NGUỒN GỐC CỦA 12 CON GIÁP
Xưa nay nhiều người vẫn lầm tưởng rằng 12 con giáp có xuất xứ
từ Trung Hoa. Tuy nhiên, từ những năm 2000, trong một công trình nghiên
cứu về ngôn ngữ Việt cổ - nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nguyễn
Cung Thông (định cư tại Australia) phát hiện ra nguồn gốc 12 con giáp có
xuất xứ từ Việt Nam.
Ngôn ngữ là “lá bùa” tổ
tiên để lại
Theo văn hóa Phương Đông, lịch được xác lập theo chu kỳ thay đổi
đều đặn của Mặt trăng. Do đó 12 con giáp ứng với 12 giờ trong ngày, 12
tháng trong năm, 12 năm trong một giáp – đó là những nền tảng quan trọng để
tính lịch và là dấu hiệu để nhận đoán về số mệnh của từng người theo cung
Hoàng Đạo.
Trong lịch sử, Việt Nam và Trung Hoa có một thời kỳ giao
lưu văn hoá ít nhất 2000 năm. Những đợt giao lưu văn hóa cứ tiếp biến và
chồng chất lên nhau khiến cho dấu hiệu nhận biết nét riêng của từng dân tộc rất
khó khăn. Thêm vào đó, các tài liệu xưa không còn nhiều, nếu còn cũng chỉ
trong kho thư tịch Hán cổ khiến cho việc nghiên cứu hết sức rắc rối
và phức tạp. Chính điều này đã đốc thúc nhà nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Cung
Thông cố công đi tìm cho bằng được những bí ẩn ngôn ngữ của tổ tiên mà theo ông
đó là những “lá bùa” con cháu
cần tìm lời giải.
12 con giáp Việt trong
cung Hoàng Đạo
Ông Thông cho biết, ông bắt đầu việc nghiên cứu tiếng Việt của
mình vào những năm đầu thập niên 1970 tại nước Australia. Trong một lần nghiên
cứu về nguồn gốc 12 con giáp để lần tìm cội nguồn tiếng Việt ông đã phát hiện
ra một số từ Việt cổ mà người Việt đã dùng để chỉ về 12 con giáp có nguồn gốc
lâu đời trước khi 12 con giáp xuất hiện ở Trung Hoa. Vào những ngày cuối năm
con trâu, tại Viện Việt học ở thành phố Westminster (California, Mỹ) ông đã có
một buổi thuyết trình những khám phá thú vị của mình với chủ đề “Vết
tích của tiếng Việt cổ trong tiếng Hán”. Ngoài ra, vấn đề này còn
được trình bày trong hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba (Hà Nội,
4-7/12/2008) ...
“Tìm hiểu về gốc của tên
mười hai con giáp là một cơ hội để ta tìm về cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con
giáp là Tý/Tử, Sửu, Dần, Mão/Mẹo, Thìn/Thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/Vị, Thân/Khôi, Dậu,
Tuất, Hợi. Thoạt nhìn thì thập nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc vì là
những từ Hán Việt, nhưng khi phân tách các tiếng Việt, và thấy có những khác
lạ, tôi đem so sánh trong hệ thống ngôn ngữ vay mượn thì sự thật không phải vậy” –
ông Thông nói.
Theo ông Thông thì tên 12 con giáp nếu đọc theo tiếng Bắc Kinh
và bằng cách ghi theo phiên âm (pinyin): zi, chou, yín, măo, chén, sì, wè, wèi,
shèn, yòu, xù, hài... hoàn toàn không liên hệ đến cách gọi tên 12 con giáp
trong tiếng Trung Quốc hiện nay. Ngay cả khi phục hồi âm Trung Quốc thời
Thượng Cổ thì vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú
vật thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào đó dùng tên 12 con thú
tương tự như tên 12 con giáp ngày nay thì dân tộc đó phải có liên hệ rất khăng
khít với nguồn gốc tên 12 con giáp này hay còn có thể là 'chủ nhân' của chúng.
Từ điều này, khởi đầu cho việc nghiên cứu ông đi tìm nguyên do
vì sao trong 12 con giáp của Trung Quốc, con Mèo bị thay bởi Thỏ. “Người Trung Quốc dùng thỏ thay cho mèo (biểu
tượng của chi Mão/Mẹo) vì trong văn hóa du mục của người Trung Quốc thỏ là một
loài vật rất quan trọng và thường được ghi bằng chữ tượng hình là Thố, giọng
Bắc Kinh tù theo pinyin, là từ viết bằng bộ nhân không có từ để chỉ mèo. Hầu
như chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi Mão: nguyên âm e hay iê là các dạng cổ
hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ, xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao,
beo/báo... Vì thế mà mèo cũng là loài vật hiện diện trong đời sống dân Việt
thường xuyên hơn” – ông Thông lý giải. Nên nhắc lại ở đây là âm Hán
Việt miêu 貓 là con mèo trong văn hoá Trung Hoa, và từng được ghi lại trong từ
điển Việt Bồ La/VBL in năm 1651 rằng giờ mão hay mẹo là giờ mèo (hora felis -
VBL trang/tờ 287). Học giả Lê Quý Đôn (1726-1784) từng viết là tương trưng cho
chi Mão/Mẹo là con thỏ trong Vân Đài Loại Ngữ (phản ánh ảnh hưởng của Tàu), và
nếu tài liệu này được dùng làm sách giáo khoa' thì có lẽ dấu ấn của văn hoá
Việt cổ sẽ chìm sâu trong quên lãng. Người Việt sinh ra vào năm Mão/mẹo/mèo hay
Ngọ/ngựa biết ngay rằng là năm con mèo hay con ngựa - không nhất thiết phải đi
đến trường học - trong khi đó Trung Hoa phải dùng từ ghép Mão Thố 卯兔 (Mão thỏ)
hay Ngọ mã 午馬 (Ngọ ngựa): để dạy cho dân chúng biết là năm Mão là năm con thỏ
và năm Ngọ là năm con ngựa!
Vì sao Việt Nam không
giữ được “thương hiệu”?
Thực tế, đã từng có nhiều công trình của nhiều tác giả cố gắng
chứng minh văn hóa Trung Quốc có xuất phát từ văn hóa Việt
Nam như tác giả Kim Định (td. Viêm tộc trong cuốn "Việt
Lý Tố Nguyên"), Lê Mạnh Mát qua cuốn “Lịch sử âm nhạc Việt Nam - từ
thời Hùng Vương đến thời kỳ Lý Nam Ðế” hay tác giả Nguyễn Thiếu
Dũng với cuốn “Nguồn gốc Kinh Dịch”...v.v... Hầu hết các cuốn sách này đều cho
thấy chiều vay mượn văn hóa là từ phương Nam vào thời thượng cổ, chứ không phải
là từ Bắc xuống Nam (cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Ðường lúc
văn hoá Trung Quốc cực thịnh. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc
tên 12 con giáp, và rất ít dùng cấu trúc của chữ Hán, Hán cổ cùng các biến âm
trong cách lý giải.
Theo ông Thông, ngoài hai chi Tý/*chút/chuột, Mão/
Mẹo/mèo là dễ nhận thấy nhất thì những chi còn lại khi so sánh trong tương
quan ngữ âm, ngữ nghĩa cũng đều cho ra những kết quả khá bất ngờ.
Ví dụ với trường hợp của Thân là chi thứ 9
trong bản đồ Hoàng Đạo. Nếu xem cách viết chữ Thân bằng bộ điền với nét
giữa dài hơn với cách viết chữ Khôn (một căn bản của Kinh Dịch có từ thời
Thượng cổ) thì ta thấy bộ thổ hợp với chữ Thân hài thanh. Đây là liên hệ trực
tiếp giữa Thân và Khôn, tuy nhiên tiếng Việt cổ có chữ khọn là con khỉ (người Huế
hay người xứ Nghệ hiện nay một số chỗ vẫn còn những câu cửa miệng “tuồng mặt con khọn” để ám chỉ những
người vô tích sự, chẳng làm chẳng nên trò trống gì). Thành ra, Thân chính là
khỉ, tiếng Việt cổ dù biến âm th-kh rất hiếm gặp trong tiếng Việt ngày nay
nhưng nó vẫn còn dấu tích của những từ cặp đôi như: thân- cận- gần, thận- cẩn
(thận trọng, cẩn trọng).
Tương tự với trường hợp của con Rồng. Xưa nay nhiều
người vẫn cho rằng rồng là một con vật tiêu biểu cho vương quyền của phương Bắc
và sau đó nó được chọn làm một trong 12 con vật có mặt trong 12 con giáp của
cung Hoàng Đạo. Nhưng ít ai biết được rằng rồng thực sự là con vật chủ của
người Việt cổ và ngày xưa người Việt đã có những từ ngữ riêng để nói đến rồng
hay thìn. Thìn/Thần dấu tích còn lại trong giọng Bắc Kinh hiện nay chỉ còn chén
– âm này có thể tương ứng với các âm trần, trầm, thần của Hán Việt. Tuy nhiên,
theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì nếu phục hồi âm cổ của Thìn/Thần là
tlan (Tiếng Việt cổ - âm r chuyển thành l) và trăn, lươn (âm ts - mất đi), rắn,
trình (loài cá giống con lươn), rồng/long (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam,
vốn/bản...) và khuynh hướng đơn âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn -
thằn lằn, tlian - thuồng luồng... cho thấy vết tích của rồng trong các ngôn ngữ
phương Nam.
Nếu chữ Ngưu được dùng thay chữ Sửu trong tên 12 con
giáp thì nguồn gốc tiếng Hán của chúng có cơ sở chứng minh, nhưng chữ Sửu (và
các chữ khác như Tý, Dần, Hợi) chẳng dính líu gì đến tên gọi 12 con vật trong
tiếng Hán. Một dạng âm cổ phục nguyên của Sửu là *d(t)/ru hay *d(t)lu cho thấy
liên hệ rất gần với âm Việt cổ. Trong An Nam Dịch Ngữ (Nhà xuất bản Đà
Nẵng 1995), Trâu còn được phiên âm là Klâu. Tự điển Việt - Bồ - La
(1651) thì phiên âm Trâu là Tlâu. Các dạng tiếng Mường, Trâu là Tlu -
Klu.
Âm Hợi 亥 có một dạng âm cổ phục nguyên là *ku:i? hay
*gu:i? so với tiếng Mường cúi là con heo (tiếng Việt vẫn dùng từ ghép heo cúi
chẳng hạn) và gỏi
Lý giải về nguyên nhân dẫn đến việc bị “lẫn lộn” về
nguồn gốc 12 con giáp, ông Thông cho rằng “Với
ảnh hưởng quan trọng của nền văn hoá Trung Quốc, từ đời Hán và sau đó là Đường,
Tống... với sức ép của giai cấp thống trị từ phương Bắc tên 12 con vật tổ đã từ
từ được thay thế bằng hình ảnh con người, mang nặng màu sắc văn hoá Trung Hoa
hơn. Từ tính chất cụ thể của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đã trở nên
trừu tượng và còn ảnh hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán). Tuy nhiên,
cái vỏ hào nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể thay đổi được nền văn hoá
bình dân (khẩu ngữ) trong đời sống người Việt”
Sự phát hiện mới mẻ này đã chứng minh cho sự phát triển
của người Việt xưa trong cách tính lịch và làm nên một nền văn minh
lúa nước (nông nghiệp) rực rỡ ở phía Nam Đông Nam Á.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe nhạc phẩm TẾT NGUYÊN ĐÁN của Phương Uyên,
qua tiếng hát Đông Nhi, Ông Cao Thắng, Kyo York,
Hoàng Tôn, Đàm Phương Linh, Yumi Dương:
Nguyễn Cung Thông giới thiệu
Tác giả: Lan Anh
- nguồn email: nguyencungthong@gmail.com
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét