CÂY GẠO HỌ
TRẦN
VÀ CHIẾC
PHÈNG LA BẤT TỬ
Khi chiều
vừa nhạt nắng, đang vượt qua cánh đồng để về làng, tôi chợt nghe có tiếng
chuông nhà thờ đổ từng chập như nấc cụt, lại đúng bảy tiếng, báo hiệu có người
về nước Chúa. Nghe tiếng chuông báo tử này, ngừơi có đạo lặng làm dấu, đọc thầm
kinh “Vực sâu”.
Đến đầu
làng, gặp anh Thinh con bác phó Lai, tôi hỏi :
- Ai chết mà
chuông báo tử vậy anh ?
- Có ai chết
đâu nào.
- Sao từ
cánh đồng Giáo Phòng tôi đã nghe bảy tiếng chuông ?
- Bác Hảo
ơi, bác nhầm đấy, gần ba mươi năm nay, cái làng Hải Bình này cũng khối
người lầm
như bác, huống hồ bác lại từ xa về.
Anh Thinh
cười cười trả lời tôi, vừa giơ tay chỉ lên cây gạo :
- Bác quên
rồi à ? Chuông chiếc gì đâu, cái phèng la trên ngọn cây gạo họ Trần nhà
bác đấy. Sốt
cả ruột, cứ có tí gió lên là nó la làng la xóm. Hai mươi tám năm rồi, không
hiểu anh Hùng anh buộc bằng thứ dây gì mà bền thế.
Tôi giật
thót người, lạnh cả mình. Hóa ra cái phèng la vẫn còn buộc trên ngọn cây gạo từ
cuối năm 1965 đến nay.
Tôi mời anh
Thinh một điếu ba số gọi là có tý khói ngoại cho nó thơm thảo cái tình kẻ đi xa
về. Quái, kki hút thuốc, anh Thinh vẫn không chịu ném cái tăm ngậm trong miệng
ra. Nhà anh từ đời ông nội đi đâu miệng cũng ngậm cái tăm, kể cả những đận cả
làng cả nước đói lăn đói lóc. Chính vì cái tật ngậm tăm trong miệng này mà bố
anh, bác phó Lai đã bị quy làm thành địa chủ. Bác phó Lai dạy con : “giấy rách
giữ lấy lề, có đói chết mà ngậm cái tăm ra đường, làng nước ngừơi ta cũng không
khinh rẻ mình được”. Khi quay vào nhà mình rồi, anh Thinh còn nói vọng lại :
- Cái phèng
la ấy à, cả làng cầu Chúa khản cả tiếng nó vẫn không rơi xuống, cầu cả huyện,
cả tỉnh, rồi cầu trung ương vẫn không ai giúp làng kéo nó xuống được. Gớm thật,
anh Hùng buộc bằng cái gì mà bền thế. Cả làng xác xơ ra vì mất ngủ.
Hồi bác phó
Lai còn sống, sáng nào thức dậy, ngó lên cây gạo họ Trần, bác cũng chép miệng
bình luận một câu : “Nó buộc bằng cái đếch gì mà bền thế các ông ?”.
Cách đây hơn
một trăm năm, làng Hải Bình của tôi vẫn còn là bãi biển. Có bốn ông tổ gồm một
họ Nguyễn, hai họ Phạm, ba họ Vũ và bốn là họ Trần tới quai đê lập ấp rồi thành
cái làng Hải Bình Đoài này. Bốn ông tổ làng hè nhau trồng bốn cây gạo, cây nào
mang họ của ông tổ ấy. Từ ngày có trí khôn, tôi đã thấy bốn cây gạo đều cao hơn
tháp chuông nhà thờ Hải Bình, gốc chừng ba vòng tay ôm không xuể. Nghe người ta
đồn rằng tháp chuông nhà thờ xứ Lạc Đạo phía trên làng tôi cao nhất Đông Dương.
Nhưng trong mắt tuổi thơ tôi, tháp chuông nhà thờ Lạc Đạo ăn thua gì, so với
cây gạo làng tôi cũng chỉ là con tép.
Mùa xuân từ
các làng khác nhìn về làng mình, tôi thấy giữa trời vươn lên bốn cây đuốc rừng
rực đỏ mà tự hào đến xuýt sái cổ về tầm cao và vẻ đẹp rực rỡ của làng tôi.
Nhiều buổi sáng thức dậy, bầu trời làng tôi náo nhiệt và ồn ã như có giặc. Đó
là cuộc chiến tranh bất tận của hai loài chim quạ và chèo bẻo giành nhau ngọn
của bốn cây gạo để làm tổ. Trong cuộc chiến ác liệt giành quyền sở hữu ngọn
cây, quạ tuy hèn nhưng được ưu thế to xác, lại lắm mồm và thường biết kéo bè
kéo lũ để hăm dọa kẻ địch. Chèo bẻo dù ít hơn nhưng gan cóc tía, tuy nhỏ con
nhưng dữ dằn ít có loài chim nào bằng. Lạ thay, loại chim khác hẳn loài người,
đến kỳ yêu đương, giao phối và sinh nở, chúng hưu chiến liền, chèo bẻo làm tổ
trên cao và quạ làm tổ dưới những cành gạo thấp hơn.
Thuở nhỏ
chăn trâu, cắt cỏ, tôi thường theo sau anh Hùng, con cả bác trùm Bách đi chui
bụi lủi bờ hết bắt chim con đến vơ vét trứng chim cu, lúc thò tay vào lỗ chim
chả, khi dùng nỏ cao su bắn chim cú mèo. Về khả năng leo trèo tôi đâu có thua
gì anh Hùng, nhưng chúng tôi tuyệt nhiên không bao giờ có ý định ngông cuồng
trèo lên cây gạo bắt chim.
Bởi vì cây gạo
đã cao, lại thân quá lớn, da nó sần sùi toàn một thứ gai đến chồn cáo nhìn còn
bỏ chạy.
Khoảng tháng
mười một năm 1965, ngày chủ nhật, tôi từ nơi trọ học trên thị trấn Liễu Đề về,
chưa kịp ngồi xuống cái ổ rơm, mẹ đã thì thào :
- Trên
huyện, người ta chắc đồn về việc anh Hùng lắm nhỉ ?
Tôi ngạc
nhiên hỏi lại mẹ :
- Anh Hùng
nào cơ ?
- Anh Hùng
con bác trùm Bách đó, người đã dám rủ con bơi qua sông Đáy cắt cỏ
năm kia năm
kìa đó.
- …
- Con phải
nghe đài đọc báo chứ, cả xã, cả huyện, cả tỉnh người ta đang phục lăn
anh Hùng vì
tinh thần bắn máy bay của anh ấy.
Khi mẹ con
tôi đang chuyện trò thì nghe tiếng phèng la đánh liên hồi báo động. Quả thực
tiếng phèng la kêu to có lẽ ngang ngửa với tiếng chuông nhà thờ làng tôi. Mẹ
tôi giục :
- Vào hầm đi
con. Đấy, tiếng phèng la của anh Hùng đánh lên từ ngọn cây gạo họ Trần đó.
Mẹ tôi và
tôi ngồi cạnh căn hầm chữ V thì hai máy bay Mỹ bay rất thấp, men sông Đáy vào,
qua làng tôi, tiếng nó đinh tai nhức óc làm rung cả đất. Đồng thời với tiếng
máy bay là tiếng súng trường bắn đuổi vang từ trên nóc cây gạo xuống. Ngoài ra,
từ phía bờ đê sông Đáy, cũng có hàng loạt tiếng súng trường bắn đón đầu máy bay
Mỹ.
Ngày hôm đó,
người tôi cứ bần thần xúc động về anh Hùng con bác trùm Bách. Làm sao mà anh ấy
có thể trèo lên cây gạo to cao và nhiều gai đến như vậy ? Lại tha được chiếc
phèng la to bằng cái mâm đồng, nặng gần chục kí, vốn dùng để đánh trong hội
trống, trong khi rứơc kiệu thánh và nhất là đánh lên từng hồi sau quan tài của
dân làng khi khiêng ra nghĩa địa ? Mới ngày nào, anh Hùng cùng tôi rước lễ cho
cha Thơ. Anh hơn tôi ba tuổi nên luôn được giúp chính, tức là cậu giúp lễ đứng
bên tay phải cha, luôn cầm chiếc chuông nhỏ rung lên khi kinh “Cáo mình” đến
đoạn đấm ngực và lúc Cha dâng mình thánh Chúa.
Ngày chủ
nhật xúc động đó, khi đám máy bay Mỹ đã bỏ bơm ở đâu đó phóng ra biển, vẫn cứ
phải qua làng tôi. Khi tiếng súng của anh Hùng còn chưa dứt, tôi đã chạy ra,
đứng dưới cây gạo họ Trần, gọi tên anh Hùng đến khản cổ. Rằng anh Hùng ơi, em
phục anh lắm, em kính trọng anh lắm. Nhưng vì cây gạo cao quá, đồng thời gió
bấc thổi mạnh quá, anh Hùng không nghe được tiếng gọi của tôi. Cứ ba ngày anh
Hùng lại leo ra một cành cây gạo, thả dây xuống để bên dưới tiếp tế cơm nước và
đạn cho anh. Tôi đã viết cho anh một cái thư có thể là hay nhất xã, cảm động
nhất làng để bày tỏ lòng kính yêu của tôi đối với anh Hùng, nhờ sợi dây đưa cơm
mang lên cho anh.
Mặc dù mới
lấy vợ được năm tháng, anh Hùng đã làm đơn kính gửi chi bộ cho phép anh trèo
lên ngọn cây gạo họ Trần, ở hẳn trên đó chừng nào bắn rơi được ít nhất một cái
máy bay Mỹ mới thôi. Phương án đánh Mỹ đầy ngoạn mục và sáng tạo này của anh
Hùng mau chóng được chi bộ làng và Đảng bộ xã phê duyệt. Chỉ có mẹ và vợ của
anh Hùng can anh nên anh nghĩ lại, rằng trèo lên ngọn cây gạo đó đâu phải
chuyện đùa, rơi xuống một cái chết như chơi. Hai người đàn bà này đã khóc thút
thít tiễn anh lên ngọn cây gạo, đến nỗi Chủ tịch xã phải dìu họ về nhà để khỏi
chứng kiến cảnh trèo cây của anh Hùng.
Suốt một
buổi sáng hì hục với một tấm thân bị gai đâm ứa máu, cuối cùng anh Hùng đã trèo
lên được ngọn cây gạo. Anh thả dây xuống để kéo lên từ từ từng cái một : nào
súng trường, nào đạn, nào chiếc phèng la báo động, chăn màn, quần áo, những
thanh tre thanh gỗ để làm chòi và những tấm ni lông để lợp. Từ xa trông lên,
chòi báo động và chòi chiến đấu của anh Hùng trông như một cái tổ quạ vĩ đại.
Khi vừa chiếm lĩnh được ngọn cây gạo, anh Hùng hăng hái kéo lên ngọn cờ Tổ
quốc, có vẻ như anh thách thức đám tàu bay ngoài biển, có giỏi thì thử bay qua
ngọn cây gạo của ông xem ! Nhưng hai ngày sau, huyện chỉ thị cho anh phải kéo
cờ xuống, lộ mục tiêu, với lại, sợ máy baythấy có cờ nó tránh, khó bắn hơn.
Quả thực, từ
ngày có tiếng phèng la báo động và tiếng súng bắn đón đầu máy bay của anh Hùng,
bà con làng xóm có yên tâm hơn, người già cả nhút nhát bớt sợ tiếng máy bay
thần sấm, con ma… rú rít rùng rợn hơn. Sau khi huyện trang bị cho anh Hùng cái
ống nhòm của Trung Quốc, anh đã nhìn thấy máy bay từ ngoài biển và kịp báo động
cho bà con xuống hầm hoặc phòng ngừa, cho đội du kích dưới đất chuẩn bị hướng
nòng súng lên trời.
Khi đã ở
trên ngọn cây gạo vừa đúng một tháng, vào khoảng cuối tháng mười hai năm 1965,
một chiếc máy bay khi ném bom về bay qua làng tôi đã bị bắn cháy và rơi xuống
biển. Anh Hùng tuyên bố chính anh đã bắn chiếc máy bay F105 đó. Nhưng có đến
chín làng ven biển và ba đơn vị pháo phòng không cùng nhận mình bắn rơi máy bay
ấy. Mặc dù anh Hùng viết thư xuống báo cáo rằng chiếc máy bay bay thấp tí nữa
đâm vào ngọn cây gạo của anh. Rằng anh đã bắn nó khi nó chỉ cách ngọn cây gạo
có một cây sào. Rằng, sau đó anh lại bắn đuổi mấy phát nữa và nó đã bốc cháy
bên màng tang anh, nóng rát. Rằng cái mùi cháy khét của nó còn thấm trong cái
chăn chiên mà anh gửi xuống cho đồng đội dưới đất ngửi, không lại bảo anh nói
điêu. Nhưng cấp trên tuyên bố cần phải có thời gian xác minh xem đơn vị nào, cá
nhân nào đã bắn rơi cái F105 ấy.
Cả làng tôi,
tất cả mọi người dù chưa biết chữ, trừ trẻ con dưới mười tám tuổi, đều ký vào
một bức thư chung gửi lên cấp trên rằng chính mắt mọi người đã nhìn thấy cái
máy bay bốc cháy từ trên ngọn cây gạo của họ Trần, người bắn trúng nó tí tẹo
nữa là chết cháy, chứ lại dân làng Hải Bình vừa theo Đảng, vừa đi đạo đâu có
nhẽ nói ngoa. Anh Hùng chưa chịu xuống đất, anh phải một mình bắn rơi máy bay
Mỹ chứ quyết không bắn rơi một cách tập thể như trên vừa kết luận. Vả lại, có
anh trên ngọn cây làm công tác báo động, làng xóm được nhờ hơn nhiều.
Chi bộ làng
Hải Bình đã kết nạp anh Hùng vào Đảng trong một đêm đầu năm 1966.
Thời gian đi
qua cùng với tiếng máy bay Mỹ gầm thét, tiếng phèng la báo động vang rền và
tiếng súng trường bắn máy bay của anh. Anh Hùng trở thành con chim chèo bẻo của
làng của nước, quyết bắn rơi quạ Mỹ trên điểm cao nhất của quê hương. Tên anh
được nhắc liên tục trên làn sóng đài phát thanh tỉnh và đài truyền thanh của
huyện. Anh trở thành tấm gương cho đám trẻ sắp bước vào tuổi thanh niên là lứa
chúng tôi.
Sau Tết con
ngựa năm 1966, tôi đang bước vào học kỳ hai của năm học cuối cùng phổ thông
trong ngôi trường sơ tán thì nghe một tin dữ về anh Hùng. Rằng anh Hùng đã đột
nhiên biến mất sau khi đã bắn rơi một máy bay Con Ma vừa bay ngoài hạm đội vào.
Có lẽ nó sợ anh nên bay thấp hơn cả ngọn cây gạo nơi anh đứng bắn. Chính vì vậy
nó mới dễ trúng đạn. Chính huyện đội và tỉnh đội cũng xác nhận anh Hùng đã bắn
rơi cái máy bay đó.
Theo bõ Lý
kể lại rằng khi ông leo lên sân thượng nhà thờ chuẩn bị giật chuông trống nhất
thì nghe có tiếng máy bay vào từ phía biển. Nó bay thấp hơn cây gạo họ Trần. Bõ
nhìn thấy lửa súng trường của anh Hùng bắn xuống cái máy bay. Rồi nó bốc cháy
liền. Nó rơi xuống ở huyện bên cạnh. Bõ còn nhìn thấy một bóng người rơi xuống
sông làng. Bõ tin rằng đó là tên phi công nhảy dù xuống. Bõ liền kéo chuông nhà
thờ báo động, cái ký hiệu được học từ trước, rằng địch nhảy dù xuống làng ta.
Thế là nam phụ lão ấu cả làng lao ra tay súng, tay dao, tay gậy quyết bắt cho
bằng được tên giặc lái. Nhưng mọi người quần cho tới sáng cũng chẳng phát hiện
ra tên giặc lái đâu.
Khi ngừơi
liên lạc dưới đất bắn một phát súng trường chỉ thiên để anh Hùng thả dây liên
lạc xuống theo quy ước thì bộ chỉ huy dưới đất vô cùng sửng sốt vì anh Hùng
không có trên ngọn cây. Người ta đưa ra nhiều giả thuyết về sự mất tích của anh
Hùng. Hay là anh đã hy sinh vì nằm trên ngọn cây. Nhưng nếu anh chết trên ngọn
cây, chỉ sau một tiếng đồng hồ, quạ đã la làng lên rồi kéo nhau đến dự tiệc.
Hay anh bị giặc chộp mất từ cửa máy bay ? Ngừơi ta đề nghị phong anh danh hiệu
anh hùng nhưng cần phải điều tra cho ra về sự biến mất của anh.
Sau khi anh
Hùng mất tích một tuần lễ, bọn thanh niên chúng tôi theo gương anh tình nguyện
vào bộ đội, rồi lên đường vào Nam chiến đấu. Trong số mười hai anh em đi B đợt
năm 1966 của làng Hải Bình chúng tôi, cuối năm 1975 chỉ còn tôi và một thương
binh sống trở về làng. Lúc đó, sau chín năm bặt tin, tôi mới biết rằng trong
lúc bắn máy bay trong đêm năm 1966 xa xôi ấy, anh Hùng đã trèo ra chót một cành
cây nhỏ, cành cây đột nhiên gãy làm anh rơi xuống sông cùng với khẩu súng khiến
bõ Lý tưởng lầm là tên phi công nhảy dù ra. Sau gần một tháng, người ta mới vớt
được xác anh Hùng trôi tấp vào gần bót Kim Đài nơi kề cửa sông Đáy. Chiếc máy
bay Con Ma mọi người ngờ là do anh Hùng bắn rơi, thực chất là một chiếc Míc của
ta chiến đấu với máy bay địch bị chúng hạ đang trên đường rơi vèo qua làng tôi
sát sạt cây gạo họ Trần. Mặc dù vậy, xã và huyện vẫn truy điệu anh Hùng như
truy điệu một dũng sĩ diệt Mỹ.
•
Từ năm 1975
đến nay, lần này (1993) là lần thứ tám tôi về thăm quê. Lần nào người ta cũng
nhắc đến anh Hùng như vừa mới ngày hôm qua thôi anh còn ngồi trên ngọn cây gạo,
báo cho bà con chỉ một chớp mắt nữa là bom đạn có thể nổ trên đầu. Chiếc phèng
la đưa đám ma anh treo lên ngọn cây gạo hai mươi tám năm rồi vẫn còn nguyên
đấy. Cứ trời đổi hướng gió hay cả gió một tý là cái phèng la trên cây gạo lại kêu
rền, cao thấp tùy theo cường độ của gió. Có lúc tiếng của nó khản đặc như tiếng
ho của kim loại, khi lại như tiếng chuông rè, lúc là tiếng não bạt của phừơng
trống, rồi lại như tiếng nồi niêu xoong chảo đang đêm ai ném giữa sân nhà.
Những đêm đông và những chiều gió biển, tiếng phèng la kia nghe như hệt tiếng
chuông nhà thờ đang kéo giật cục, báo rằng có người vừa trút linh hồn. Thảo
nào, chiều hôm qua, đang còn đi trên đồng Giáo Phòng, tôi giật mình nghe tiếng
chuông báo tử, theo bản năng, tôi cũng chợt làm dấu thánh, nhẩm vội một kinh
“Vực sâu”.
… Sáng nay,
đang chuẩn bị đồ đạc để từ giã mẹ già về lại Sài Gòn thì anh Chính trưởng ban y
tế xã, vừa đậu bằng bác sĩ tại chức trường đại học y khoa, hớt hãi đến báo cho
tôi : bà cụ trùm Bách mẹ của anh Hùng đã mất cách nay ba ngày bên làng Thiên
Giáo, sáng nay động quan, nghe đâu lại đưa về nghĩa địa làng ta chôn cạnh mộ
anh Hùng.
Mấy lần về
quê đợt trước, tôi đã biết cụ bà trùm Bách cùng ngừơi con dâu tên Mỵ, vợ góa
anh Hùng đã dọn sang làng bên cạnh ở với thằng con anh Hùng giờ đã con đàn cháu
đống. Có lần đến thăm, tôi hỏi chị Mỵ :
- Sao chị
với bác bỏ làng đi ?
- Tại cái
phèng la trên ngọn cây gạo ấy chú ạ. Đêm đêm, tiếng nó kêu như tiếng ma ám lấy
mẹ con tôi. Mỗi lần nghe gió đập cái phèng la vào ngọn cây gạo, tôi lại nát
ruột gan, như thể nhà tôi lại phải rơi xuống sông một lần nữa vậy. Còn bà cụ
thì phát điên lên. Tối nào cụ cũng cầu Chúa và Đức Mẹ ban cho mình được điếc
đặc cả hai tai. Nhưng Chúa lại không cho cụ điếc chú ạ. Chúa tiếp tục thử thách
sự đau khổ của mẹ con chúng tôi. Đành đổi thổ ngơi ông bà cho người ta để lấy
căn chòi ngoài đồng làng Thiên Giáo này đó. Cụ trốn được tiếng phèng la, lại
được gần thằng cháu nội, đứa con anh Hùng để lại. Chú biết không, lúc anh Hùng
hi sinh, cháu nó còn trong bụng mẹ…
- Sao cụ với
chị không làm đơn xin cấp trên tìm cách lấy cái phèng la kia xuống ?
- Ôi, làm có
đến hàng xấp chả ăn thua. Xã với huyện có cho rao ai lấy được cái phèng la
xuống sẽ thưởng cho một triệu đồng, rồi nâng đến năm triệu nhưng chẳng ai dại leo
vào chỗ chết. Có hai tay ở huyện bên ham tiền leo lên cây gạo, nhưng họ mới leo
được năm bảy mét đã rơi xuống gãy xương. Vả lại, từ khi anh Hùng lâm nạn, ai
cũng đồn ma cây gạo họ Trần ghê lắm. Có lần xã tính cho người chặt cây gạo họ
Trần. Ông trưởng họ Trần huy động bà con trong họ cả trăm người ra bao vây gốc
gạo, thề quyết sống mái. May có bác Tùng trưởng ban tuyên huấn luyện về bảo :
Sao lại chặt cây gạo anh Hùng ? Đây là truyền thống, cây tuyên truyền giáo dục
cháu con, anh nào chặt nó tù mọt gông. Bác Tùng lại bảo : phải để nguyên cái
phèng la báo động trên đó, nhắc nhở làng Hải Bình dù trăm năm nữa cũng vẫn phải
cảnh giác với quân thù…”.
… Năm 1985,
sau khi cả nước đã có hòa bình mười năm, một đêm mẹ tôi đang mơ ngủ, chợt nghe
gió rung tiếng phèng la. Mắt nhắm mắt mở, mẹ tôi nhảy vội xuống giường tìm căn
hầm tránh máy bay Mỹ. Đến khi vấp ngã chảy máu chân, mẹ tôi mới biết mình lầm.
Rõ là lẩm cẩm, người già hay lẫn mà. Mẹ cười cười bình phẩm về cái vụ vấp ngã
kia và tiếp tục kể cho tôi nghe về tác động của tiếng phèng la đối với dân
làng. Rằng có mấy bà già mới mười hai giờ đêm đã tưởng chuông trống nhất khi
nghe tiếng phèng la kêu, vội đến nhà thờ ngồi chờ mấy tiếng mới có lễ. Nhưng
sau hai mươi mấy năm, giờ người giáo dân làng Hải Bình đã phân biệt được tiếng
phèng la trên cây gạo và tiếng chuông nhà thờ.
Tôi theo anh
bác sĩ Chính ra phía nhà thờ đưa tiễn bác trùm Bách về nghĩa địa làng. Chúng
tôi cùng dân làng Hải Bình nối đuôi nhau đưa tiễn mẹ người anh hùng năm xưa về
với đất. Anh Chính ghé tai tôi nói nhỏ :
- Đợt này tớ
xin nghỉ chức Trưởng trạm y tế xã ?
- Sao vừa
đậu bằng bác sĩ đã nghỉ ngang xương vậy ?
- Trên phê
bình quá. Năm nào cũng hạng bét về sinh đẻ có kế hoạch. Làng Hải Bình ta mắn đẻ
nhất nước. Nhà nào cũng tám, chín, mười đứa con. Là nhà báo, về trung ương nhờ
ông viết bài sao cho nhà nước cho một cái trực thăng, bay qua cây gạo họ Trần,
tháo cái phèng la xuống cho nó bớt đẻ đi.
Tôi tỏ ra
không hiểu ý anh Chính. Anh lại nói thầm vào tai tôi cái ý tưởng không được
nghiêm chỉnh cho lắm trong lúc quan tài ngừơi mẹ anh Hùng đang hạ huyệt :
- Cái phèng
la đêm đêm vô cớ đánh thức đám trai lực điền dậy. Nó còn biết làm gì ngoài cảnh
ôm nhau như ếch…
Đã cuối thu,
trời se lạnh. Sương mù đã lảng vảng trên ngọn cây gạo họ Trần. Mọi người cầu
kinh lần cuối và người ta lấp đất lên nấm mộ người mẹ. Cạnh đó là ngôi mộ của
anh Hùng trơ trọi cây thánh giá gỗ giữa đám cỏ gai.
Chợt gió lại
đập cái phèng la vào ngọn cây gạo, phát ra một tiếng nghèn nghẹn như tiếng nấc
của vòm trời. Chị Mỵ cùng đám con cháu đang khóc lóc chợt ngừng bặt, mắt ngó
lên tìm tán cây gạo.
Tôi nhìn
thằng con trai chị Mỵ giờ đã hai mươi bảy tuổi, giống anh Hùng đến giật mình.
Đứa cháu nội của người quá cố chợt ngồi xuống nấm mộ bố nó ở bên, đoạn nói với
chị Mỵ :
- Mẹ, ngày
mai con quyết trèo lên cây gạo tháo cái phèng la của bố xuống.
Chị Mỵ chợt
òa khóc.
Hình như bắt
đầu có gió mùa đông bắc.
Tôi thầm nói
với lòng mình, cũng như nói với ngừơi quá cố : “Với những con người ở cái làng
luôn luôn bị báo động này, chiến tranh hình như vẫn chưa chấm dứt”.
*.
TRẦN MẠNH
HẢO
Địa chỉ: Số nhà 220/22 phố Hồ Văn Huê,
quận Phú
Nhuận, thành phố Sài Gòn
Email: hungdimy@yahoo.com
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ
email: datinh_1974@yahoo.com ngày 29.03.2021
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích
đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét