QUỐC NGỮ VÀ NỖ LỰC ‘THOÁT HÁN’
CỦA CÁC VUA NHÀ NGUYỄN
*
(Tác giả Nguyễn Quang Dy) |
Chụp lại hình ảnh,Tranh trên
trang Le Petit Journal vẽ Vua Thành Thái (mặc hoàng bào) và Toàn quyền Paul
Doumer duyệt binh ở Hà Nội năm 1902.
Trên Diễn đàn BBC nhà báo
Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để ghi công và đánh giá những nhân
vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ.
"Các vị truyền giáo có
công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này không có gì quá độc đáo hay quá khó khăn
và giả sử nếu không có họ thì việc đó cũng có thể làm được sau này."
Ý kiến cũng nói rằng Trung
Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác đều đã có những
văn tự bằng tiếng La Tinh nhưng chưa bao giờ trở thành chữ quốc ngữ của họ.
Cũng theo nhà báo Nguyễn
Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá lạc hậu để giới sỹ
phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ
Và rằng chính nỗ lực tiên
phong quảng bá quốc ngữ là của trí thức miền Nam và nhờ chính sách tiến bộ,
khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.
Nhưng tôi nghĩ cũng lạ tại
sao ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh, đều là thuộc địa của Pháp mà
Miên và Lào lại không sử dụng La Tinh làm chữ quốc ngữ.
Ở đây cần xem cả đến công
lao các vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền thời
Pháp thuộc.
Sắc lệnh của Vua Thành Thái
Theo sử gia Liam Kelley
(2016) vào đầu thế kỷ XX cả người Pháp lẫn những nhà cách mạng đều không đủ
quyền lực để chữ Quốc ngữ có thể lan ra sâu rộng xuống đến tận làng quê.
Qua nghiên cứu những nguồn
tài liệu trong giai đoạn này, sử gia Liam Kelley kết luận chính nhà Nguyễn mới
đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục.
Trong bài "Emperor
Thành Thái's Educational Revolution", Liam Kelley (2016) đã công bố sắc
lệnh của vua Thành Thái được lưu trữ trong Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên.
Bài viết được Nguyễn Hồng
Phúc lược dịch có đoạn như sau:
"Hoàng đế Thành Thái đã
tuyên bố trong một sắc lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông (năm 1906), cha
mẹ có thể quyết định việc cho con theo học một trường ấu học Hán văn hoặc một
chương trình giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ).
Với những người học theo
chương trình Hán văn, sẽ có một cuốn sách giáo khoa được soạn ra nhằm giới
thiệu những từ chữ Hán theo cấp độ khó dần. Nó cũng bao gồm một danh mục các
Hán tự kèm theo phiên âm và định nghĩa bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu.
Trường thi
Chụp lại hình ảnh,Tranh vẽ
trường thi Hán học ở Bắc Kỳ - hình của Chris Hellier/Corbis
…Trong khi, một cuốn sách
giáo khoa bằng quốc ngữ khác sẽ được soạn ra để dạy những người theo chương
trình học 'Nam âm' nhằm giới thiệu cho họ những thông tin cơ bản về xứ Đông
Dương, thiết chế cai trị của nó, những phong tục tập quán...
Thêm vào đó, cũng có thêm
một cuốn sách nữa được dịch từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung cấp những loại
thông tin mà học viên đang luyện thi khoa cử cần biết. Bản dịch này được soạn
ra cho những người không muốn thi khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa vào chương
trình để cho họ biết thêm về những gì mà những người đang luyện thi khoa cử phải
học…"
Sắc lệnh này vô cùng quan
trọng vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai ý
định muốn thấy tầng lớp quan lại và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung Hoa
trong giáo dục, văn hóa, và nhất là tư tưởng.
Vừa thoát Trung vừa chống Pháp
Xin nhắc lại về cuộc đời vị
vua trẻ tuổi.
Sinh năm 1879, vua Thành
Thái lên ngôi năm 1889, khi mới 10 tuổi, và đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị.
Ngài bị quản thúc ở Vũng Tàu
rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion.
Vua là người cầu tiến, học
tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc Âu phục, phong cách
của người theo tân học.
Vua thường xuyên tiếp xúc
với sỹ phu và dân chúng, đồng thời trọng dụng nhiều nhân tài, thanh liêm, đức
độ với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước.
Sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ
chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ quốc ngữ.
Cắt tóc ngắn trở thành một
dấu hiệu của người theo tân học.
Nhiều thanh niên lúc ấy sắm
cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận động cắt tóc và vận động canh tân.
Đến khi Vua bị người Pháp ép
thoái vị năm 1907 hình ảnh một vị vua yêu nước, chống Pháp, cắt tóc ngắn nhanh
chóng lan tỏa xuống đến tầng lớp nông dân.
Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ
tỉnh Quảng Nam, nông dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện đòi
giảm sưu giảm thuế.
Tất cả đều hớt tóc ngắn đi
thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định, Phú Yên và ra Bắc đến
Nghệ An, Hà Tĩnh.
Pháp và triều Nguyễn gọi
cuộc biến động này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc đồng bào, sau được
đổi lại là cuộc Dân biến Trung kỳ.
Đây là cuộc đấu tranh bất
bạo động đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đoàn biểu tình lấy biểu tượng là
Vua Thành Thái một vị vua yêu nước, theo tân học nhưng chống Pháp.
Như vậy ngay từ đầu thế kỷ
thứ 20, người Việt đã công khai thực hành phương pháp đấu tranh bất bạo động
với biểu tượng vua Thành Thái, có tổ chức, có chiến thuật, có mục tiêu và có
chiến lược một cách rất rõ ràng.
Cuộc đấu tranh bất bạo động
bị Pháp đàn áp dã man. Nhiều người tổ chức và tham dự bị bắt, phong trào Duy
Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục bị dập tắt.
Các vị vua tiếp tục cải cách
Chụp lại hình ảnh,Hoàng đế
thứ 12 của triều Nguyễn, Khải Định trong cuốn 'The Peoples of All Nations,
Their Life Today and the Story of Their Past, tập I' do JA Hammerton biên soạn
và xuất bản ở London năm 1922
Năm 1907 vua Duy Tân tiếp
nối việc cải cách giáo dục bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản việc
học hành và thi cử.
Thượng thư Bộ Học Cao Xuân
Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài, bỏ đi kiểu học từ chương, xa
rời thực tế và chủ trương phát triển nền giáo dục "không học vì bằng
cấp" mà phải học lấy thực tài để ra giúp dân, giúp nước.
Đáng tiếc ông lại hết sức
bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị đưa ra khỏi
nền giáo dục.
Theo Trần Gia Phụng từ năm
1909, chương trình thi Hương bắt buộc thí sinh phải làm các đề thi luận văn
bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ.
Ngày 26 tháng 11 âm lịch năm
Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử
kiểu Hán học.
Năm 1919 là năm cuối mở khoa
thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người Việt
Nam.
Vai trò của các ông giáo trường làng
Bên cạnh các trường công do
triều đình và người Pháp lập ra là một hệ thống trường tư do các thầy đồ sau
chuyển thành thầy giáo làng giảng dạy.
Mỗi làng có khi lên đến vài
ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở nhà người giàu có nuôi thầy cho con ăn
học và cho con các nhà lân cận trong làng theo học.
Thầy đồ đa số là những người
có học, có người đỗ tú tài, có người là quan hồi hưu mở lớp dạy học.
Thầy đồ hoàn toàn tự do
không chịu sự giám sát của triều đình.
Mặc dầu được tự do mở lớp
giảng dạy giới thầy đồ vẫn giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với sách
Thánh hiền.
Các thầy đồ quyết liệt chống
lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ Quốc ngữ
là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền giáo.
Với họ, chữ Hán giáo dục về
luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ để đọc báo, đọc Kinh
Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược, biết đọc chẳng ích lợi gì.
Nhưng khi sắc lệnh cho dạy
Quốc ngữ của vua Thành Thái được ban ra thì chính các thầy đồ đã thay đổi đã tự
học chữ Quốc ngữ để truyền dạy lại cho học sinh.
Ba lớp Đồng ấu học trước khi
học sinh vào tiểu học đều do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn bằng chữ
Quốc ngữ.
Chụp lại hình ảnh,Triều đình
Huế đã có nhiều nỗ lực tự cải cách để hiện đại hóa quốc gia dù không có quyền
lực chính trị
Nhờ thế chữ Quốc ngữ trở
thành phổ thông đại chúng.
Những bộ sách giáo khoa như
Sử ký địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa thư, được
học giả Trần Trọng Kim và các cộng sự biên soạn để dạy lớp ấu học trường làng.
Bộ sách giáo khoa 'Việt Nam
Sử lược' được học giả Trần Trọng Kim soạn để dạy các lớp cao hơn và đã hoàn
toàn chỉ cho những người đã biết Quốc ngữ.
Lên lớp nhì và lớp nhất ở
trường chính phủ, mỗi tuần chỉ dạy chữ quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học
chỉ dạy ba giờ.
Thời gian còn lại học sinh
được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy.
Từ đó ta thấy căn bản tiếng
Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của học sinh hầu như đều thu nhận
được từ các thầy giáo trường làng.
Vua Bảo Đại là người Tây Học
Tốt nghiệp trường Khoa học
Chính trị Paris về nước, vua Bảo Đại bắt tay ngay vào việc cải cách đất nước,
mong từng bước khôi phục lại chủ quyền quốc gia.
Ngày 10/12 năm 1932, vua Bảo
Đại cho công bố đạo dụ nước ta theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà vua sẽ trực
tiếp điều khiển nội các và cho cải cách hành chính, giáo dục và tư pháp.
Một nội các mới đã được
thành lập gồm những người trẻ theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn
Đệ…
Chụp lại hình ảnh,Hoàng tử
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy khi học ở Pháp. Sau ông lên ngôi lấy hiệu là Bảo Đại và
là Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn
Bộ Học được đổi tên thành Bộ
Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam Phong một người luôn
tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành.
Các cuộc cải cách của vua
Bảo Đại đều bị người Pháp cản trở, riêng cải cách về giáo dục nhờ Phạm Quỳnh
được người Pháp tin nên ít bị cản trở.
Chữ Quốc ngữ được tăng giờ
dạy ở các trường công.
Nhờ thế sau khi Nhật đảo
chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5 tháng chính phủ
Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc cải cách lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn
ngữ chính trong giáo dục.
Bộ trưởng Giáo dục Hoàng
Xuân Hãn có công lao lớn khi soạn cả sách toán và kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc
ngữ để dạy ngay trong niên học 1945-46 tại miền Bắc và miền Trung.
Từ 1948 đến 1955, chính phủ
Quốc gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy đến hết bậc
trung học.
Bắt đầu từ chuyển biến tư
tưởng thời Thành Thái
Học tiếng Pháp, theo tân học
thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa nên vua Thành Thái đã hiểu rõ những khái niệm về
tự do, dân chủ, quốc gia, dân tộc, quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách Pháp không
phải từ sách Trung Hoa.
Thay đổi quan trọng nhất của
nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước không còn của nhà vua nữa mà là
của quốc gia của dân tộc.
Quốc gia là một thực thể độc
lập có chủ quyền thoát khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa.
Khái niệm 'quốc gia' bắt đầu
được sử dụng đối nghịch với 'thuộc địa', 'chư hầu'.
Mặc dù không có quyền lực
trong tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành công cải cách từ giáo dục,
văn hóa, đến chính trị đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.
Bài học các vua triều Nguyễn
đã thực hiện là nếu muốn cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư tưởng
cho chính mình.
Vì thế, theo tôi, nhu cầu
thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là cải cách tủn mủn về phát âm, ký
tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi một ý thức hệ duy nhất, vừa thoát Trung để
khôi phục các nền tảng cơ bản cho Việt Nam.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
NGUYỄN
QUANG DY
Địa chỉ: thành phố Melbourne,
bang
Victoria, Australia.
..........................................................................................................
- Cập nhật từ email: nguyenhung967812@gmail.com ngày 25.01.2021
- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét