TÔ THÙY YÊN -
SỰ DUNG HÒA CỦA THI CA
Hiệp định Genève cắt đôi hình đất nước, kéo theo một
cuộc di dân từ Bắc vào Nam, với qui mô chưa từng có, kể từ ngày lập
quốc. Những người di dân ấy, đã mang theo ngôn ngữ, văn hóa đặc trưng
vùng, miền về nơi định cư mới. Và trong dòng người đó, có rất nhiều
văn nhân, nghệ sĩ tài năng. Có thể nói, cái ngôn ngữ, văn hóa này,
ảnh hưởng ít, nhiều đến tâm hồn những văn nghệ sĩ phương Nam. Tô Thùy
Yên là một trong những nhà thơ chịu ảnh như vậy, và ngay từ buổi đầu
đến với thi ca. Nhất là từ khi ông tham gia sáng lập tạp chí Sáng
Tạo ở Sài Gòn cùng với những thi sĩ, văn nhân đất Bắc như: Mai Thảo,
Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ Tế, Thái Tuấn, Ngọc Dũng,
Duy Thanh…
Do vậy, đọc Tô Thùy Yên, ta có thể thấy, dường như ông
đã trộn ngôn ngữ, văn hóa của cả ba miền Bắc Trung Nam vào những
trang thơ của mình, để làm nên ngôn ngữ thơ (bác học) sang trọng, không
thể lẫn lộn với bất cứ nhà thơ nào khác. Thông thường khi đọc một
tác phẩm nào đó, một chút lưu tâm, ta có thể nhận ra quê quán nơi
sinh trưởng của tác giả, thông qua ngôn ngữ biểu đạt. Nhưng, cũng
giống như nhà thơ Luân Hoán, đọc Tô Thùy Yên, quả thật, khó có thể
nhận biết, quê quán, nơi sinh trưởng của ông qua những đặc tính trên.
Tuy đến với thi ca sớm, nhưng Tô Thùy Yên viết không
nhiều. Cho đến nay, ông mới in ấn, xuất bản hai thi phẩm: Thơ Tuyển
(1995) và Thắp Tạ (2004) ở hải ngoại. Cùng với nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn,
Tô Thùy Yên là một minh chứng làm sáng tỏ cho một nhận định: Có
người cả đời làm và in thơ, nhưng không bao giờ thành thi nhân, và có
người chỉ cần một tập, hay một bài thơ đã trở thành thi sĩ. Và
không dừng lại ở đó, Tô Thùy Yên còn là một nhà thơ lớn tên tuổi
trên thi đàn Việt cũng như quốc tế. Nói Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn,
chắc chắn không phải, bởi số lượng tác phẩm đồ sộ như Võ Phiến, hay
Du Tử Lê… mà do tư tưởng, nghệ thuật sáng tạo, cũng như nhân cách
sống của ông.
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò
Vấp, Gia Định. Ông đến với thi ca vào những năm cuối thập niên 50 của thế
kỷ trước. Ông có một thời gian học Đại học văn khoa Sài Gòn. Năm 1963
Tô Thùy Yên trở thành sĩ quan Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau chiến
tranh ông bị bắt, và tù đày suốt 13 năm. Hiện ông đang sống và viết
tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
Nhìn vào những biến cố đau thương của đất nước, ta
có thể thấy, cũng như những nhà thơ, người lính cầm súng khác, thi
ca Tô Thùy Yên được viết, và chia thành ba giai đoạn: Hai mươi năm cuộc
chiến huynh đệ tương tàn, rồi đến những năm tháng tù đày, và cuộc
sống nơi đất khách quê người.
* Người lính qua hình
tượng nghệ thuật.
“Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” không phải là bài thơ đầu
của Tô Thùy Yên, nhưng nó là cái mốc khởi đầu cho ông bước chân vào
làng văn. Bài thơ thất ngôn này, ông viết năm 1956, gây sự chú ý cho
người đọc, cũng như giới cầm bút lúc đó, bởi tính mới lạ của nó.
Tuy nhiên, với tôi, đây không phải là bài thơ hay của Tô Thùy Yên. Cái
hữu hạn của cuộc sống, con người dường như là tư tưởng nhất quán
xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Tô Thùy Yên. Và “Cánh đồng con ngựa
chuyến tàu” là bài thơ mang tính triết lý như vậy, mà ngay từ ngày
đầu cầm bút ông đã gửi đến người đọc. Có thể nói, Tô Thùy Yên có
cái nhìn, quan sát tỉ mỉ, để đi đến sự liên tưởng khá thú vị. Vâng,
sức lực, nhanh chậm hiện hữu đều nằm trong cái qui luật của tự
nhiên. Và “vết chấm nâu” ấy chính là điểm dừng của vòng quay trong
bức tranh của thiên nhiên, vũ trụ vậy.
Tuy nhiên, dù Tô Thùy Yên có dày công với thủ pháp xếp
vần, và hoán đổi vị trí âm ngữ trong thơ, nhưng nếu không có câu thơ
kết: “Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ/ Chấm giữa nền nhung một vết nâu, .” tạo
nên bố cục của bức tranh hay tứ của một bài thơ, thì những câu thơ
trên chỉ là những câu nói thường nhật mà thôi:
“Trên cánh đồng hoang
thuần một màu,
Trên cánh đồng hoang dài
đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Tàu chạy mau, tàu chạy rất
mau.
Ngựa rượt tàu, rượt tàu,
rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng
mặt.
Gò nổng cao rồi thung lũng
sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào
hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn
mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời
lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục
đầu.
Cánh đồng, a! cánh đồng sắp
hết.
Tàu chạy mau, càng mau,
càng mau.
Ngựa ngã lăn mình mướt như
cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết
nâu.”
Có thể nói, Tô Thùy Yên có sở trường về thơ thất
ngôn. Ông rất dụng công làm mới không chỉ về nội dung hình thức nghệ
thuật, mà còn khắt khe về chọn lọc ngôn từ. Do vậy, thơ Tô Thùy Yên
không chỉ đọc một lần, mà buộc ta phải suy nghĩ. Và đọc nó, ta thấy
nặng nhọc, không kém gì tác giả viết ra nó. Nói thơ Tô Thùy Yên không
dành cho người đọc hời hợt là vậy. Nói về người lính, từ trước
đến nay, chúng ta thường nhớ đến Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, mà
dường như quên mất bài Qua Sông của Tô Thùy Yên. Với tôi, đây là một
trong những bài thơ bi thương, và hay nhất của thi ca Việt viết về
người lính trong chiến tranh. Ngoài giá trị về mặt tư tưởng, Tô Thùy
Yên còn cho ta thấy tài năng nghệ thuật sử dụng từ ngữ, với lối so
sánh ẩn dụ rất mới lạ, lấy nỗi nhớ để đo khoảng cách: “Con đường
đáo nhậm xa như nhớ” cùng những từ có âm đôi (âm kép): “Châu thổ mang mang
trời nước sát”. Hoặc từ ngữ ghép mới, hoán chuyển độc đáo từ danh từ
thành tính từ:“Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa”. Nó làm cho câu thơ sắc và
sinh động. Với thủ pháp nghệ thuật này, sau này nhà thơ Trần Mạnh
Hảo sử dụng rất thành công trong trường ca Đất Nước Hình Tia Chớp:
“Chỉ nhìn vào móng chân thôi/ Biết em đã lội qua thời trẻ trung”. Nếu
“Trời mốc” trong câu thơ của Tô Thùy Yên, từ danh từ chuyển thành tính
từ, thì động từ “Lội” trong câu thơ của Trần Mạnh Hảo cũng hoán
chuyển thành tính từ. Và cả hai đồng lột tả sự buồn thảm, xót xa.
Có thể thấy, đây là một trong những đặc tính nghệ thuật tiêu biểu
của Tô Thùy Yên. Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây dể thấy được
cái tàn nhẫn của chiến tranh, cũng như số phận bi thương của người
lính:
“Đò nghẹn đoàn quân xa
tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hôi
xưa
Con đường đáo nhậm xa như
nhớ
Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng
cò
------
Châu thổ mang mang trời
nước sát
Hồn chừng hiu hắt nỗi không
tên
Tiếp tế khó - đôi lần phải
lục
Trên người bạn gục đạn mươi
viên
Di tản khó - sâu dòi lúc
nhúc
Trong vết thương người bạn
nín rên
Người chết mấy ngày chưa
lấy xác
Thây sình mặt nát lạch
mương tanh...”
(Qua Sông)
Khổ kết bài thơ, tác giả bất ngờ đổi thủ pháp nghệ
thuật, từ thất ngôn chuyển sang thể lục bát. Làm cho câu thơ trở nên mềm
mại, ngân nga, như những lời ru mình, ru đồng đội, ru cho đất nước
trong cơn khổ đau vậy. Đây cũng là sự độc đáo của bài thơ. Tuy nhiên,
với thủ pháp này, ta đã bắt gặp ở Đến Hương Phấn Mê Linh, hay Tìm
Bóng Tử Thần trong thơ Đinh Hùng:
“... Nao nao mường tượng
bóng mình
Mịt mùng cõi tới u minh
tiếng rền
Xuống đò, đời đã bỏ quên...
Một sông nước lớn trào lên
mắt ngời.“
(Qua Sông)
Nếu hình ảnh người lính trong thơ Nguyễn Bắc Sơn hiện
lên với khẩu khí ngang tàng, và bất cần:“ Khi tao đi lấy khẩu phần/ Mày
đi mua rượu đế Nùng cho tao/ Chúng mình nhậu đế trừ hao/ Bảy ngày sắp đến nghêu
ngao trong rừng… Mai ta đụng trận ta còn sống/ Về ghé Sông Mao phá phách chơi/
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/ Đốt tiền mua vội một ngày vui…“, thì người
lính ấy trong thơ Tô Thùy Yên tuy khí chất trời Nam, nhưng vẫn mang mang
nét hào sĩ, trí thức. Thật vậy, đọc Anh Hùng Tận một bài thơ tự
sự, kể về một chiều nghỉ chân trên đường hành quân, tác chiến. Không
có khói bom và tiếng súng, nhưng dường như người đọc vẫn cảm được
cái chết (có thể ngày mai) đang đến rất gần với người lính, thông
qua hình tượng ẩn dụ: “Bạn hỏi thăm ta cho có lệ/ Cuộc đời binh nghiệp. Ta
cười bung:/ Còn mươi tháng nữa lên trung úy/ Có thể ngày mai chửa biết
chừng”. Và có thể nói, Anh Hùng Tận cũng là một trong những bài thơ
điển hình về tài năng sử dụng các biện pháp tu từ với câu thơ vắt
dòng, cùng dấu chấm ngắt câu độc đáo, gây bất ngờ cho người đọc
trong thơ Tô Thùy Yên:
“Dựng súng trường cởi nón
sắt
Đơn vị dừng quân trọn buổi
chiều
Trọn buổi chiều, ta nhậu
nhẹt
Mồi chẳng bao nhiêu, rượu
rất nhiều
Đây ngã ba sông, làng sát
nước
Xuồng ba lá đậu kế chân bàn
-------
Ta gạn dăm lời thơ tặng bạn
Dẫu từ lâu bỏ việc văn
chương
Thiệt tình tên bạn ta không
nhớ
Nhưng mà trông mặt thấy
quen quen
Hề chi, ta uống cho say đã
Nào có ra gì một cái tên...
Tới đây toàn những tay hào
sĩ
Sống chết không làm thắt
ruột gan
Cũng không ai nhắc về thân
thế
Có vợ con mà như độc thân
Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp. Ta
cười bung:
Còn mươi tháng nữa lên
trung úy
Có thể ngày mai chửa biết
chừng …”
Dường như thoáng một chút bi quan, nhưng hình ảnh
người lính trong thơ Tô Thùy Yên vẫn hiện lên một cách hồn nhiên, và
sảng khoái:
“Ta chắt cho nhau giọt rượu
sót
Tưởng đời sót chút thiếu
niên đây
Giờ cất quân, đưa tay bắt
Ước cõi âm còn gặp để say.“
(Anh Hùng Tận)
Tôi biết và đọc Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên khi đi
sâu vào tìm hiểu thể thơ Hành. Tô Thùy Yên viết bài thơ này, khi ra
thăm đảo vào tháng 3-1974, ngay sau khi giặc Trung Quốc đánh Hoàng Sa.
Với tôi, Trường Sa Hành là bài thơ viết về biển đảo hay nhất từ
trước đến nay của nền văn học Việt Nam. Và có thể nói, Trường Sa
Hành không chỉ có giá trị về văn học, mà còn giá trị về mặt lịch
sử. Đọc Trường Sa Hành, có lẽ ta cũng nên nhắc lại một chút về thể
thơ này: Viết về chiến tranh, người lính có lẽ không có thể thơ nào
chuyển tải và lột tả hết cái bi thương bằng thể thơ Hành. Hành
thuộc thơ cổ, có xuất xứ từ Trung Quốc, thường viết theo thể thất
ngôn, hoặc ngũ ngôn, dài ngắn tùy thuộc tâm trạng, cảm xúc của tác
giả. Nó là thể thơ khó nhằn, khó viết. Nhìn chung, các nhà thơ Việt
rất ít, hoặc ngại sử dụng thể loại này.
Đã đọc khá nhiều thơ thể hành, nhưng quả thực, còn đọng
lại trong tôi không nhiều. Bởi, tuy từ ngữ, khẩu khí trong thơ mang
tính tự do, phóng khoáng, nhưng để đạt đến cái đỉnh bi tráng, thực
sự lay động lòng người, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Tôi cho
rằng, kể từ khi có thơ mới đến nay, Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên
cùng với Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn
Bính, Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư và Đau Thương Hành của Thế
Dũng là những bài viết theo thể Hành hay nhất.
Thật vậy, cuộc sống gian khổ của người lính, dưới
cái điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, đã được tác giả nhân cách
hóa bằng hình tượng so sánh đảo trôi. Đảo trôi là từ mới của Tô
Thùy Yên. Và vẫn thủ pháp hoán chuyển, động từ (trôi) sang tính từ
trong câu thơ: “Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi” chỉ cái hữu hạn của sức
người dưới cái khắc nghiệt khôn cùng của thiên nhiên. Nhiều lần tôi
đã viết: Thơ hay dứt khoát phải có từ mới, hoặc cụm từ mới. Từ hay cụm từ mới
không có nghĩa người viết chế, nghĩ ra, mà do cách sử dụng từ ngữ. Nhiều từ,
cụm rất cũ, nhưng người viết đặt hoặc ghép trong câu đúng văn cảnh nào đó, gây
bất ngờ cho người đọc, nó trở thành câu mới, nghĩa mới. Nhà thơ tài năng, ngoài
kiến thức ra, dứt khoát phải là người có trí tưởng tượng và sự liên tưởng phong
phú. Vâng! Tô Thùy Yên là một nhà thơ tài năng như vậy. Có thể nói,
ông là nhà thơ hàng đầu về làm mới ngôn ngữ, và thi pháp. Sự nhào
trộn giữa mới và cũ mang mang hồn cổ phong ấy, đã đưa câu thơ tưởng
chừng dân dã, trở nên sang trọng.
Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây, để thấy rõ cái
gian khổ, bi ai của người lính đảo, cũng như tài năng làm mới thơ
thất ngôn của thi sĩ Tô Thùy Yên:
“Trường Sa! Trường Sa! Đảo
chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn
bề
Lính thú mươi người lạ sóng
nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi
đi
Mùa Đông Bắc, gió miên man
thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách
tưa
---
Bốn trăm hải lý nhớ không
tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng
nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi
nhanh
Sóng thiên cổ khóc, biển
tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ
nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao
nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc
trắng trời…”
(Trường Sa Hành)
Đắng cay, gian khổ là thế, nhưng dường như không riêng
Tô Thùy Yên, mà nhà thơ quân đội nào cũng vậy, luôn có cái nhìn nhân
bản và khách quan về chiến tranh. Nếu lòng nhân đạo, trong thơ Nguyễn
Bắc Sơn chỉ gói gọn ở hai người lính đối đầu: “Ta bắn trúng ngươi vì
ngươi bạc phước/ vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi“ thì sự nhân đạo, cảm
thông trong thơ Tô Thùy Yên rộng lớn, và khai mở hơn. Ông gọi tên, lột
mặt một cách mỉa mai, những kẻ mê hoặc, đứng sau cuộc chiến: “Ta
thương ta yếu hèn/ Ta thương ngươi khờ khạo/ Nên cả hai cùng cam phận quay
cuồng/ Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử/ Cùng mê sa một con đĩ thập thành”.
Và Chiều Trên Bến Tam Giang là một bài thơ độc thoại như vậy của Tô
Thùy Yên. Bài thơ được viết theo thể tự do, và chia làm ba đoạn. Và
mỗi đoạn là một bài thơ hay, hòan toàn có thể đứng độc lập. Đây là
bài thơ điển hình nhất về sự dung hòa ngôn ngữ vùng, miền trong thơ
Tô Thùy Yên. Nếu không biết Tô Thùy Yên người Sài Gòn- Gia Định, thì
có lẽ, ai cũng nghĩ, tác giả phải là người Huế, hoặc Hà Nội.
Phần hai của bài thơ được nhạc sỹ Trần Thiện Thanh
phổ thành bản nhạc nổi tiếng cùng tên. Thông qua tình yêu và nỗi
nhớ, Tô Thùy Yên đã giãi bày về cuộc chiến với tư tưởng bi quan,
chán chường. Thật vậy, chiến tranh đã vào thành phố, len vào: “Nơi
chúng ta thường hẹn gặp” để rồi chỉ còn những ghế bàn quạnh quẽ, cô
đơn. Đọc bài thơ này của Tô Thùy Yên, chợt làm tôi nhớ đến câu thơ
rất hay của Ngô Thanh Hoàn: “Chiến tranh cắn vào mê nón cháy em ngồi.”.
Vâng! Chiến tranh cháy vào trong lòng thành phố, nhưng thi sĩ Tô Thùy
Yên vẫn lãng mạn hóa tình yêu và cuộc sống, qua những lời độc thoại
của mình. Có thể nói, chính sự dung hòa ngôn ngữ, đã làm nên lời
thơ nhẹ nhàng và tuyệt đẹp này:
“…Giờ này có thể trời đang
mưa
Em đi nép hàng hiên sướt
mướt
Nhìn bong bóng nước chạy
trên hè
Như những đóa hoa nở gấp rút
Rồi có thể em vào một quán
nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên
những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn
quạnh quẽ…”
Và người lính của Chiều Trên Bến Tam Giang không trở
về, để em thành Góa Bụa. Rời bỏ quán nước quen, em chạy tìm anh ngoài
cõi gió. Nếu ta đã đọc Làm Dâu của nhà thơ, người lính chiến bên kia
chiến tuyến Trần Mạnh Hảo: “…Mỗi khi chim lợn kêu dồn/ Khói hương khấn gió
Trường Sơn tìm mồ/ Đêm về đội lén khăn xô/ Thương người nằm khoác ba lô mối
đùn…” thì mới hiểu hết nỗi đớn đau với tiếng kêu oan khốc của người
đàn bà Góa Bụa trong thơ Tô Thùy Yên. Và xin nhắc lại bài thơ của
Trần Mạnh Hảo, để chứng minh thêm một điều: Chiến tranh, dù ở phía
nào đi chăng nữa, sự đớn đau ấy đều giống nhau, và bao giờ cũng
thuộc về những người mẹ, và những người vợ.
Có thể nói, Tô Thùy Yên viết Góa Bụa không chỉ bằng
cảm xúc, mà còn bằng lý trí của mình. Và đã lâu lắm rồi, tôi mới
được đọc những câu thơ mới lạ với hình ảnh ẩn dụ hay đến rợn cả
người như vậy: “Ngọn đèn hư ảo chong linh vị/ Thắp trắng thời gian mái tóc
em.” Đọc nó, chợt làm tôi nhớ đến cảm xúc khá tương đồng trong bài
Biển Hoàng Hôn của mình viết đã lâu: “ Sóng bạc đầu mang cả màu tóc
em”.
Góa Bụa là bài thơ cô đọng, bố cục khá chặt chẽ.
Từ siêu hình trở về hiện thực, Tô Thùy Yên đưa người đọc chìm vào
nỗi đau với những câu thơ đậm tính ước lệ, tượng trưng. Ta cùng đọc
đoạn trích dưới đây để thấy rõ điều đó:
“Con chim nhào chết khô
trên cửa,
Cửa đóng muôn ngàn năm bặt
âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ
mộ.
Sao người khai giải chưa về
thăm?
Em chạy tìm anh ngoài cõi
gió,
Lửa oan khốc giỡn cười ghê
hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên
cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu
chôn….
…Ngọn đèn hư ảo chong linh
vị,
Thắp trắng thời gian mái
tóc em.
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi
lạnh.
Hồn xa con đóm lạc sâu
đêm….”
Là nhà thơ quân đội, do vậy thơ Tô Thùy Yên luôn đồng
hành cùng người lính. Ông đã trải lòng mình, lòng đồng đội lên
những trang viết của mình. Tính xã hội cũng nóng bỏng trong thơ ông:
“…Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng/ Ăn sạch quân, trừ lính được thua…” . Nhận ra
chân tướng, và nước cờ ấy, Tô Thùy Yên chán chường, luôn mơ ước trở
về với tuổi thơ, trở về người thi sĩ đích thực: “Hề, ta trở lại gian
nhà cỏ/ Giữa cánh đồng không, bên kia sông /… Vầng trăng ta thấy thời thơ ấu/
Mọc lại cho ta thuở xế tàn”. Nhưng ước nguyện ấy của thi sĩ, chỉ là một
giấc mộng trên Chiều Phá Tam Giang mà thôi.
* Từ giam hãm tù đày
đến tấm lòng nhân bản, vị tha.
Chiến tranh chấm dứt, thời thế, xã hội đảo lộn tùng
phèo. Thay cho trở về tuổi thơ, trở về làm người thi sĩ, thì giam
hãm tù đày là nơi Tô Thùy Yên buộc phải đi đến. Tàu Đêm là một bài
thơ, hay là cuộc hành trình vào nơi địa ngục ấy của ông. Tôi đã đọc
hồi ký, thơ văn của một số nhà văn và cả những tướng, tá Quân đội
Việt Nam Cộng Hòa cùng viết về những ngày tù tội, tàu xe chuyển
trại. Nhưng có lẽ, Tàu Đêm làm tôi xúc động hơn cả. Từ hiện thực
tủi nhục, khổ đau và đói rách: “Ngồi đây giữa những phân cùng bụi…/ Ta
trở thành than, thành súc vật.” người tù Tô Thùy Yên hồi tưởng về một
thời tươi đẹp, mới đây thôi, nhưng ở nơi tưởng chừng xa vời vợi. Có
điều đặc biệt nữa, đọc thơ Tô Thùy Yên, ta thấy cứ tầng tầng lớp
lang, so sánh nằm trong so sánh, hình ảnh lồng trong hình ảnh, buộc
người đọc cứ phải bóc dần ra. Tuy nhiên, cũng như các nhà thơ khác,
Tô Thùy Yên không phải, không có những câu thơ dở nằm trong bài thơ hay.
Nhưng có thể nói, ngoài tài năng Tô Thùy Yên có tính cần cù, tìm
tòi sáng tạo. Mỗi bài thơ của ông, ta đều có thể tìm thấy một điều
mới mẻ ở trong đó. Do vậy, bài thơ nào của Tô Thùy Yên cũng đi vào
lòng người. Và Tàu Đêm cũng là một bài thơ như vậy của ông: “Có lúc
tàu qua những thị trấn/ Mà đêm đã gói lại im lìm”. Đây là hai câu thơ
hay, và tôi thích nhất trong bài. Bởi, động từ “gói” được đặt đúng
văn cảnh, bật lên hình tượng ẩn dụ mới, làm cho người đọc chờn
chờn, rợn rợn, trước cái thị trấn chết, và cuộc sống tù hãm của
con người. Và mảnh đất chết, vắng những linh hồn ấy, thì những
tiếng kêu của những kẻ tù đày, khốn khổ đó rơi tõm vào hư vô mà
thôi: “... Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục/ Cho tiếng rền vang dội địa cầu/ Lay
động những tầng mê sảng tối/ Loài người hãy thức, thức cùng nhau”. Và đoạn
trích dưới đây không chỉ cho ta thấy nỗi thống khổ, bị đày đọa của
những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, mà còn chứng minh thêm tài năng xây
dựng hình ảnh, hình tượng của Tô Thùy Yên:
“Ngồi đây giữa những phân
cùng bụi
Trong chuyển đời xung xát
bạo tàn
Ta trở thành than, thành
súc vật.
Tiếng người e cũng đã quên
ngang.
---
Tàu ơi hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dậy địa
cầu
Lay động những tầng mê sảng
tối
Loài người hãy thức, thức
cùng nhau ...”
Tiếng kêu cất lên từ miền đất chết, chỉ vọng lại
một dấu chấm than (!), trong nỗi tuyệt vọng của người lính tù phương
Nam: Xứ khổ, thêm chi mùa thảm khốc/ Than ôi, trời đã bỏ rơi dân!”. Và Tầu
Đêm không dừng lại sân ga, địa ngục trần gian là nơi họ phải đến: ” Ở
đây, địa ngục chín tầng sâu/ Cả giống nòi câm lặng gục đầu”. Nếu ta đã đọc
Ra Biển Gọi Thầm của Trần Hoài Thư, hay Sau Cơn Binh Lửa của Song Vũ,
thì sẽ giảm đi sự giật mình kinh hãi, khi đọc Mùa Hạn của Tô Thùy
Yên. Đọc Mùa Hạn, cho ta cảm giác, trong cái bi đát tột cùng ấy,
người tù không còn sống bằng sinh hóa năng lượng nữa, mà chỉ còn
sống bằng những hoài niệm. Và những hoài niệm bình yên và tươi đẹp
ấy, chính là sự dung hòa, làm dịu đi nỗi nhục nhã, đắng cay trong
thơ mà thi nhân muốn gửi đến người đọc chăng? Phải nói, những đoạn,
hoặc những bài hoài niệm này của Tô Thùy Yên có lời thơ rất đẹp: “Ở
đâu còn cụm mây hư ảo/ Bay tự ngàn năm trắng cổ thi.”. Không dừng ở hoài
niệm và nhẫn nhục, lời thơ Tô Thùy Yên cũng căng lên đầy phẫn uất.
Tuy nhẹ nhàng, nhưng sự mỉa mai, châm biếm ấy, mang tiếng cười rất
chua cay: “ Đám chủ mới, y trang xúng xính/ Súng nghênh ngang, tiếng hét phàm
phu/ Xua trăm họ sá chi thân mạng / Lăn địa cầu ra khỏi lối xưa.” . Uất ức
là vậy, nhưng tính nhân bản lòng vị tha, luôn mở cho mình, cho người
những lối thoát, xuyên suốt cuộc sống, cũng như trang thơ Tô Thùy Yên: “Những
ai hôm trước từng gây tội/ Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình/ Tựa tại, thời gian
chôn chính nó/ Đời lên lại mãi tựa bình minh.”. Ta có thể thấy, ở
lãnh vực nào, thể loại nào thơ của Tô Thùy Yên rất nhẹ nhàng, chừng
mực. Nhưng không hiểu sao ông lại bị bắt nhiều lần, và tù lâu đến
vậy, dù có là sĩ quan cấp tá đi chăng nữa?. Tôi cứ ngẫm nghĩ và tự
hỏi. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể tìm ra câu trả lời: Cũng như Vũ Hoàng
Chương cái tên, cái bóng Tô Thùy Yên quá rộng, quá dày đối với một
chế độ, chính quyền yếu đuối, nhìn đâu cũng thấy vi trùng sợ hãi
chăng?. Đoạn trích dưới đây, là một trong những đoạn thơ, mà một số
người cho là nặng nề nhất của Tô Thùy Yên:
“Ở đây, địa ngục chín tầng
sâu,
Cả giống nòi câm lặng gục
đầu,
Cắn chết hàm răng, ứa máu
mắt,
Chung xiềng nhưng chẳng dám
nhìn nhau.
Bước tới, chân không đè đá
sắc,
Vai trần chín rạn gánh oan
khiên,
Nước khe, cơm độn, thân tàn
rạc,
Sống chẳng khôn, cầu được
thác thiêng.
Xứ khổ, thêm chi mùa thảm
khốc.
Than ôi, trời đã bỏ rơi dân!
Nắng kim khí chảy, đá rạn
nứt,
Gió táp, rừng khô rụm, cát
tràn…
Ta nhặt từng trang sách
rách toang
Đứa ngu đã xé vứt ra đường.
Ta gom từng hạt cây luân
lạc,
Mong mỏi gầy lên một địa
đàng…”
(Mùa Hạn)
Mười năm nơi địa ngục trần gian, cứ tưởng rằng đã
tẩy rửa được tư tưởng, tâm hồn, cũng như ý trí Tô Thùy Yên, nhưng họ
đã lầm: ”Mười năm ta vẫn cứ là ta”. Và Tô Thùy Yên đã sống sót trở về.
Ông không khỏi bùi ngùi, xúc động. Quê hương còn đó, nhưng đã vắng
những bóng người: “Khách cũ không còn, khách mới thưa”. Không một chút
hận thù, nhưng ông vẫn muốn bóc trần bộ mặt thật của chế độ, xã
hội: “Ta về khai giải bùa thiêng yểm”. Cho nên, lời vĩnh biệt mười năm
chết dấp của Tô Thùy Yên đã không thành sự thật. Nhà tù, nơi chết
dấp ấy, vẫn là nơi ông phải nhiều lần quay trở lại. Vì vậy, Ta Về
của ông không chỉ viết, và đọc cho một lần...Và tôi cũng không rõ, những
lần ra tù sau, tâm trạng ông có bùi ngùi, thiết tha giống với lần
đầu không?
Đi sâu vào nghiên cứu, có thể thấy, Ta Về là bài thơ
điển hình nhất về tư tưởng, nhân cách con người Tô Thùy Yên. Thời gian
này, Tô Thùy Yên đến gần thiền triết, với tâm thức, linh hồn đã vượt
ra khỏi cuộc sống dã man tầm thường, trong một cái xã hội lưu manh
ấy:
Ta về một bóng trên đường
lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế
phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi
thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết
dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng
nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe
nước
Ta hóa thân thành vượn cổ
sơ …
…Ta về cúi mái đầu sương
điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất
trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi…”
Có thể nói, cùng với giai đoạn trước 1975, thời gian
cải tạo tù đày, và cho đến ngày xuất ngoại, bút lực của Tô Thùy
Yên mạnh mẽ, tài hoa. Thi pháp, nghệ thuật của ông đã đạt tới mức
bậc thày.
* Thân làm lữ
khách, tâm nơi quê nhà.
Lần cuối cùng thoát ra từ nhà tù nhỏ, Tô Thùy Yên
không còn bùi ngùi, và thiết tha nữa. Bởi, không phải riêng người
lính tù thất trận, mà cả thành phố của ông: “Thành phố của anh/ Nhục
nhằn duyên cưỡng ép”. Và thành phố rộng, nhưng chẳng còn một bóng
người quen. Để rồi, buộc ông phải trốn bỏ nơi bản quán: “ Anh/ lên
đường, cúi mặt lên đường/ Giả tảng không nhìn nỗi sỉ nhục/ Phi trường bị đánh
thức”. Cái mênh mông của nước Mỹ càng làm cho tâm hồn Tô Thùy Yên thêm
trống trải, cô quạnh. Sự hoang mang ấy, dường như làm cho ông bi quan
và chán chường: “Nước Mỹ này quá rộng và quá buồn/ Anh không còn muốn tự
định liệu.”. Và xa thật rồi, mà Tô Thùy Yên cứ ngơ ngẩn hỏi. Một câu
hỏi của người dường như đã lạc mất linh hồn:
“Đi như lạc trong trời đất,
Thuỷ tận sơn cùng, xí xoá
ta.
Cõi chiều, đứng lại, khóc
như liễu:
Có thật là ta đi đã xa?”
(Đi Xa)
Quê hương, bản quán là nỗi nhớ thường trực trong Tô
Thùy Yên. Một khúc nhạc quê, một kỷ niệm nhỏ trở về cũng làm tâm
hồn nhạy cảm của người thi sĩ xao động. Và không chỉ cô đơn với cõi
chiều tàn ấy, mà trên đường xe chạy, hay hàng quán nơi chốn đông
người, Tô Thùy Yên vẫn cảm thấy lẻ loi, dằn vặt tự hỏi. Vâng! Có
lẽ, đây là nỗi đau, nỗi buồn tâm lý chung của những kẻ xa quê, chứ
không riêng người thi sĩ:
“Thả hồn trôi theo một
tấu khúc chừng quen,
Dềnh giạt về những quá khứ
bỗng ngoi nổi.
Nhớ lại, cố nhớ lại những
người bạn bặt tin, những người thân tứ tán…
Ghé lại một trạm xăng, một
hàng fast food hay một rest area
Đây là đâu ?
Đây cũng là đâu đó vậy
Dấp nước đầu, cổ, mặt,
Tỉnh tỉnh lại với đời ...
Và trong những khoảnh đèn
khoét đọng lẻ quạnh,
Nhìn chút đỉnh những con
người,
Nhìn cuộc sống còn nửa
thức, nửa ngủ .
Hỏi lại mình: Lòng ngất
tạnh khuya,
Tìm đâu một chốn ấm hơi đời
?”
(Đường Trường Đêm)
Rồi người thi sĩ đã tìm thấy hơi ấm ở nơi tình
người, tình đồng hương. Và cũng từ cảm xúc ấy đã cho ông nguyên liệu
sống viết nên thi phẩm Gặp Gỡ Giữa Đường. Có thể nói, đây là những
lời lục bát tự sự hay trong thi tập Thắp Tạ. Một thể thơ Tô Thùy Yên
rất ít sử dụng. Ta hãy đọc lại đọa trích dưới đây, để thấy sự cô
đơn và hoang mang ấy, dường như có lúc đã biến mất trong ông:
“…Vào đây, có lửa, có người,
Có cây rộng lượng che trời
hộ ta,
Có câu thăm hỏi quê nhà,
Đường qua thế ấy, đường xa
thế nào?
Giờ lâu, liệu lửa tiêu hao,
Quơ thêm tâm sự cho vào
chuyện chung,
Giữ ta sáng ấm mặt lòng,
Rõ đêm nhân thế vốn cùng
loại đêm…”
Tập thơ Thắp Tạ hầu như bao gồm những sáng tác từ
khi Tô Thùy Yên định cư tại Hoa kỳ. Có thể nói, đến với thi tập này,
bút lực của ông không còn được như trước, kể cả nội dung lẫn hình
thức nghệ thuật. Âu đó cũng là điều rất bình thường như con người,
có lúc hay lúc dở, khi khỏe mạnh hoặc ốm đau vậy. Và cũng có lẽ,
do môi trường sống thay đổi, hoặc do sức lực, tuổi tác của của Tô
Thùy Yên chăng?. Bài thơ “Vẫn Là“ khá hay, được Tô Thùy Yên viết sau
khi ông đến Mỹ được mấy năm. Khi nói về sự tĩnh lặng của mùa thu,
của tâm hồn, trong Thu Điếu, Nguyễn Khuyến đã dùng động để tả tĩnh:
“Cá đâu đớp động dưới chân bèo.“. Ở bài thơ này cũng vậy, Tô Thùy Yên đã
bắt chước tiền nhân chăng?. Ông dùng tiếng động của vật rơi để miêu
tả cái tĩnh lặng của không gian, cũng như tâm trạng. Với thủ pháp
vắt dòng, đảo ngữ khá hay. Tuy nhiên, những người đọc bình thường,
hoặc hời hợt sẽ khó hiểu, không gây được cảm xúc. Hơn nữa, trong thơ
ông thường sử dụng khá nhiều cổ ngữ, hay thuật ngữ Đạo giáo do vậy
rất kén người đọc:
“Vẫn là tiếng thinh lặng
kinh hoàng
Đâu đó quanh đây
Do một vật đã rơi buông từ
chỗ rất cao
Còn để lại…“
Thắp Tạ còn có những bài thơ khá dở. Và Nhanh Hơn
là một bài thơ như vậy. Dù có nói đến cái hữu hạn của con người
trước qui luật của tạo hóa, thiên nhiên, thì bài thơ này chưa được
sàng lọc, và tinh cất. Nếu bực mình, bác Tô Thùy Yên có lọc ra quất
roi vào đít, thì em vẫn nói: Mấy câu này chưa hẳn đã phải là thơ:
“Cố gắng,
Cố gắng theo cho kịp
Cái bóng mình như có đi
nhanh hơn.“
Có thể nói, đi sâu vào nghiên cứu Tô Thùy Yên, cho ta
biết thêm sự dung hòa trong một chiếc cán cân khác của nền văn học
miền Nam. Sự dung hòa ấy, không chỉ trong thơ, mà còn in đậm trong
cuộc sống thường nhật của ông. Mười ba năm dài đằng đẵng trong lao
tù, cứ tưởng rằng hận thù ấy đeo đẳng mãi trong ông. Nhưng Tô Thùy
Yên đã bước ra khỏi hận thù, trải lòng mình vào những trang thơ. Do
vậy, đọc thơ ông, ta không cảm thấy nặng nề về tư tưởng. Cả cuộc đời
của mình, Tô Thùy Yên luôn cần mẫn đi tìm lại hồn thơ cũ để tặng cho
người và cho đời. Hồn thơ ấy, chắc chắn sẽ sống cùng thời gian. Và
tôi xin mượn bài thơ Tặng Phẩm có thể làm sáng tỏ thêm chân dung của
nhà thơ, để kết thúc bài viết này:
“Thức cho xong bài thơ.
Mai sớm ra đi,
Cài hờ lên cửa tặng.”
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Đỗ Trường0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
"CÔ" SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
ĐỖ TRƯỜNG
Địa chỉ: Thành
phố Leipzig, tỉnh Leipzig,
Bang Sachsen, Cộng hòa Liên Bang Đức.
Email: dotruong07@yahoo.de
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản
tác giả gửi qua email ngày 28.03.2021
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu
tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Bài viết hay quá! Viết chân dung văn học phải như thế này.
Trả lờiXóaCám ơn trang nhà đã giới thiệu bài viết của Đỗ Trường!