VỀ BẢN DỊCH BÀI THƠ
NAM QUỐC SƠN HÀ
TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỚP 7
Lê Thước và Nam Trân, tác giả bản dịch bài thơ Nam quốc
sơn hà mới được đưa vào sách giáo khoa lớp 7, đều là những dịch giả
tiếng tăm một thời. Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh còn có con đường mang tên
Lê Thước, bởi bên cạnh những cuốn sách mà ông dành nhiều tâm huyết, như Hán
văn tân giáo khoa thư (Sách giáo khoa mới về Hán văn), "Truyện
cụ Nguyễn Du" và "Sự nghiệp thi văn của Uy Viễn tướng
công Nguyễn Công Trứ", ông từng giữ nhiều vị trí quan trọng trong
ngành văn hóa, giáo dục của chính quyền cách mạng Việt Nam. Cùng thời với ông,
Nam Trân cũng sớm tham gia cách mạng. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà Văn Việt
Nam. Ông cũng là một trong những giảng viên lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền
Bắc. Ông chính là người chủ trì dịch tập Ngục trung nhật ký. Nói
về các ông là nói về những cây đa cây đề trong làng chữ nghĩa Hán Nôm.
Tuy nhiên, bản dịch Nam quốc sơn hà của hai ông
chắc chắn không phải là một thành công như những tác phẩm khác, nếu không muốn
nói đó là một bản dịch hoàn toàn thất bại.
Thứ nhất, ngay câu đầu tiên các ông đã tùy tiện dịch hai từ
"Nam quốc" thành "Nam Việt": Núi sông Nam
Việt vua Nam ở. Trong một bài báo (đăng trên báo Giáo dục) phân trần về lý
do chọn bản dịch này để đưa vào sách giáo khoa lớp 7, chính ông tổng chủ biên
cũng nói rằng phải thay câu này bằng câu của bản dịch cũ, vì nước ta chưa bao
giờ mang quốc hiệu Nam Việt(!)
Thứ hai, câu "Tiệt nhiên định phận tại thiên thư"
được các ông dịch là "Vằng vặc sách trời chia xứ sở". Sự tùy
tiện được đẩy cao hơn một mức nữa bằng việc sử dụng từ láy tượng hình "vằng
vặc". Đây là từ dùng để mô tả ánh sáng và không gian ban đêm. Người ta
nói "trăng sáng vằng vặc", "trời sao vằng vặc",
"vằng vặc trăng soi"... Với việc đặt từ "vằng vặc"
bên cạnh "sách trời" vô hình chung các dịch giả đã ví sách
trời như mặt trăng, biến cái siêu phàm thành cái hữu hình, biến thứ thiêng
liêng thành ra trần thế. Hơn nữa, trong văn hóa phương đông trăng và đêm đều
thuộc âm, chỉ sự yếu mềm, không thể đem làm tuyên ngôn độc lập. Việc mang cụm
từ "sách trời" ra khỏi vị trí trọng tâm ở cuối câu cũng làm
mất đi tính tuyên ngôn mạnh mẽ của nguyên tác.
Sự tùy tiện lên tới đỉnh điểm khi hai dịch giả tự ý thêm vào từ
"xứ sở". Không còn là nước, mà là xứ sở. Đó chính là thứ mà
nhà nước phong kiến Trung Hoa vẫn "phong" cho các vương triều chư
hầu. Trên thế giới, "xứ" cũng được dùng để chỉ các vùng lãnh
thổ phụ thuộc, không có nền độc lập, ví dụ như Xứ Wale. Không có lý gì mà khi
tuyên bố nền độc lập ta lại đi xưng là là "xứ sở".
Hai câu tiếp theo càng làm mất đi cái khẩu khí của một bản tuyên
ngôn độc lập.
"Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ"
"Nghịch lỗ" mà dịch là "giặc dữ"
thì chẳng bằng đưa thêm vũ khí cho giặc, bởi "dữ" bao hàm sức
mạnh. Dữ đi liền với ác, nhưng dữ cũng là dữ dội.
Câu cuối "bản tuyên ngôn" bị hai dịch giả biến thành
văn nói hoàn toàn khi dùng đại từ nhân xưng "chúng mày". Về
ngữ pháp, việc dùng cụm từ "nhất định phải" khiến cho câu này
mang ý nghĩa thể hiện ý chí chủ quan, chứ không mạnh mẽ khẳng định một kết cục
khách quan tất yếu cho lũ giặc như trong bản dịch cũ: "Chúng bay sẽ bị
đánh tơi bời!".
Tóm lại, bản dịch của hai ông làm hỏng tinh thần của nguyên tác
về mọi mặt và khiến cho nó trở thành một bài thơ lủng củng, nửa văn nói nửa văn
viết. Bộ Giáo dục và Đào tạo lại tùy tiện thay câu đầu, đổi câu sau,
khiến cho nó càng lủng củng hơn. Việc ông Tổng chủ biên Nguyễn Khắc Phi nói
rằng: "Nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa ở nước ta cũng như nước
ngoài, cho phép người biên soạn có quyền sửa chữa cho phù hợp nội dung",
và rằng: "Việc này đã được thông qua bởi cả một hội đồng", chỉ
là bao biện. Nếu không, chỉ có thể đoán rằng bản dịch cũ bị thay thế chính là
bởi người dịch là Trần Trọng Kim. Nhưng người ta quên rằng cho dù ông là một
trí thức không thuộc phe cách mạng, là Thủ tướng "Chính phủ bù nhìn",
thì bản dịch của ông vẫn đi vào lòng dân tộc, giống như nguyên tác vậy.
Nguyên tác chữ Hán:
南 國 山 河
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛
Nguyên tác (phiên âm):
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Dịch nghĩa (theo Thơ văn Lý - Trần):
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
Bản dịch thơ (Phạm Trần Anh):
Sông núi trời Nam của nước Nam
Sách trời định rõ tự muôn ngàn
Cuồng ngông giặc dữ vào xâm lấn
Chuốc lấy bại vong lấy nhục tàn.
Bản dịch Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1, trang 62 (Lê Thước
và Nam Trân dịch):
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
- Các bài viết về Chuyện làng văn0
Mời nghe AudioBook Chọn Lọc đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Trần Chí
Cường giới thiệu
Tác giả: Trương Phan
Việt Thắng - nguồn: chungta.com
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét