(Nguồn ảnh: internet) |
CẢM NỖI NON TAN TRONG BÀI THƠ
“TRÊN ĐỈNH CHON VON”
CỦA HẠ THÁI TRẦN QUỐC PHIỆT
*
TRÊN ĐỈNH CHON VON
Ngồi trên đỉnh núi
ngắm vầng trăng
Đọc những dòng thơ
tặng chị Hằng
Thử vạch mây xanh
tìm ý mộng
Và đào tuyết trắng
kiếm mầm văn
Thấm niềm thác vỡ
than nhân thế
Cảm nỗi non tan
khóc đất bằng
Nơi cõi chon von
cao chất ngất
Trời gần sao vẫn
buốt hơn băng
*.
Nhà thơ Hạ
Thái Trần Quốc Phiệt
LỜI
BÌNH:
(Tác giả Châu Thạch) |
Hạ Thái Trần
Quốc Phiệt ngồi trên đỉnh chon von để làm gì? Hãy đọc
hai câu thơ mở
đầu sẽ hiểu:
Ngồi trên đỉnh núi
ngắm vầng trăng
Đọc những dòng thơ
tặng chị Hằng
Hai câu thơ mở
đầu cho ta tất cả sự sảng khoái của tâm hồn. Ta sẽ thấy đẹp biết
bao hình ảnh người thi sĩ ngồi giữa thiên nhiên hùng vĩ đọc thơ cho
trăng nghe. Thi sĩ đời nầy thường đọc thơ bên bàn rượu, trong phòng
trà, hay cùng lắm bên vỉa hè nào đó có xe cộ đi qua. Thi sĩ đời nầy
mấy ai lên núi cao đọc thơ? Đến các nhà tu hành cũng xuống núi kiếm
tiền huống chi là thi sĩ. Nhưng đọc hai câu thơ trên hồn ta quay lại
với sự lãng mạn của một thời xa xưa, thời các đạo sĩ, ẩn sĩ còn
trên núi cao, hay một thời “lên non
tìm động hoa vàng’ của Phạm Thiên Thư ở thế kỷ trước. Đọc hai câu
thơ trên ta cũng cảm ơn đời, vì sự xô bồ của đời nay chưa cuốn hút
hết kẻ sĩ, vẫn còn nhà thơ lên đỉnh chon von đọc thơ cùng trăng gió,
nghĩa là đời nay không hẳn chìm trong cõi tục, còn có kẻ muốn làm
tiên.
Hạ Thái Trần
Quốc Phiệt muốn làm tiên, mà cao hơn nữa không phải một thứ tiên biết
biến hoá. Nhà thơ chỉ muốn làm một thứ tiên lạ kỳ, một thứ tiên
chỉ đào tuyết vạch mây để nhặt thơ. Lạ lùng thay, nhà thơ tìm tài
sản trong tuyết và mây, thứ tài sản quý giá mà nơi thấp không có,
phải lên đỉnh chon von mới tìm thấy được:
Thử vạch mây xanh
tìm ý mộng
Và đào tuyết trắng
kiếm mầm văn
Vế luận của bài
Đường thi cho ta thấy gì? Thấy nhà thơ lặn lội đi tìm cái đẹp, đi
tìm cái niềm vui thư thái cho tâm hồn. Lên cao để nhìn thiên nhiên, tìm
thơ trong thiên nhiên là tìm “nguồn trong trẻo vô biên” là tìm “sợi dây quyến luyến” của Hàn Mạc
Tử để hoà nhập vào chân lý vô vi của Lão Tử. Trong mây có mộng,
trong tuyết có mầm văn, phải vạch ra và đào lên để tìm là một tư duy
nẩy mầm thơ đẹp. Tác giả đào cái ý đó , vạch cái tứ đó nằm tiềm
tàn trong đầu mình cũng quý hiếm chẳng khác chi mộng trong mây và
mầm văn trong tuyết mà nhà thơ đã khám phá tuyệt vời, đưa vào thơ
tuyệt hảo.
Rồi thì nhà thơ
đi ngược lại phương pháp sáng tác Đường thi mà đời xưa đã dạy cho thi
sĩ đến đời nay. Đường thi ở câu luận là phải mở rộng ý thơ, bàn sâu
vào cái đầu đề đã đặt ở trên, nghĩa là phải làm cho “Trên Đỉnh Chon Von” đầy thơ và đầy
mộng hơn nữa như vế mở, vế trạng của bài thơ vừa đề cập đến. Không!
Nhà thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt không làm như thế, ông quay ngoắt 180
độ, đưa bài thơ từ sự an tịnh thư thái tâm hồn bước qua vực thẳm,
vực thẳm của nỗi đau buồn, khóc than và rên xiết:
Thấm niềm thác vỡ
than nhân thế
Cảm nỗi non tan
khóc đất bằng
Ta thấy rằng bà
Huyện Thanh Quan qua Đèo Ngang, nhìn thấy cảnh khô cằn của “cây chen đá/ Lá chen hoa/ Tiều vài chú/
rợ mấy nhà” thì chạnh lòng “nhớ
nước/ Thương nhà” là đúng quy luật Đường thi. Ở đây Hạ Thái đang “Ngắm vầng trăng” đọc thơ “tặng chị
Hằng, đang “vạch mây tìm mộng”, “đào tuyết kiếm mầm văn” thì bỗng
nhiên bi luy “than nhân thế” và “khóc đất bằng”. Như thế, bài thơ
có nghịch lý hay chăng? Không. Bài thơ không nghịch lý mà còn độc đáo
vô cùng, mở ra một chân trời mới cho phương pháp Đường thi với những
ai cứ khư khư, câu nệ theo cái luật từ thời xa xưa để lại. Đọc tiểu
sử bà Huyện Thanh Quan, ta biết bà có cái tâm trạng hoài Lê, nhưng
cái tâm trạng của bà chỉ hướng về quá khứ của cha ông mà bà không
tường tận mấy. Do đó nổi hoài cảm của bà nhẹ nhàng khơi dậy theo
trình tự đối cảnh sinh tình. Hạ Thái Trần Quốc Phiệt không thế, nhà
thơ là người trong thời cuộc, vết thương hằn sâu trong tim vỡ ra, rỉ
máu bất kỳ lúc nào, kể cả khi đang vui hay lúc mình đang thụ hưởng.
Đứng trước trời bao la, núi non hùng vĩ và sự cô đơn trên đỉnh chon
von, tầm mắt nhà thơ phóng xa và quê nhà bỗng hiện lên trong tâm
tưởng. Cơn đau vụt đến, đất trời hiện hữu không còn nữa, thay vào đó
một đất trời xa xưa với thác vỡ, với non tan hiện ra làm quặn thắt
tâm hồn. Ai đã từng bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ quê hương đi lưu lạc xứ người
có lẽ không lạ gì những phút đau thương như thế. Hạ Thái Trần Quốc
Phiệt làm thơ hiện thực, không phải thứ hiện thực phơi bày lộ liểu
sự kiện xảy ra, mà là diễn tả thực tế biến chuyển hiện tại trong
lòng mình, tài tình làm cho nỗi đau của chính mình, của thế hệ
mình hiện hữu giữa đất trời cao rộng, nên cũng cao rộng như đất
trời.
Vế chót bài thơ
tác giả cô đọng đất trời vào một điểm. Điểm ấy là điểm đứng của tác
giả mà cũng là điểm đau trong lòng mình:
Nơi cõi chon von
cao chất ngất
Trời gần sao vẫn
buốt hơn băng.
Phải hiểu rằng
tác giả đứng một mình. Một mình nơi cõi chon von cao chất ngất để
nghĩ về quê hương, về sơn hà thì cái chon von ấy, cái chất ngất ấy
không còn biết tới cảnh vật quanh mình, nó gậm nhấm ở trong lòng mình.
Trời gần mà không nóng, mà buốt hơn băng, chứng tỏ băng cũng ở trong
lòng mình. Hai câu thơ ném con người lên đỉnh cao, đỉnh cao của cô đơn,
đỉnh cao của bi thương, xoá trọn vầng trăng bàng bạc, xoá trọn mây
xanh và tuyết trắng quanh mình. Tất cả khung cảnh nên thơ giờ đây đã
biến đi đâu mất. Trong hồn tác giả hiện nay chỉ còn có quê hương, quê
hương với “non tan” và “thác vỡ”.
Người trong thơ
thì thế nhưng người đọc thơ thì khác. Người đọc thơ sẽ thấy trăng,
thấy mây, thấy núi và thấy một bóng người trên đỉnh chon von như
người vọng phu hoá đá. Hình tượng trong thơ sầu biết bao mà đẹp biết
bao. Hình tượng trong thơ là hình ảnh của triệu con người ra đi bỏ
nước, lên cao để vọng về cố quốc, khóc âm thầm cùng gió cùng trăng
cùng mây và nước mắt nuốt vào lòng sẽ buốt giá hơn băng.
Đây là một bài
Đường thi có chủ đề chính mà người viết xin đặt tên là “Cảm nỗi non tan” (non là quê hương
là xứ sở) mà nhà thơ đã mượn cảnh “Trên
núi chon von” để bày tỏ lòng mình. Bài thơ ngắn như một miếng
vải nhỏ nhưng lại có phép thuật trùm lên vạn vật, nơi có khung cảnh
nên thơ hùng vĩ và nơi có quê hương xa xôi với cảnh điêu tàn. Bài thơ
chính là nỗi lòng, là niềm đau có thực của tác giả được khéo léo
đem khóc ở một khung trời lãng mạn làm cho tiếng thơ bay trong tuyết,
bay trong trăng, bay trong bầu trời lồng lộng, làm cho nỗi đau đó long
lanh ánh sáng đẹp vô cùng./.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 01.07.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét