“Tai họa của chiến tranh dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào và giáng
xuống bất cứ ai, đều là một thảm kịch cho toàn thể nhân loại” (The calamity
of war, wherever, whenever and upon whomever it descends, is a tragedy for the
whole of humanity). Đó là lời của một người phụ nữ, trong một tác
phẩm của bà được xuất bản vào năm 1991. Bà chính là Raisa M. Gorbachev, đệ nhất
phu nhân Liên Xô cũ. Bà viết như thế trong một đất nước hòa bình. Nếu phải sống
qua một cuộc chiến được xem là khốc liệt vào bậc nhất của thế kỷ 20, hẳn ý nghĩ
của bà về chiến tranh còn mạnh mẽ và bạo liệt đến chừng nào. Ngược lại với bà,
một nhà văn của miền Nam Việt Nam đã kinh qua những ngày dài chiến tranh, những
đêm chong súng nơi tiền tuyến, đối đầu với cái chết từng phút giây, và cũng đã
sống còn sau cuộc chiến mà khi viết về chiến tranh, nhất là những bài thơ trong
thời chiến với một cách thế bình thản và chấp nhận nó như một định mệnh. Người
ấy chính là nhà văn Trần Hoài Thư.
Ở lớp tuối 80, Trần Hoài Thư đã cho
in tác phẩm mơ ước cho riêng mình: “Thơ Tuyển Toàn Tập”, vào năm 2021.
Ngay phần lời mở, ông cho biết “tôi mơ ước được có một tập thơ gọi là “cuối
đời” gồm những bài viết trong khói lửa và sau 1975”. Tập thơ này chia làm nhiều
phần, trong đó có “Dưới trời khói lửa”,
“Những bài lục bát thời chiến” là hai
phần mở đầu. Và trong bài viết ngắn này, tôi cũng chỉ muốn xoáy vào
chủ đề Thơ-thời-chiến của ông.
I.
Chiến tranh: chết chóc, hoang tàn và đổ nát
Trước khi làm thơ, Trần Hoài Thư là
một người lính chiến thực thụ. Muốn biết thêm về ông, chỉ cần “google” là bao
nhiêu tin tức hiện ra. Khác với rất nhiều những nhà thơ cùng thế hệ, theo tôi
con người thật của Trần Hoài Thư nằm ở những con chữ của ông, trên những dòng
thơ này. Đó là một người bình thường, cũng sợ … té đái như ai, khi vác súng lên
đường.
“Ta đi, tráng sĩ hề con khỉ …
Nó
chửi thề bởi nó cũng run”
(Tráng sĩ hề …)
“Tổ
cha cái bọn trong rừng
Bắt
ông phải ướt cả quần, teo chim”
(Khi tăng phái chiến trường Tây Nguyên)
Hoặc
“Trời
hỡi, đêm nay bùng trí não
Trùm
mền, thêm một lớp poncho
Đốt
lên sợi khói, cho qua buổi
Hít
vội cho cầm cự nỗi lo”
(Ráng Thức)
Và cũng muốn bình an trở về sau
những ngày dài lội nát núi rừng như bao người lính chiến khác, chứ không muốn
làm anh hùng nơi trận mạc.
“Buổi sáng anh chờ lệnh lên đường
Buổi
chiều anh theo đám người xuống núi
Buổi
tối anh bầu bạn cùng âm hồn
Cùng
những vì sao
(…)
Anh
không sao
Không
sao hết
Có gò
đất che chở anh
Có cây
rừng che thân anh
Có
đồng đội cõng anh
(…)
Hãy
cầu nguyện giùm anh nghe em
Để anh
được bình an trở về
Trước
ngày đám cưới”
(Cho người hôn thê trước ngày đám cưới)
Những bài thơ thời chiến của Trần
Hoài Thư như những mẩu chuyện rất nhỏ, những chi tiết của lịch sử, tạm gọi là
lịch-sử-ngoại-biên. Bởi những chi tiết này không nằm trong sách sử bao giờ.
Những khổ nạn, đớn đau, mất mát của người lính không phải sử gia nào cũng quan
tâm. Sử gia, thời nào cũng vậy, chỉ quan tâm tới những điều lớn lao, những
chiến công hiển hách, mặt trận này thắng, mặt trận kia thua, chứ chắc gì hiểu
và thấm cái đau da thịt, nghe tiếng rên la của người lính bị thương, những cánh
tay bị mất, những đôi mắt không còn, những phần thân thể bị cháy xém …
Trần Hoài Thư kể lại lịch sử với một
góc nhìn khác, bằng những dòng thơ của người sĩ quan cấp úy. Ông chép cái bạo
liệt ấy bằng chất liệu sống của cuộc đời. Ông không nói nhiều, người đọc vẫn
thấy cái tàn khốc của chiến tranh. Và vì “sống”, thơ ông đã đi thẳng vào lòng
người.
“Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại
đội đi, một nửa không về
Lớp
lớp người nhào lên ngã gục
Đạn
sủi bờ sủi đá u mê”
(Kỳ Sơn)
“Tôi
qua đèo xám, mây mờ núi
Thương
về đâu, một lũ sáo rừng
Hôm
qua đồi ngập hàng trăm xác
Đạn
pháo đào sâu bãi chiến trường”
(Đồi xưa)
“Mười
thằng Thám Kích về đây
Chín
thằng thương tích bỏ thây trên đồi
Ta
hên, đạn để trên người
Kỷ vật
ngậm ngùi thế hệ chiến tranh”
(Số hên)
“Ở đây
đèo ải ngăn sinh lộ
Trăm
đứa lên có mấy kẻ về
Giày
trận bám bùn mưa tối mặt
Mùa hè
gió thốc bụi tê tê”
(Về với núi)
Một sĩ quan cấp úy, nắm trung đội,
đại đội, đã nhìn thấy “một nửa không về”,
đã kinh qua “đồi ngập hàng trăm xác”,
đã vỡ tim khi thấy “Trăm đứa lên có mấy
kẻ về”, thì những trận đánh lớn cấp trung đoàn, sư đoàn, hẳn bao máu xương
đã len vào mạch đất, đã chôn vùi dưới những hầm hố tang thương.
Thơ của người lính đơn giản như một
lời nói, không cần vần điệu, không cần hoa văn, chải chuốc, không son phấn che
đậy. Vậy mà càng đọc càng thấm, càng ngẫm càng chia sẻ được những thương đau ấy
cùng ông.
“Ta
đi, bình bát không còn gạo
Nước
thánh vơi dần, chỉ nước sương
Dao
phạt mở đường lên lạc cảnh
Cả mặt
mày gai sướt máu tươm
Ta đi
lời kệ vang trong miếu
Ông từ
già nhắm mắt tụng kinh
Ông ạ,
cho tôi nằm một lát
Để tôi
mơ cực lạc thiên đường”
(Tráng sĩ hề …)
Bạn đọc thấy gì không? Những “bình bát”, “nước thánh”, “cực lạc”, “thiên đường” v.v., là những hình ảnh
hoặc cách nói rất … bình dân để chỉ về những tôn giáo. Trước hòn đạn, hỏa tiễn,
xe tăng, thì Phật hay Chúa làm cách nào để bảo vệ được những sinh linh? Thôi
thì xin được nằm một lát để “mơ cực lạc thiên đường”, trước khi đi vào cõi …
chết. Đó là tâm trạng của người lính thực thụ nơi chiến trường. Bởi họ đã kinh
qua những mưa gió, bão bùng, sống với mồ mả của người đã nằm xuống. Đó là những
đêm nằm chong súng giữa những trận mưa thúi đất, đã trầm mình dưới nước lạnh
buốt của đêm khuya, đã nghe tiếng rên rỉ của những chiến hữu trên chiến trường
đầy xót xa, ứa máu …
“Đêm
xuống đồi gặp con nước nổi
Súng
đưa khỏi đầu
Từng
con một vượt sông …
Rồi
trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn
Anh
lạc trên cánh đồng trăng mênh mông
Không
biết nơi nào là cõi dữ
Trên
đôi vai anh nặng nề lịch sử
May mà
còn em
Vầng
trăng mười sáu
Anh giữ
Ở đáy
ba-lô …”
(Đêm vượt sông)
“Con”
là cách gọi của người chỉ huy với những người lính thân thương của mình. Đưa
những đứa “con” ra trận, rồi đưa “con” trở về an lành là trách nhiệm lớn
lao của người chỉ huy, là bổn phận của những “ông Thầy”. Ở những bài thơ khác, có chỗ ông dùng chữ “đứa”, có chỗ là “thằng” rất thân thương,
gần gũi. Ở đây ông dùng “con”, từng
con một vượt sông. Ông thương từng chiến hữu như thương chính da thịt của mình.
Vâng, mỗi người lính đều là một đứa con của người chỉ huy, cũng là con của bà
mẹ này hay bà mẹ khác trong đời sống. Nói cho cùng, thằng lính chiến nào cũng
là “con” của Mẹ Việt
Nam. Chữ “con” ở đây gắn
với một chữ khác, “lịch sử” như “Trên vai anh nặng nề lịch sử”. Cùng là “con”, mà chắc gì lịch sử của đứa này đã
giống của đứa kia. Lính trận như THT đi gánh lịch sử cho những người khác ngồi
ở đâu đó trong phòng máy lạnh ở một góc nào trên quả địa cầu. Còn “lịch sử” của những người lính trận như
ông chỉ là: mồ hôi, máu và nước mắt. Nước mắt xót thương cho những đứa con nằm
xuống ở những nơi mà tên gọi rất lạ lẫm với rất nhiều người, chẳng hạn: ngọn Kỳ
sơn, sông Dakbla, đồi Bánh Ít, cây xăng Ông Tề, xóm Gò Bồi, Truông Bà Đờn, Tháp
Bạc, Đệ Đức, Phù Cũ, Nho lâm, v.v. Đó là những địa danh ở miền Trung, mà chỉ có
những người lính trận thực thụ hoặc người dân ở địa phương ấy mới biết
đến. Những địa danh mà tên gọi chưa quen với người dân thị thành
cũng là những nơi bao đứa “con” nằm
xuống. Chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của những bà Mẹ mất con.
Trong thời loạn ly, người trai trẻ
chấp nhận như một định mệnh, chẳng nề hà. Cái mà họ mang theo là “vầng trăng mười sáu” hay hình ảnh người
em gái thân thương, như một sự an ủi nằm nơi đáy ba-lô. Bài thơ này Trần Hoài
Thư không hề gọt dũa vẫn chứa mênh mông cảm xúc. Cái cảm xúc ấy
không chỉ ở một bài, mà tôi thấy ở rất nhiều bài. Không chỉ nhiều
bài, mà gần như là xuyên suốt trong những dòng thơ thời chiến của ông. Xin
trích lại vài đoạn dưới đây như một chia sẻ.
“Chiến
trường thì cũng thây người chết
Cũng
là biển lệ cũng hờn căm
Trường
Sơn chưa dứt cơn kinh động
Đồng Tháp
dòng sông máu đỏ ròng
(…)
Người
bạn kể gì nghe đứt ruột
Ra
trường hai đứa về bên nhau
Nửa
năm một đứa về Cao lãnh
Tìm
đứa trôi sông, xác cụt đầu
Ta ấn
hầm sâu không thấy nắng
Chiến
trường chó đẻ chỉ toàn ma
Ra
ngồi hong đít trên cầu ván
Tiếng
cắc bùm đã dội từ xa”
(Quán gió đồng bằng)
Chữ nghĩa tháp ngà có khi nào dùng
được những chữ trần trụi đời thường mà đầy uy lực như “chó đẻ”, “Ra ngồi hong đít”
như Trần Hoài Thư không? Tuyệt nhiên không, vì đó là cảm xúc thật, xương máu
thật, chết chóc thật, mà chỉ có đối diện và sống từng phút giây với nó mới bật
ra được.
Còn nhiều nữa, chẳng hạn:
“Đêm
tôi bầu bạn cõi âm
Người
sống kẻ chết kề nằm bên nhau
(…)
Đêm
tôi sấm sét ì ầm
Mưa
cuồng gió nộ hành hình đám con
Poncho
không đủ che thân
Roi trời
xối xả quất bầm thịt da
(…)
Đêm
bây giờ đêm thất thanh
Ngợp
trời đạn lửa ròng ròng máu me”
(Đêm Tôi (II))
Khi đối diện với “cõi âm”, với “roi trời xối xả”, với “đạn
lửa ròng ròng”, thì chữ nghĩa không cần ưởn ẹo, không cần làm dáng, không
cần trau chuốt. Bởi viết khác một chút, nói khác chút, nó không còn là cái sự
thật trần trụi và khốc liệt của chiến tranh. Nói cho cùng, khi pháo chụp, người
gào, khi xác thân ngã xuống thì mùi tử thi của bạn bè và kẻ thù đều nồng nặc
như nhau.
“Pháo
chụp người gào khan cả họng
Máy
sôi tắt nghẹn chờ phi tuần
Miếng
thép đâm xiên, thằng bạn gục
Hỏa
châu vàng thoi thóp triền sơn
(…)
Nước
nguồn đổ xuống ngày binh lửa
Những
xác nào đã thúi hôm qua
Ai bạn
ai thù sao quá thảm
Trên
một dòng cuồn cuộn oan gia”
(Trung Đội)
Là một người lính, một sĩ quan cấp
thấp, ông chí tình với bằng hữu qua rất nhiều những khổ thơ những bài thơ trong
dòng này. Ông thương người lính Nùng vừa ngã xuống. Ông thương thằng “con” lạnh cẳng khi làm một tiên phong,
dò đường. Bạn bè cùng khóa, đứa này ngã xuống chỗ này, đứa mất một phần xác
thân nơi địa danh khác. Ông đưa họ vào thơ như những nhân chứng của điêu linh.
Khi chứng kiến cái chết những đứa con, của những bạn bè, của: Vọng, Nga, Nai,
Bình Lò Heo, Chấn, Hảo, Sơn, Tài xóc đĩa, v.v., thì cái viết của người lính như
những dòng chúc thư để lại cho hậu thế, vì không biết lúc nào mình “giã từ vũ khí”.
“Đêm
tôi mền lính poncho
Chữ
nguệch ngoạc, viết những dòng chúc thư”
(Đêm Tôi (II))
Chết chóc là thế, nhưng thơ của ông
không hề thấy chữ nghĩa sắt máu, không hề thấy “thề phanh thây uống máu quân thù”, không thấy “tao phải giết mày cho bằng được”. Chẳng hạn như bài thơ “Để trả lời một câu hỏi”, “Ta lính miền Nam”, và lác đác trong
nhiều đoạn thơ của những bài thơ khác.
“Trên
đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng
Trong
túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù
binh mời điếu thuốc thơm
Để
thấy miền Nam lính hiền ghê gớm”
(Ta lính miền Nam)
II. Không
gian và nỗi ám ảnh của chiến tranh
Miền Trung bạt ngàn rừng núi Trường
Sơn, nên không gian trong thơ của Trần Hoài Thư phần lớn là núi rừng mênh mông
ấy. Giày trận ông mòn theo núi rừng An Lão, Kỳ Sơn, Phước Lý, An Khê, từ ngọn
đèo này qua ngọn đèo khác, từ thung lũng này qua thung lũng nọ, từ đỉnh cao này
qua đỉnh cao kia. …
“Rừng
ơi rừng ơi, lửa dậy Ban Đông
Lửa
lan về đồn điền Darlac”
(Ngày với núi)
“Kỳ
Sơn cao độ hai trăm thước
Đêm
hoảng kinh đỏ huyết vầng trăng”
(Kỳ Sơn)
“Tháng
ba dừng quân dưới chân đèo
Ngồi
trên đường sắt
Không
có tàu xuôi tàu ngược
Làm
sao anh gởi nhớ nhung này được về em?”
(Dừng quân dưới chân đèo)
Có những lúc cùng quân về hậu cứ,
những thị trấn buồn hiu, Qui Nhơn, Bồng Sơn, Tam Quan. Cũng có lúc ông về đồng
bằng. Có những đêm cùng trung đội vượt sông, qua đập.
“Qua
đập hoàng hôn, con nước lớn
Gò Bồi
xa hút, buồn níu chân
Trời
cũng sắp đi vào giấc ngủ
Lội
sông, lội sông về Tân Dân”
(Qua đập hoàng hôn)
“Nước
lên trời thổ mật vàng
Nửa
lan mây núi nửa tràn bãi sông
Nước
lên kéo mặt trời gần
Khanh
vàng lai láng một giòng vàng khanh”
(Nước lên)
“Trời
thổ mật vàng”, “Khanh vàng lai láng”
là những hình ảnh tuyệt đẹp, tuyệt thơ.
Phải nói rằng thiên nhiên trong thi
ca thời chiến của Trần Hoài Thư không gói gọn trong màn đêm, trên những đỉnh
đồi. Thiên nhiên trong thơ ông giàu có và sống động. Bởi vì người lính đi và
đi, không hề ngưng nghỉ. Trên mỗi bước chân đi, trên những bánh xe lăn, trên
những lần tiến tới hay chạy thục mạng thối lui ngược lưng đèo, mỗi cảnh tượng
mỗi khác, mỗi thời khắc thiên nhiên biến đổi không ngừng. Có thể nói không ngoa
rằng: Thơ thời chiến của Trần Hoài Thư như một bức tranh sinh động, nhiều màu
sắc. Không chỉ màu sắc của thiên nhiên, mà còn màu sắc của lòng người trai thời
chinh chiến: vui, buồn, giận dữ, phẫn nộ, tiếc thương, v.v.
Đọc thơ Trần Hoài Thư trong thời
chiến, tôi phát hiện ra một điều: ông dường như bị ám ảnh bởi tiếng gà gáy. Có
lúc tiếng gà ở buổi sớm, có lúc buồn tê tái ở buổi chiều, có lúc như hoang dại
ở buổi trưa nắng quái. Tiếng gà ở An Lão, tiếng gà ở Bình Khê, tiếng gà ở Bà
Gi, tiếng gà ở đồi Tháp Bạc, v.v. Có lúc, nghe tiếng gà báo thức lúc trời bắt
đầu sáng là thấy mình và của đồng đội cùng tồn tại sau một đêm dài căng
mắt. Cũng có khi tiếng gà lạc loài giữa trưa mang tận cùng hoang
mang và tủi hận…
“Khi
tiếng gà đầu tiên vừa gáy trong thôn
Tôi
biết mình là một người may mắn
Tôi có
quyền đốt lên điếu thuốc
Xếp
lại chiếc mền bỏ vào lại ba-lô
Cả đêm
qua trời trú xuống trận mưa
Tôi
che súng bằng poncho sợ ướt
Mưa ào
ạt lính ngủ ngồi ngủ đứng
Giữa
mả mồ, người sống chết đêm qua”
(Bản tấu khúc ân sủng)
Hoặc
“Xin
tạ từ những mồ hôi và nước mắt
Những
đêm ngày nơi chiến địa tha ma
Những
xóm làng đã cháy thành tro than
Những
bãi chiến trường chất chồng xác chết
Xin tạ
từ chú gà con sống sót
Giữa
trưa hè cất tiếng gáy lẻ loi”
(Tạ Từ)
Giữa những đổ nát hoang tàn của
chiến tranh ấy, có tiếng gà là còn thấy sự sống chung quanh. Nghe được tiếng là
là biết mình còn hít thở giữa trời khét mùi khói súng.
***
Trong “Thơ Tuyển Toàn Tập”,
không thấy có những bài về chiến tranh mà tôi đã đọc từ mấy mươi năm trước, và
rất thích. Đó là những bài thơ dù không gây sững sờ toàn bài nhưng chứa những
khổ thơ ám ảnh người đọc. Có thể ông không chọn chúng vì một lý do nào đó rất
riêng tư. Ngược lại, cái ông chọn trong tuyển tập này không hẳn là bài nào tôi
cũng thích, từ góc độ một người đọc không cùng thế hệ với ông. Có thể là do độ
lệch về thời gian tuổi tác bởi tôi không cùng thế hệ với ông. Cũng có thể tôi
không có cùng kinh nghiệm chiến tranh như ông, người đứng nơi đầu ải điêu linh,
chạy đua từng tích tắc với thần chết. Một số bài trong tập này, ông để cảm xúc
của mình tuôn trào, không cần nén lại, không cần kềm hãm, nên lượng chữ có khi
dài hơn sự cần thiết, làm cho những bài thơ ấy đã loãng đi ít nhiều.
Trong 20 năm chiến tranh, miền Nam
có biết bao người lính chí tình với quê hương với chiến hữu, và giai đoạn ấy
cũng sản sinh hàng trăm cây viết xuất thân từ lính. Tuy nhiên, vừa là người
lính chí tình, vừa là người viết văn đích thực và sống chết với những con chữ
của mình, con số ấy chỉ trên đầu ngón tay. Trong số hiếm hoi ấy, tôi từng chọn
cho riêng mình ba “người-lính-viết-văn”, trong đó Trần Hoài Thư là một.
Chữ nghĩa của Trần Hoài Thư là
chữ nghĩa đích thực của một người lính tiền đồn, đôn hậu và chân tình, không
màu mè ưởn ẹo, không trá hình bằng những con chữ “đẹp” đầy son phấn để lấy lòng ai. Thơ trong thời chiến
của Trần Hoài Thư cũng chính là máu thịt của ông, của “con cái” và bạn bè ông. Chính vì cái rất riêng ấy, khó
có thể so sánh thơ ông với bất kỳ ai, hoặc soi rọi dưới bất kỳ lý thuyết nào.
Bởi lý thuyết thì nằm trên sách vở, được bàn luận ở giảng đường hoặc có khi ở
nơi bàn nhậu, trong khi đó máu thịt cùng thương tích của ông là sự thật; xác
thân của chiến hữu nằm ở chiến trường cũng là sự thật, những sự thật đắng chát
cõi lòng.
Nói cho cùng, thơ thời chiến
của Trần Hoài Thư bàng bạc những địa danh, mà mỗi địa danh đều rờn rợn những
oan hồn.
0 comments:
Đăng nhận xét