàng. Nàng hãy quấn mảnh vải này vào. Sau khi quấn vào mảnh
vải này, hãy đi đến, ta sẽ đưa nàng về nhà.
Khi
nàng đã đi đến nhà, nàng sẽ nhận được y phục, cơm ăn và nước uống. Nàng sẽ
trông thấy những đứa con trai của nàng, và nhìn xem những cô con dâu.”
“Vật
thí của ông dầu tay trao tay vẫn không lợi ích cho tôi. Ông hãy
làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến
ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi chỉ
định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ
được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục lạc.”
“Tốt
lắm!” Sau khi thỏa thuận, vị ấy đã thực hiện dồi dào vật
thí: cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, chỗ trú ngụ, lọng che, vật
thơm, tràng hoa, và nhiều loại giày dép. Sau khi làm toại ý các
vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học
rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng
dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.
Khi
được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay
lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do
sự cúng dường.
Do
đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết,
có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm
vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người chồng.
“Hỡi
nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng
rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
Do
điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành
tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích
ý sanh lên cho nàng?
Hỡi
nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng
đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực
sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
“Này
Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của chàng. Sau khi
làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
Nhờ
vào vật thí đã được chàng dâng cúng, tôi vui sướng, không có
sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này gia chủ, mong rằng chàng sống
thọ cùng với tất cả thân quyến.
Nơi
chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị
có quyền lực. Này gia chủ, ở đây sau khi thực hành Giáo
Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô
nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách,
mong rằng chàng đi đến nơi chốn cõi Trời.”
Chuyện Ngạ
Quỷ Nandā là thứ tư.”(hết trích) (3)
---------------
GHI CHÚ:
(1) Kinh Tiểu Tụng bản Anh dịch:
https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/khp/khp.1-9x.piya.html#khp-6
Kinh Tiểu Tụng bản
Việt dịch:
https://thuvienhoasen.org/p15a1271/kinh-tieu-tung-viet-anh
Chuyện Ngạ Quỹ, bản Việt
dịch:
https://suttacentral.net/pv5/vi/indacanda
(2) Chuyện Ngạ Quỷ—Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta:
https://suttacentral.net/pv14/vi/indacanda
(3) Chuyện Ngạ Quỷ Nandā:
https://suttacentral.net/pv16/vi/indacanda
Mời thư giãn với
nhạc phẩm EM ĐI XEM HỘI TRĂNG RẰM
của Nguyễn Nghi, qua tiếng hát Như Quỳnh:
*
Cư sĩ NGUYÊN GIÁC
(tên thật: Phan Tấn Hải)
Địa chỉ: California, Hoa Kỳ.
Emai: nguyengiac@gmail.com
...............................................................................................................
- Cập nhật từ email: thaiquocmuu1@aol.com ngày 23.10.2020
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
.
0 comments:
Đăng nhận xét