NGUYÊN NGỌC - NHỮNG SUY TƯ
Ở TUỔI “NHÂN SINH THẤT THẬP”
*
(Tác giả Nguyễn Thế Khoa) |
Nguyên Ngọc tên thật là Nguyễn
Văn Báu, sinh ngày 5/9/1932 tại Hội An, Quảng Nam. Người lính cầm bút của xứ sở
“chưa mưa đà thấm” này đã nổi tiếng từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước, khi
chưa đầy 30 tuổi, với các tác phẩm văn xuôi xuất sắc: tiểu thuyết “Đất nước
đứng lên”, truyện vừa “Mạch nước ngầm”, và tập truyện ngắn “Rẻo cao”. Trong
kháng chiến chống Mỹ, với bút danh Nguyễn Trung Thành, ông là tác giả của những
“Đường chúng ta đi”, “Rừng xà nu”, “Đất Quảng”... từng chấn động một thời.
Năm 2002 này, Nguyên Ngọc bước
sang tuổi 70. Nhà văn của những anh hùng ca tiêu biểu của đất nước trong hai
cuộc kháng chiến năm xưa dù vẫn tiếp tục cho ra đời những sáng tác xúc động về
kháng chiến: “Có một con đường mòn trên biển”, “Cát cháy”, “Tháng Thinh
Nông”... nhưng hình như ông đang lặng lẽ hướng tinh lực của mình vào những lĩnh
vực khác. Nguyên Ngọc vẫn đọc, đi và viết, với sự sung sức và nhạy bén kỳ lạ.
Dù nhà ông ở số 8 Lý Nam Đế - Hà Nội, nhưng ông rất ít khi có mặt ở đó, trừ lúc
đau ốm. Khi cần gặp ông, người ta rất khó biết ông đang ở đâu: ở miền Trung,
Tây Nguyên hay đồng bằng sông Cửu Long. Ông luôn làm ta bất ngờ trước khả năng
tiếp nhận cuộc sống và kiến thức khoa học mới, trước sức đi, sức nghĩ và sức
làm việc của ông ở ngưỡng cửa của tuổi “nhân sinh thất thập”. Bây giờ người ta
gọi ông là nhà “Tây Nguyên học”, “Quảng Nam học” bởi những hiểu biết phong phú
và sâu sắc cùng lòng nhiệt thành của ông đối với hai vùng đất đặc sắc và bí ẩn
này của đất nước. Ông chủ biên chuyên san Ngok Linh về văn hoá Tây Nguyên và
công trình nghiên cứu văn hoá xứ Quảng. Tiểu luận “Phương Nam trong văn hoá
Việt” là một bút ký khoa học giàu sức chinh phục về quá trình mở nước của cha
ông và qui luật tiếp biến của văn hoá dân tộc. Những năm gần đây, Nguyên Ngọc
đã giới thiệu và dịch hai quyển sách kỳ thú về đất nước và con người Tây Nguyên
của Comdominas và Dournes: “Kỳ lạ mỗi ngày” và “Rừng - Đàn bà - Điên loạn” và
các công trình quan trọng của các nhà lý luận văn học và cách tân tiểu thuyết
nổi tiếng thế giới: Roland Barthes, Jean Paul Satre và Kundera.
Trò chuyện với Nguyên Ngọc bao
giờ cũng rất thú vị. Những điều ông nói có thể không phải bao giờ cũng đúng
nhưng đều là những điều được ông chiêm nghiệm, nghiền ngẫm, tâm đắc và bao giờ
cũng gợi lên những vấn đề đáng quan tâm suy nghĩ.
Tôi có dịp gặp và trò chuyện với
nhà văn Nguyên Ngọc tại nhà riêng ông ở khu tập thể Văn nghệ quân đội - 8 Lý
Nam Đế - Hà Nội vào mùa hè 2002. Nguyên Ngọc vừa từ Tây Nguyên trở về và vừa
trải qua một cơn ốm nặng. Dù còn rất mệt, ông vẫn sôi nổi trò chuyện cùng tôi.
Câu chuyện bắt đầu từ Tây nguyên đến những vấn đề của văn học, văn hoá của cả
nước...
- Ai cũng biết Tây Nguyên là mối
quan tâm thường trực trong anh từ nhiều năm nay. Anh đã đến Tây Nguyên từ những
năm còn rất trẻ và mấy chục năm qua, anh luôn gắn bó với quê hương của “Đất
nước đứng lên”, “Rừng xà nu”... Tây nguyên đang trở thành một vấn đề thời sự...
- Tây Nguyên là một vùng đất quan
trọng của Tổ quốc ta. Đồng bào các dân tộc Nam Trường Sơn đến với cộng đồng các
dân tộc Việt Nam muộn nhất nhưng lại hết sức thuỷ chung son sắt và có những
đóng góp lớn lao trong hai cuộc kháng chiến cứu nước. Khó có thể hình dung được
cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kháng chiến chống Mỹ của đất nước ta
mà không có Tây nguyên. Cuộc quyết chiến chiến lược giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước kết thúc ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn nhưng đã thực sự bắt đầu từ
chiến công giải phóng Buôn Ma Thuộc ngày 8/3...Giờ thì chiến tranh đã qua lâu
rồi, mấy chục năm rồi. Tây Nguyên đã phát triển, biến đổi rất nhiều, thậm chí
theo một số chỉ số nào đó còn phát triển nhanh hơn nhiều vùng khác của đất
nước. Đất đỏ Ba dan phì nhiêu và rừng đại ngàn được triệt để khai thác, nửa
triệu hécta cây cao su, nửa triệu hécta cà phê đã được trồng, đường sá, thuỷ
điện Ialy, đường dây 500 KV, các thành phố thị xã giàu có lên thấy rõ... Nhưng
theo tôi để Tây Nguyên phát triển sâu sắc, ổn định và bền vững, cần chú ý hai
điều rất cơ bản mà rất tiếc vừa qua có lúc chúng ta đã quên. Thứ nhất, Tây
Nguyên là một trong ba vùng dân tộc lớn nhất của nước ta với những đặc điểm của
tự nhiên, con người, văn hoá xã hội rất riêng biệt. Thứ hai, phát triển Tây
nguyên trước hết là phải vì lợi ích của nhân dân các dân tộc ở đây, người chủ
lâu đời của vùng đất này. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên phải thực sự được
hưởng trước hết những thành quả mà sự đổi mới phát triển đem lại.
- Có nghĩa là chúng ta chưa thực
sự coi trọng yếu tố văn hoá và con người tại chỗ trong đổi mới và phát triển ở
Tây Nguyên?
- Đó là một sự thật đáng buồn
nhưng không thể không thẳng thắn nhận ra. Do quá vội vã khai thác tài nguyên
tưởng chừng vô tận ở đây, người ta đã không chú ý đúng mức đến hai điều cơ bản
này. Có thể nói trong sự phát triển chung cũng như trong một số biện pháp cụ
thể chúng ta đã thể hiện sự thiếu hiểu biết những đặc điểm của văn hoá và con
người của vùng đất này.
- Vậy theo anh, để xây dựng và
phát triển Tây Nguyên một cách ổn định, bền vững, chúng ta cần phải hiểu những
đặc điểm gì?
- Cần phải hiểu đối với đồng bào
các dân tộc Tây Nguyên, rừng và làng là như thế nào!
- Anh vẫn thường nói văn hoá Tây
Nguyên là văn hoá rừng, văn hoá làng. Anh có thể nói rõ hơn?
- Văn hoá - Culture - theo nghĩa
gốc của nó là canh tác, là gieo trồng. Thật đúng, phải không? Văn hoá là cái mà
con người gieo trồng trên đất đai, trên tự nhiên, là dấu ấn người trên tự
nhiên. Có hàng trăm định nghĩa về văn hóa nhưng định nghĩa nào cũng phải có hai
yếu tố cơ bản: con người và tự nhiên. Văn hoá chính là kiểu cách con người quan
hệ với tự nhiên và từ đó quan hệ với nhau.
Con người Tây Nguyên từ nghìn đời
nay đã xây dựng được một nền văn hoá cho phép con người ta sống hài hoà với
rừng núi, không gian sinh tồn của họ. Theo tôi đặc điểm lớn nhất bao trùm nhất,
“sinh tử” nhất của con người Tây Nguyên là sự gắn bó, không, không chỉ gắn bó
mà hoà nhập làm một với rừng. Quan hệ giữa con người với rừng sâu sắc, cơ bản
và lại cụ thể , thể hiện trong mọi mặt đời sống, đặc biệt trong các hệ thống
luật tục nghiêm khắc. Ví dụ luật tục qui định không được làm rẫy trên đỉnh núi
vì đó là nơi Giàng (Trời) ở. Đằng sau cái vỏ tín ngưỡng ấy rõ ràng là ý thức về
bảo vệ môi trường. Hay cái luật tục của người Xơ đăng qui định: mỗi năm làng
chỉ được bẫy nhiều nhất 30 con gà rừng, nếu quá, sẽ bị Giàng phạt. Giàng chỉ
cho ăn chừng ấy. Thực chất đây là nguyên tắc bảo vệ hệ sinh thái. Trong những
năm công tác ở Tây Nguyên, có lần tôi tận mắt chứng kiến một phong tục rất đẹp
của người Ba Na. Một phụ nữ sinh con bị thiếu sữa. Chị ra gốc cây sung đầu làng
lấy rựa chặt nhẹ mấy nhát vào vỏ cây, nhựa sung ứa ra trắng đục. Chị hứng lấy
và xoa lên hai bầu vú mình và tin rằng bầu vú sẽ căng lên và cho sữa. Rồi chị
lấy một lá thuốc, trân trọng đặt vào chạc cây, nói: “ Ta trả tiền cho người
đây”.Người Tây Nguyên không chỉ tin cậy rừng khi sống, khi chết họ cũng hoàn
toàn tin cậy người bạn thân thiết này. Nếu người Kinh nói người chết trở về với
đất, thì người Tây nguyên nói người chết trở về với rừng, được trả lại cho
rừng. Tục “bỏ mả” không chăm sóc người chết nữa vì tin rằng khi trả người chết
cho rừng, rừng sẽ tái sinh cho họ.
- Rừng đối với người Tây Nguyên
thiêng liêng như vậy, nhưng tại sao người Tây Nguyên lại cứ luôn làm rẫy, phá
rừng?
- Thật là một lầm lẫn lớn. Nói
người Tây Nguyên làm rẫy là phá rừng là không hiểu gì về Tây Nguyên, thậm chí
là vu khống cho đồng bào Tây nguyên. Mấy chục năm qua ai là người tàn phá rừng?
Đó là các loại lâm tặc, người đi kinh tế mới, dân di cư tự do, thậm chí là cả
những lâm trường, nông trường chứ hoàn toàn không phải đồng bào các dân tộc Tây
nguyên. Theo truyền thống thường mỗi gia đình Tây Nguyên đều có khoảng trên
dưới 10 cái rẫy. Mỗi cái rẫy họ làm 2, 3 năm, khi nó sắp bạc màu, họ chuyển
sang rẫy khác. Đến khi quay vòng trở lại rẫy cũ, ít ra thời gian cũng đã 20, 30
năm, thừa thời gian để đất rừng màu mỡ lại. Đó là phương thức vừa khai thác vừa
nuôi dưỡng rừng tốt nhất.
- Nhiều người từng cho rằng đó là
phương thức du canh du cư của người Tây Nguyên.
- Đây cũng là một ngộ nhận nguy
hiểm. Người Tây nguyên chỉ làm rẫy quay vòng như vậy trong một khoảng rừng nhất
định chứ không hề du canh, do đó cũng không du cư. Bạn thử quan sát một dân tộc
du canh du cư. Họ sống trong các lều trại cắm lên nhổ xuống dễ dàng. Cừu, ngựa
ăn hết cỏ đồng này họ nhổ trại đi cắm đồng cỏ khác. Một dân tộc du canh du cư
là một dân tộc không có kiến trúc. Các dân tộc Tây Nguyên thì có hẳn một nền
kiến trúc đồ sộ. Nhà Rông Bana, Xơđăng, nhà Dài Êđê với những cây cột một người
cao lớn ôm không hết, những đồng giông dài 30 - 40m chẳng phải là những công
trình kiến trúc hùng vĩ và bền vững sao? Trong nhà Rông bao giờ cũng có một cái
ghế dài có khi cũng vài chục mét. Ghế đó gọi là Kơpang. Đó là chỗ ngồi của dàn
cồng chiêng, của khách mời và các người già kể khan (trường Ca). Người Tây
Nguyên không bao giờ cư trú tạm bợ sao gọi họ là du cư. Lãnh thổ của làng Tây
Nguyên bao giờ cũng ổn định ở một địa điểm thuận lợi cho con người cư trú và
canh tác. Người Tây Nguyên chỉ dời làng trong 3 trường hợp sau:
1- Khi nguồn nước bị ô nhiễm.
2- Khi có bệnh dịch chết người
hàng loạt.
3- Khi có chiến tranh dịch hoạ.
Hồi chống Pháp ông Núp dời làng
là để đánh Tây chứ đâu phải vì tập quán du cư. Rất tiếc là chính nhận định hời
hợt cho rằng đồng bào Tây nguyên du canh du cư lại là cơ sở cho chính sách định
canh định cư ở Tây nguyên từ nhiều năm nay.
Trong xã hội cổ truyền Tây nguyên
và đến nay vẫn còn rất đậm, làng là đơn vị cơ bản và duy nhất. Người Tây Nguyên
không biết đến một tổ chức xã hội nào cao hơn làng. Trên làng không còn gì nữa,
dưới làng cũng không. Con người Tây Nguyên gắn bó đến mức như hoà tan trong
cộng đồng làng. Với họ làng tức là đất nước, tức là Tổ quốc. Cộng đồng làng đói
cùng đói, no cùng no. Không bao giờ có chuyện riêng ai chết đói. Có chết thì
cùng chết cả làng. Đối với người Tây Nguyên không đau khổ nhục nhã nào lớn hơn
bị loại ra ngoài cộng đồng làng. Tôi từng nghe một chuyện thật đau lòng. Có
lần, ở một làng Bana, khi săn được một con heo rừng, thịt được chia đều cho mọi
người trong làng. Chẳng may, người chia vô tình bỏ sót một thanh niên. Vô cùng
đau khổ, cho là mình đã bị loại ra khỏi cộng đồng làng, anh ta ra rừng treo cổ
tự vẫn. Điều đáng chú ý là làng chính là chủ sở hữu của rừng. Rừng núi mênh mông
thế nhưng đều đã được phân chia rành rẽ cho các làng. Mỗi làng đều có ranh giới
cụ thể từ khe núi này, qua suối nước kia đến hốc đá nọ, cây cổ thụ kia. Rừng là
sở hữu tập thể của cộng đồng làng được dân làng bảo vệ, được quản lý bằng hội
đồng già làng. Do điều kiện địa lý và lịch sử, làng Tây Nguyên đang bảo tồn
ngay trong đời sống hiện tại rất nhiều yếu tố đặc sắc của văn hoá cổ Việt.Nhiều
nhà khoa học đã tìm thấy những đấu vết sống động của văn hoá Đông Sơn ngay
trong đời sống hàng ngày của Tây nguyên hiện nay. Có thể nói đây là bảo tàng
sống duy nhất còn lại của văn hoá cổ Việt. Nếu để làng tan rã, con người sẽ bơ
vơ, tha hoá, văn hoá Tây Nguyên sẽ suy sụp. Mà cơ sở của làng là rừng, không
gian sinh tồn của làng là rừng. Nếu mất rừng, làng Tây Nguyên thực chất sẽ
không còn tồn tại. Đáng buồn là trong thực tế nhiều việc làm thiếu ý thức,
thiếu thận trọng của ta ở đây đã đưa đến nguy cơ phá vỡ làng, đơn vị tế bào cơ
bản nhất của xã hội này.
- Nhưng Tây Nguyên cũng phải phát
triển biến đổi để đi lên như bất cứ vùng đất nào của đất nước, phát triển và
hoà nhập cùng đất nước. Mà sự phát triển nào cũng đòi hỏi phải phá vỡ cơ cấu
cũ, tạo dựng cơ cấu mới. Ví như Tây Nguyên hôm nay không chỉ có làng mà phải có
xã, huyện, tỉnh...
- Tôi đồng ý với bạn, Tây Nguyên
nhất thiết phải phát triển. Không thể không có Tây Nguyên trong đội hình phát
triển chung của đất nước. Ai cũng biết qui luật tồn tại của văn hoá là biến
đổi, tiếp nhận và phát triển chứ không đứng im. Nhưng để có thể tiếp nhận, biến
đổi tốt, lành mạnh, ổn định, thì truớc hết phải có nội lực văn hoá vững mạnh.
Cơ sở của nội lực văn hoá Tây nguyên chính là rừng và làng. Đơn giản, vội vã
phá vỡ các cơ sở đó đi, sự biến đổi tất sẽ rối loạn và sẽ bị các lực lượng thù
địch lợi dụng.
- Có lẽ, không riêng gì với Tây
Nguyên, sự phát triển đổi mới, nếu muốn thực sự thành công phải bắt đầu từ nội
lực truyền thống, từ nội lực văn hoá?
- Có lẽ không hề là cường điệu
khi nói đất nước mình đang trải qua một cuộc chiến đấu mới, cuộc chiến đấu để
xây dựng và phát triển. Những khó khăn thách thức, theo tôi, là lớn vô cùng. Do
hoàn cảnh lịch sử, dân tộc ta có cả một kho tàng kinh nghiện phong phú về chiến
tranh, về bảo vệ Tổ quốc nhưng về xây dựng đất nước thì kinh nghiệm chưa nhiều.
Trong quá khứ, chúng ta chưa bao giờ có một trăm năm thực sự hoà bình nào cả để
yên ổn xây dựng đất nước. Đó là một thiệt thòi, một khoảng trống lớn trong
truyền thống dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã làm tốt cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Một trong những nguyên nhân quan
trọng để chúng ta chiến thắng ngày hôm qua là do chúng ta đã biết tìm ra chỗ
mạnh, chỗ yếu của mình, “ biết người biết mình”. Hôm nay trong sự nghiệp xây
dựng hoà bình, muốn thắng lợi, ta cũng không thể làm khác, phải biết được cái
mạnh của mình, và có lẽ lúc này càng quan trọng hơn là phải biết được cái yếu
của mình. Nhận ra cái dở, cái yếu của mình không bao giờ là công việc dễ dàng
và hình như ta cũng không giỏi lắm về chuyện này. Dân tộc ta có một lịch sử vĩ
đại, có nhiều ưu điểm nổi bật nhưng cũng có không ít nhược điểm, hạn chế. Đảng
ta cũng vậy. Muốn đổi mới và phát triển thành công, không những phải bắt đầu từ
truyền thống, mà còn phải biết vượt qua truyền thống, biết khắc phục những
nhược điểm, hạn chế vốn có ngay trong truyền thống.Nên chăng có một cuộc tự phê
bình lớn trong xã hội hiện nay và có lẽ văn học phải đi đầu trong công việc cần
thiết này. Nhà văn Lỗ Tấn của Trung Hoa là một bài học lớn cho chúng ta .
- Nếu bây giờ Nhà văn Nguyên
Ngọc, với tư cách một nhà văn cộng sản, một chiến sĩ cầm bút, với tư cách một
người đã từng lãnh đạo văn nghệ trong chiến tranh và cả trong những năm hoà
bình, cần phải tự phê bình, anh sẽ tự phê như thế nào?
- Cuộc đời tôi không bao giờ tách
phần sáng tác với việc gọi là làm lãnh đạo. Với tôi, thật tự nhiên, cả hai đều
là công tác cách mạng. Tôi viết như thế nào thì tôi lãnh đạo thế ấy. Đó là điểm
mạnh và cũng là điểm yếu của tôi chăng? Bây giờ nhìn lại thấy rõ có lúc mình ấu
trĩ, có lúc mình giáo điều, cũ kỹ, có lúc mình cứng nhắc. Mình đã có những cái
đúng và cái sai cùng với cái thời của mình. Nhưng mình đã sống hết mình và chân
thật, không bao giờ cơ hội. Mình quả thật đã là nhà văn của một thời, thời đất
nước chiến tranh, trận mạc. Bước sang thời kỳ mới văn chương đòi hỏi một giọng
điệu mới, một cách thể hiện mới. Tôi đã nhiều lần thử thay đổi giọng điệu, cách
viết nhưng chẳng dễ gì. Có một nhà văn đã nói rất đúng “Các từ có một trí nhớ
ngoan cố và dai dẳng”. Nhiều lúc tôi muốn thử viết như anh Nguyễn Huy Thiệp,
nhưng rồi ngồi viết dăm ba câu, lại trở lại giọng của “Đường chúng ta đi”. Mỗi
nhà văn có ngôn ngữ nghệ thuật riêng của mình, cả cuộc đời mình đã tạo nên nó
như thế, mình đã sống hết mình với nó và trả giá cho nó, nên rất khó có thể
thay đổi. Tuy vậy, tôi rất mừng khi được chứng kiến và cổ vũ cho sự xuất hiện
những tài năng văn học mới, rất khác thế hệ chúng tôi, những tài năng văn học
mà cuộc sống đất nước hôm nay đang cần đến.
- Trong bài viết “Chiến trường
những năm tháng sống và viết” cách đây ít năm, anh đã viết: “Một nền văn học là
gồm những tác phẩm, ưu tú và chưa thật ưu tú, đã đành. Một nền văn học còn là
một kiểu nhà văn. Kiểu nhà văn nào thì tạo ra nền văn học ấy...”. Trong những
năm tháng chiến tranh, chúng ta tự hào với một kiểu nhà văn - chiến sĩ, những
Nam Cao, Trần Đăng, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Chu Cẩm Phong, Dương Thị Xuân
Quý... Còn bây giờ đất nước đang cần kiểu nhà văn nào?
- Ở bài viết đó, tôi cũng đã
viết: “Ở chiến trường, tôi có những người bạn cầm bút đã vượt qua được một cách
đẹp đẽ sự thử thách mất còn của nghề cầm bút - nếu có thể gọi công việc cầm bút
là một cái “nghề”. Nghề “cầm bút”, trước hết và sau cùng là “nghề” làm người.
Và có lẽ, ở chiến trường, hơn ở đâu hết, sự thật đó càng khắc nghiệt. Mà nghĩ
cho cùng, chẳng phải chỉ ở chiến trường, ở đâu và bao giờ cũng vậy thôi”.
Văn học trong chiến tranh chủ yếu
là văn học tuyên truyền, cổ vũ. Văn học lúc đó nhất thiết phải làm tuyên truyền
cổ vũ cho cuộc chiến đấu mất còn của đất nước. Trong nền văn học tuyên truyền
ấy, một số nhà văn tài năng đã vượt qua cái ngắn hạn tất yếu của tuyên truyền
cổ vũ, làm nên một số tác phẩm để đời. Chính là nhờ lúc bấy giờ, họ thực sự là
những nhà văn - chiến sĩ. Họ không phải là những nhà văn đi thực tế. Họ là
những người cầm súng thực thụ, trải qua những thử thách sinh tử cùng đồng đội
cùng nhân dân. Văn học không phải được viết từ những trang ghi chép. Ghi chép
chỉ là một thao tác chuyên môn. Nhà văn viết bằng những trải nghiệm, những kỷ
niệm, những trả giá của chính mình. Điều đó có lẽ không chỉ đúng với văn học
chiến tranh mà còn đúng với văn học thời bình. Văn học hôm nay cần phải rộng mở
hơn, nhân bản hơn, sâu sắc hơn, trí tuệ hơn, đòi hỏi những phương thức tiếp cận
và thể hiện mới nhưng mục đích của văn học thì vẫn chẳng bao giờ thay đổi. Đất
nước vẫn đang rất cần những nhà văn biết sống hết mình với đất nước, với nhân
dân, với đồng loại như vậy bởi vì chúng ta đang trải qua một cuộc chiến đấu,
chiến đấu “chống nghèo nàn, lạc hậu”, chiến đấu để “công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”, chiến đấu để xây dựng một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”. Phẩm
chất cần nhất của một nhà văn hôm nay là gì? Là dũng khí phản ánh sự thật,
chống lại cái xấu, cái ác, cái giả dối, dám chấp nhận những thiệt thòi hy sinh
để bảo vệ điều tốt, bảo vệ người lương thiện, bảo vệ chân lý, đủ sức vượt qua
những cám dỗ của lợi danh, tiền bạc...
- Đất nước chúng ta đang bước vào
thế kỷ toàn cầu hoá, thế kỷ của giao lưu và hội nhập. Điều làm nhiều người lo
lắng là sự đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc hôm nay và trong tương lai. Anh
nghĩ sao về điều này?
- Moị dân tộc đều phải lo gìn giữ
bản sắc dân tộc của mình. Văn hoá các dân tộc tạo nên sự phong phú của văn hoá
thế giới. Nhưng thế nào là giữ gìn bản sắc? Bản sắc văn hoá không phải là cái
gì bất biến, khư khư, đứng im. Đứng im, bất biến – trong thế giới biết bao xao
động ngày nay – thì cũng sẽ dẫn tới đánh mất cái gọi là bản sắc. Nói theo một
cách nào đó, văn hoá cũng tức là tiếp biến văn hoá. Và để tiếp biến văn hoá
tốt, lành mạnh, sung sức thì , xin nhắc lại một lần nữa, phải có nội lực mạnh.
Có lẽ điều đáng lo nhất hiện nay là phải thật sự lo củng cố nội lực. Đừng lúc
thì khăng khăng đóng cửa, lúc thì bảo phải mở cửa. Đóng hay mở không phải là
chuyện tuỳ hứng mà được trong thời đại mà thông tin đã làm cho trái đất nhỏ lại
như một cái làng này đâu.
Bản sắc văn hoá không chỉ là cái
gì cụ thể, không chỉ là cồng chiêng, hay “tom tom chát”... Bản sắc là một kiểu,
một cách,một kiểu cách ứng xử. Thế cái kiểu cách văn hoá Việt Nam là gì? Đó
chính là khả năng tiếp nhận và tiêu hoá được tất cả những tinh hoa của các nền
văn hoá đến từ nơi khác, chắt lọc và hoà nhập vào cái của mình, biến thành của
mình, thành kiểu của mình, thành sức mạnh của mình, đó chính là bản lĩnh tiếp
biến. Lịch sử đất nước ta đã chứng minh: khi ta biết mở cửa, biết tiếp nhận,
tiêu hoá cái hay bên ngoài, thì ta giữ được bản sắc, bảo vệ và phát triển được
đất nước, khi ta đóng cửa, khép kín thì mất bản sắc, mất nước, khi nhu, dẻo,
mềm thì ta thắng lợi, khi cương quá sẽ thất bại.
Qui luật phát triển của văn hoá
là việc gìn giữ luôn luôn đi cùng với sự tiếp nhận, biến đổi. Dân tộc ta từ
nghìn xưa đã hiểu rất rõ qui luật này, đã vận dụng hết sức linh hoạt, sáng tạo
quy luật này....
*.
NGUYỄN THẾ KHOA
Địa
chỉ: phường Láng Thượng
quận Đống Đa, Hà Nội.
.
......................................................................................................
- Cập nhật từ
email: tahongtruong@yahoo.com.vn ngày 18.01.2021
- Bài viết không
thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi
rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét