10
ẨN SỐ KHÔNG CÓ LỜI GIẢI
TRONG
LỊCH SỬ VIỆT NAM
*
Lịch sử hàng nghìn
năm của dân tộc Việt Nam tồn tại nhiều uẩn khúc mà có thể hậu thế sẽ không bao
giờ giải đáp được.
Các vua Hùng trị vì bao nhiêu năm?
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư,
triều đại các vua Hùng ở Việt Nam bắt đầu khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm
Nhâm Tuất (2879 TCN). Triều đại này kéo dài đến năm Quý Mão (258 TCN) thì kết
thúc với 18 đời vua Hùng nối nhau trị vì trong 2.622 năm. Tính trung bình, mỗi
thời vua Hùng Vương kéo dài tới… 150 năm. Đây rõ ràng là một con số khó tin. Vì
vậy, nhiều sử gia đã tỏ ý nghi ngờ và đưa ra các cách lý giải khác nhau về niên
đại của thời kỳ Hùng Vương.
Theo đó, con số 18 ở đây không phải 18 đời
vua mà là 18 ngành vua, mỗi ngành gồm nhiều đời vua mang chung vương hiệu, khi
hết một nhành mới đặt vương hiệu mới. Nếu tính như vậy thì có thể có đến 180
đời vua Hùng, và thời gian trị vì trong 2.622 năm là hoàn toàn hợp lý.
Cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng nước
Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại trong khoảng 300 – 400 năm và niên đại
kết thúc là khoảng năm 208 TCN chứ không phải là năm 258 TCN.
Ai sát hại Vua Đinh Tiên Hoàng?
Sử sách chính thống của Việt Nam đều ghi rằng
người giết chết Đinh Tiên Hoàng – vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại
Cồ Việt là hoạn quan Đỗ Thích. Sử chép rằng, viên quan này mơ thấy sao rơi vào
miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và
Thái tử Đinh Liễn.
Tuy vậy, nhiều sử gia đã bày tỏ sự hoài nghi
với các ghi chép này, vì Đỗ Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn,
không hề có uy tín hay vây cánh, dù có gan đến mấy cũng không thể liều lĩnh đến
như vậy được. Một giả thuyết được đặt ra: Đỗ Thích chỉ là tấm bình phong che
đậy cho thủ phạm thực sự, Lê Hoàn và Dương Vân Nga mới chính là thủ phạm.
Theo lý giải, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi
Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần chống đối có
thể là biểu hiện cho thấy mưu đồ chiếm ngôi của Lê Hoàn. Hành động của Lê Hoàn
nhiều khả năng đã có sự trợ giúp của Dương Vân Nga.
Có thể giữa Dương Vân Nga và các hoàng hậu
khác (Tiên Hoàng có những 5 hoàng hậu) đã xảy ra cuộc đua giữa họ về tương lai
của ngôi thái tử. Do yếu thế trong cuộc cạnh tranh này, Dương Vân Nga đã chọn
Lê Hoàn làm chỗ dựa.
Do vậy, dù động cơ có phần khác nhau, Dương
hậu đã cùng Lê Hoàn tiến hành vụ ám sát chấn động lịch sử và dùng Đỗ Thích như
một hình nhân thế mạng.
Lê Long Đĩnh có thật là vị vua tồi tệ nhất
lịch sử?
Trong chính sử Việt Nam, Lê Long Đĩnh được mô
tả là người bạo – ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Ông
nổi danh vì những thú vui tàn ác như tra tấn tù binh bằng các cách thức mạn rợ,
lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc cho tóe máu… Do sống dâm dục quá độ nên Lê
Long Đĩnh mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho
nên tục gọi là “Ngọa-triều”.
Tuy vậy giới sử học Việt Nam gần đây đã có
những cách nhìn khác về vị vua tai tiếng này.
Nhiều nguồn sử liệu khẳng định, Lê Long Đĩnh
là ông vua đầu tiên cử người đi lấy kinh Đại Tạng cho Phật giáo và sư Vạn Hạnh,
thiền sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu cũng như các cao tăng khác thời đó đều được
Lê Long Đĩnh rất trọng vọng… Và một ông vua đề cao Phật pháp như vậy có thể nào
“lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc” ?
Trước khi chết ở độ tuổi 24, Lê Long Đĩnh còn
chăm lo việc đào kênh, mở mang đường sá và đến tận nơi xem xét rồi xuống chiếu
đóng thuyền bè đi lại cho dân. Một ông vua suốt ngày ham mê tửu sắc không đi
lại được đến mức phải “ngọa triều”, ông vua đó có thể làm được những chuyện ý
nghĩa như vậy không?
Không chỉ vậy, trong 4 năm làm vua, Lê Long
Đĩnh đã 6 lần trực tiếp cầm quân ra trận, lần cuối cùng chỉ cách 2 tháng trước
khi ông mất. Cầm quân đánh giặc liên miên như vậy phải có sức vóc, người “dâm
dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được” sao có thể cáng đáng nổi?
Ai là tác giả bài thơ Nam Quốc Sơn Hà?
Bài thơ Nam quốc sơn hà được
xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam, gắn với tên tuổi của
danh tướng Lý Thường Kiệt (1019-1105) và thắng lợi trước quân Tống xâm lược tại
sông Như Nguyệt. Hiện nay, nhiều người vẫn ngộ nhận tác giả bài thơ là Lý
Thường Kiệt.
Tất cả sử liệu Việt Nam, từ chính sử đến dã
sử đều không nhắc đến tác giả bài thơ. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ
ghi rằng, vào một đêm, quân sĩ nhà Lý chợt nghe thấy có tiếng đọc to bài thơ
này được trong đền Trương tướng quân. Trong khi đó, sách Lĩnh Nam Chích
Quái cho rằng “Thần nhân tàng hình ở trên không” đã đọc bài thơ. Cũng
theo Lĩnh Nam Chích Quái, bài thơ đã xuất hiện từ thời Lê Hoàn
chống Tống, và cũng được đọc trên con sông Như Nguyệt.
Nguồn gốc bí ẩn đó đã khiến Nam quốc
sơn hà được người đời coi là một bài thơ Thần.
Một số sử gia thời hiện đại đã đưa ra giả
thiết tác giả bài thơ là những bậc đại sư như Khuông Việt hay Pháp Thuận, nhưng
tính thuyết phục không cao vì chỉ dựa vào mối quan hệ của các Thiền sư với các
vua thời đó.
Công chúa Huyền Trân tư thông với Trần Khắc
Chung?
Công chúa Huyền Trân sinh năm 1287, là con
gái của vua Trần Nhân Tông và em gái vua Trần Anh Tông. Năm 1306, vua Chế Mân
dâng hai châu Ô, Lý (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế ngày nay) cho nhà Trần
làm của hồi môn để lấy Huyền Trân. Vua Trần đã đồng ý gả công chúa.
Về Chiêm Thành, Huyền Trân được phong làm
hoàng hậu. Một năm sau, bà sinh cho Chế Mân một hoàng tử, đặt tên là Chế Đa Đa.
Ít lâu sau Chế Mân băng hà, nhà Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang.
Theo tục lệ Chiêm Thành, khi vua chết hoàng
hậu phải lên dàn hỏa thiêu để chết theo. Vua Trần Anh Tông biết điều này bèn
sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang rồi tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc
Chung đã bày kế thành công và cứu được Huyền Trân, đưa công chúa về Đại Việt
bằng đường biển.
Theo một số nguồn sử liệu, cuộc hành trình về
nước của công chúa Huyền Trân đã kéo dài tới một năm, và bà đã tư thông với
Trần Khắc Chung trong khoảng thời gian đó.
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư ghi:
“..hai người tư thông với nhau, trùng trình ở trên mặt biển, lâu lắm mới về đến
kinh sư. Hưng Nhượng vương Quốc Tảng lấy làm ghét lắm, hễ thấy Khắc Chung liền
mắng rằng: ‘Họ tên người này là “Trần Khắc Chung”, đối với nước nhà có điều
không tốt, có lẽ nhà Trần sẽ mất về người này chăng?’. Khắc Chung thường phải
sợ mà lánh mặt..”.
Tuy vậy cũng có một số sử gia đưa ra các lý
lẽ khác nhau để minh oan cho Công chúa Huyền Trân. Có lẽ, thực hư của câu
chuyện này ra sao mãi mãi là một ẩn số trong lịch sử Việt Nam.
Ai là thủ phạm trong thảm án Lệ Chi Viên?
Cho đến nay, vụ án Lệ Chi Viên với cái chết
bí ẩn của vua Lê Thái Tông và việc tru di tam tộc quan đại thần Nguyễn Trãi vẫn
là đề tài bàn luận sôi nổi của giới nghiên cứu sử học Việt Nam.
Theo sử sách, ngày 4/8/1442, vua về Lệ Chi
(nay thuộc huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với Vua có Nguyễn Thị Lộ, một
người thiếp của Nguyễn Trãi, khi ấy đã vào tuổi 40, rất được nhà vua yêu quý vì
sắc đẹp, văn hay. Tại Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ, rồi
băng hà.
Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết
vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc và bị giết ít lâu sau đó. Đến
năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán
Trù bá và bổ dụng người con còn sống sót của ông là Nguyễn Anh Vũ.
Sau này, nhiều sử gia đã tán đồng với giả
thuyết cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh – vợ thứ vua Lê Thái
Tông.
Về động cơ, thứ nhất là do bà đã có sẵn tư
thù với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Thứ hai là do thời đó, nhiều người trong
triều dị nghị rằng Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Thái tử Bang
Cơ không phải là con Vua Thái Tông, sợ Nguyễn Trãi gièm pha nên bà đã sai người
sát hại vua rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.
Vì sao vua Quang Trung băng hà?
Vào tuổi tứ tuần, giữa lúc chuẩn bị mở một
chiến dịch tổng lực để tiêu diệt liên minh Nguyễn Ánh – Pháp, hoàn thành việc
thống nhất đất nước; đồng thời nỗ lực giành lại hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông
từ nhà Thanh, hoàng đế Quang Trung đột ngột băng hà. Biến cố này là một trong
những nghi vấn lớn nhất của lịch sử Việt Nam.
Theo chính sử nhà Nguyễn, hoàng đế Quang
Trung chết vì một chứng bệnh kỳ bí, bắt đầu từ một cơn đột quỵ khiến ông rơi
vào trạng thái mê man nhiều ngày. Chứng bệnh này sử gia nhà Nguyễn giải thích
như sự trừng phạt của thần thánh dành cho việc quân đội của ông đã xâm phạm các
tôn lăng của chúa Nguyễn khi chiếm thành Phú Xuân (Huế).
Nếu gạt bỏ những yếu tố hoang đường và dụng ý
chính trị thì những mô tả trong Ngụy Tây liệt truyện đã hé mở
phần nào nguyên nhân dẫn đến cái chết của vua Quang Trung trên phương diện y
học hiện đại.
Theo giả thuyết của các nhà nghiên cứu ngày
nay, nhiều khả năng vị hoàng đế vĩ đại của nhà Tây Sơn đã bị suy sụp bởi một
cơn tăng huyết áp đột ngột và qua đời vì tai biến mạch máu não.
Ngoài ra, còn một giả thuyết khác khá hoang
đường khác về cái chết của vua Quang Trung, đó là ông đã bị trúng tà thuật từ
chiếc áo bị yểm bùa do vua Càn Long của nhà Thanh ban tặng. Một biến thể của
giả thuyết này là chiếc áo kể trên đã bị tẩm thuốc độc.
Vợ con của Hoàng tử Cảnh thông dâm với nhau?
Hoàng tử Cảnh của nhà Nguyễn (Nguyễn Phúc
Cảnh, 1780 – 1801) là một người có số phận bi kịch, khi mới 3 tuổi đã bị đưa
sang Pháp làm con tin, ngoài 20 tuổi đã bị bệnh đậu mùa mà mất sớm.
Sau khi ông mất, vua Gia Long quyết định chọn
hoàng tử Đảm (Minh Mạng) – em cùng cha khác mẹ với Hoàng tử Cảnh thay vì chọn
Nguyễn Phúc Mỹ Đường – con trai hoàng tử Cảnh làm người nối ngôi như thông lệ.
Một bi kịch mới bắt đầu từ đây.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện,
vào năm Minh Mạng thứ 5 (1824), có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm
với mẹ ruột là Tống thị. Vua Minh Mạng đã sai tướng Lê Văn Duyệt dìm nước chết
Tống thị, còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín và dây thao, đồng thời bị
giáng xuống làm thứ dân và chết trong nghèo khó.
Về vụ án thông dâm kì lạ này của triều
Nguyễn, các sử gia sau này có rất nhiều lời bàn. Một quan điểm được nhiều người
ủng hộ, đó là vua Minh Mạng đã dựng lên vụ án loạn luân để loại bỏ Mỹ Đường –
người có thể sẽ tìm cách dành lại ngôi vua, đồng thời là chỗ dựa về chính trị
của một số triều thần chống đối.
Việt sử giai thoại cho rằng: Thời ấy, có hai tội thuộc
hàng đại ác không thể tha, ấy là bất trung và thất đức. Bất trung thì con trai
trưởng của Hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, vậy thì Minh Mạng muốn được yên
vị trên ngai, ắt phải khép Mỹ Đường vào tột thất đức là thông dâm với mẹ.
Vì sao có bể xương chùa Thầy?
Hang Cắc Cớ thuộc khu di tích chùa Thầy ở xã
Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Nội) được dư luận quan tâm đặc biệt vì trong hang này có
một chiếc bể chứa hàng nghìn bộ xương người.
Theo lời kể được truyền qua nhiều thế hệ, khi
tìm thấy hang, người ta chứng kiến những bộ hài cốt này nằm trong một hố như
cái giếng, nằm chồng chất lên nhau. Cách đây hàng trăm năm, người dân xây một
chiếc bể vuông, tựa vào vách dùng để chứa hài cốt. Trên tấm bia ghi bên ngoài
bể bằng tiếng Hán, dịch ra đại ý là “Lữ Gia chống Hán lưu sử sách/Bể hận ngàn
xương mãi mãi ghi”.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lữ
Gia là tướng nhà Triệu, nước Nam Việt (thế kỷ 2 TCN). Dưới triều Thuật Dương
Vương (111 TCN), ông giữ chức Tể tướng. Tuy vậy, giới sử học và khảo cổ Việt
Nam đưa ra nhiều phỏng đoán khác về nguồn gốc bể xương này.
Theo các giả thuyết, đây có thể là xương cốt
của nghĩa quân người Việt bị quân nhà Minh giết khoảng thế kỷ thứ 14, 15 hoặc
xương của người dân địa phương khi chạy trốn quân Cờ Đen ở nhà Thanh do Lưu
Vĩnh Phúc cầm đầu tràn sang nước ta và hoành hành quanh vùng núi Thầy cuối thế
kỷ 19. Cũng có thể các bộ xương này là của chính quân Cờ Đen.
Vua Khải Định có phải là cha của vua Bảo Đại?
Vua Khải Định (1885 – 1925), là vị Hoàng đế
thứ mười hai nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông có tất cả 12 bà vợ, nhưng
chỉ có một con trai duy nhất là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, con bà Hoàng Thị Cúc,
người sau này là vua Bảo Đại.
Theo sử sách chép lại, vua Khải Định bất lực,
không thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông. Điều này đã gây ra nhiều đồn đại về
việc ai là người cha thực sự của vua Bảo Đại.
Nhiều ý kiến cho rằng, nàng hầu Hoàng Thị Cúc
đã có thai từ trước khi vào cung, nhưng vẫn được vua Khải Định công nhận sau
khi Vĩnh Thụy ra đời. Hồi ký của một số người trong hoàng tộc Nguyễn đồng ý với
nhận định này và còn đưa ra khẳng định rằng, Hoàng tử Vĩnh Thụy chỉ là con nuôi
của vua Khải Ðịnh.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
Ngô Thanh Tuấn giới thiệu
Tác giả: Khuyết
Danh Nguồn: kienthuc
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét