TRÚC
THÔNG -
‘MỘT NGỌN ĐÈN XANH’
CHÍN LỬA
*
(Tác giả Trần Mạnh Hảo) |
Đêm
nay quá vu vơ trống trải, buồn không ra buồn, vui chẳng ra vui, cả người tôi
nhàn nhạt chết đi được, bỗng quờ tay bất chợt kệ sách, vô tình vịn vào “ Một
ngọn đèn xanh” của nhà thơ Trúc Thông mà riu riu đọc, se sẽ chữ, thoang thoảng
giấy, men men thơ, chợt ngỡ ngàng mình đã đọc oan Trúc Thông mất rồi. Hóa ra,
thơ chính hiệu không phải lúc nào đọc cũng được. Có tập thơ đọc lúc này thấy
thường mà lúc khác đọc lại thấy hay và ngược lại.
“Không mơ hồ anh
chết” – một câu thơ lạ cực, rất Trúc Thông, như một tuyên ngôn thơ của trường
phái mơ hồ. Tôi đã thấy nắng thu, sương thu, gió thu, lá vàng thu rủng rỉnh vỉa
hè Hà Nội. Chừng như mưa phùn, heo may đất Bắc cùng tham gia thi nhóm mơ hồ với
Trúc Thông. Tôi không còn đủ giấy trích thơ ông, vì “đất” dành cho bài viết này
trên báo lũn cũn, eo hẹp lắm, đành phải cắt xén cả mơ hồ thôi:
“xích lô chú ơi
chở làm sao được
tôi về xa những xứ
mơ hồ
vào tới cửa
được nghe tiếng thở
thật đều đều của
hai đứa con thơ
rũ đêm mưa
tôi thấy mình trú
tạm”
(Ghi chép về thơ)
Đoạn thơ trên rất
mơ hồ mà chừng phản mơ hồ, càng đọc càng cảm động, hư tận cùng đấy mà cũng thực
bầm gan ruột đấy. May mà có tiếng thở đều đều của hai đứa con thơ, cứu chuộc
nỗi cô đơn của kẻ mơ hồ vác mưa về nhà mình ở trọ. Đời và thơ, tự do và giới hạn,
cụ thể và trừu tượng, hư vô và thực tại, cái không thể và cái có thể cứ đắm
đuối vào nhau một nỗi bơ vơ Trúc Thông mà trú tạm mơ hồ.
Càng biền biệt vào
cõi mơ hồ, Trúc Thông càng nghĩ tợn, nghĩ đến mức quắt queo cả câu thơ lại,
nghĩ đến toát mồ hôi chữ, nổi da gà trang giấy, như bài “ Đường lưng đèo gió”:
“nhoai lên
quành xuống
giữa núi xanh
tiếng chim rơi tịch
mịch
nỗi người đi muôn
trùng”
Bài thơ kiệm lời
đến keo kiệt cả bút mực, giấy má, vỏn vẹn có 17 tiếng mà ta cảm thấy có nhiều
binh đoàn xúc cảm nghìn nghịt trong gan ruột chữ, cuồn cuộn nỗi niềm “tịch
mịch” lòng người đọc, ngẩn ra mãi không hiểu vì đâu mà rưng rưng xao xác thế ?
Tôi phải chợt rót mời câu thơ kỳ lạ mà thật hay của Trúc Thông một li rượu làng
Vân ngâm rắn ráo quê hương: “Nỗi người đi muôn trùng” !
Trúc Thông sinh ra
ở đất Hà Nam bên bờ sông Châu Giang gọi là Tắc Giang. Con sông bị bít hai đầu
nên sông phải tìm ra phép lưu thủy mơ hồ là thoát nước ngược lên trời bằng phép
tự bốc hơi mịt mờ sương khói. Trúc Thông chừng như suốt đời quằn quại Hà Nam ra
vào với “ Bờ sông vẫn gió” đã học được “phép tắc giang” tự thoát nước lên trời
bằng thiên hướng mơ hồ sương khói, bít kín hai đầu tập thơ, bài thơ, câu thơ
thành bề ngoài “tắc thi” , dồn nén câu chữ như bó giò, như bánh dày, phẩm oản.
Chữ Trúc Thông bị nén quá, tìm cách bật vào lòng người đọc mà thảnh thơi, mà mơ
hồ như sông Châu Giang mơ hồ trời đất.
Trúc Thông xin được
con sông quê hương phong cách “bốc hơi thơ”, ngấm xuống đất giao lưu với những
mạch ngầm khó thấy, chơi kiểu luân vũ mơ hồ tưởng đứng yên, tìm ra lối “Thông
thơ” bằng “ Tắc thi”, đẩy thơ vào đường cùng để thơ sinh biến trong lòng người
đọc ( cùng tắc biến). Xin chép ba câu thơ thoáng nhìn ngỡ “tắc”, thương chúng
bị dồn vào chỗ sơn cùng thủy tận. Nhưng đi qua lớp vỏ “tắc” kia mới thấy sự
“thông” thoáng mơ hồ khôn xiết kể:
“xe đường phố rồ qua
cười chõ vào tai
người mải cúi…”
(Ghi chép về thơ)
Những bài hay trong
tập thơ này Trúc Thông toàn viết bằng phong cách “Tắc Giang”, đẩy thơ vào tận
cùng tĩnh, bỏ mặc nó tự tìm ra phép động, cho chữ tắc toàn phần, trúc trắc toàn
phần để mượt mà khoai lúa đôi bờ thơ, theo cõi mơ hồ thơ mà thông thoáng (tên
ông là Thông mà); ví như bài “Tĩnh họa” sau:
“bụi trắng yên
trên các mái
đôi khe cửa
lọt đèn câm
vòm đậm xanh
cây
nói gì
phố đêm đông
Trùng Khánh…”
Tôi yêu cái “đôi
khe cửa” thi ca ông vẫn hằng “lọt đèn câm” tìm tri âm tri kỷ. Những câu thơ
chín lửa này mọc lên im lặng ở các hẻm chữ cổ thành rêu phong, riu riu thức của
kẻ siêu hú gọi thơ về trong cô vắng:
“ đi vắng
luôn đi vắng
nhiệm vụ của anh
đến chân trời
thơ”
(thăm nhà một bạn
thơ Xứ Đoài)
Nhiệm vụ của Trúc
Thông trong thơ là đi vắng, không chường mặt ra câu chữ, không đứng lù lù lấp
hết khoảng mơ hồ của các khe chữ, tự lùi vào bếp núc, tự đi vắng ngay trong
ngôi nhà thơ mình, để các bác tìm thơ tha hồ lựa chọn, đi ở tùy tâm, không chạy
xổ ra mặt tiền thơ kéo rách áo người đọc như đám tiếp thị ăn uống xô bồ hung
hãn Sài Gòn, Hà Nội.
Với thơ, Trúc Thông
vốn làm nghề đi vắng. Nhưng hồn ông đã hóa ma xó trông nhà chữ, ai bước vào là
ám, ám bằng câm nín mơ hồ, ám bằng bút pháp răng cưa khúc khuỷu, nhùng nhằng tơ
nhện rạ rơm. Trúc Thông giữa thiên la địa võng của lởm chởm không vần, chợt đốc
ra chơi vần kinh khủng mà hay không ngờ khi ông viết về một tay xe lôi ở một
thị thành Tây Nam bộ:
”vợ nằm viện còn
thêm cha bệnh
hai con đang thơ
đại học hành
cũng có lúc chở
người ngoại quốc
ngắm những gì ngoài
cuộc đời anh”
(xe lôi)
Trúc Thông thực ra
cũng là một tay xe lôi thơ, chở toàn mơ hồ ngao du các phố hẹp, như kiến chữ mà
ngắm “những gì ngoài cuộc đời anh”. Vẫn phong cách “xe lôi thơ”, Trúc Thông hóa
thân vào bụi đỏ, vào nỗi hồng trần vạn cổ cha ông mà “tĩnh” ngay trong lòng “động”,
ngủ ngon trên bời bời thao thức ngay trên mũi giày cuộc đời:
“ai vừa cất tiếng
nói mê
một ngày mỏi mệt
trút lìa khỏi đêm
đường đời lên xuống
xuống lên
bình yên bụi đỏ ngủ
trên mũi giày”
(những phiếm đề)
Trúc Thông không bị
bụi, mà được bụi; một thứ bụi có vây có cánh, có hồn có vía, bụi định hướng
thơ… Ông đưa bụi làm thuốc vẽ, vẽ được hồn Phủ Lý quê ông bằng câu thơ hay:
“cây bên đường lấm
bụi
không thật xanh
dưới đèn”
(đêm Phủ lý sẽ
không thế nữa)
Phủ Lý là cái cây
bên đường ấy, nhà thơ là cây lấm bụi “không thật xanh dưới đèn” ấy. Ông giấu
mình trong bụi mà “đơn độc xanh”, tức tưởi xanh, ai có lòng mới biết, mới ngắm
nổi loài cây thơ trang điểm bụi bạc đầu. Gạt bụi thời gian là cây tùng Trúc Lâm
Yên Tử, ông lưu dáng ngước con người lên vĩnh hằng thơ:
“được tới đường tùng
cây xanh xuyên suốt
bảy trăm năm
lưu dáng ngước biết
bao cao sĩ”
(một lần Yên Tử)
Lưu dáng ngước lên
trời thơ, vừa muốn TRÚC vừa muốn THÔNG (Trúc Thông) nhà thơ mơ hồ ngóng vọng
xưa:
“sau giải sương
giăng thôn xóm xa mờ
lấp lánh lửa xa
có người mẹ thức
hai người ba người
bao nhiêu làng đêm
thức đâu từ triều
Lê triều Lý…”
Thơ tưng tửng, ngu
ngơ, vơ vẩn, ấm ớ vậy mà đọc lên thấy rơm rớm lịch sử, cứ ẩn ức hồn quê từ cái
không đâu. Trúc Thông hay nghĩ ngợi về mẹ, xót đắng dấu yêu mẹ đẻ ra thơ mình.
Xin đọc những dòng thật lạ:
“ sau khi trải nỗi
khổ to bằng thế giới
mẹ nhỏ lại
bằng đứa cháu kia
thôi
một cô bé tóc bạc”
(tặng mẹ Tiết)
Thơ hay chạm khắc?
Trong mê man quằn quại thi ca, Trúc Thông dày vò dồn nén chữ nghĩa mênh mông
của mình nhỏ lại, thành đứa trẻ thơ mang tóc bạc mơ hồ.
Trúc Thông thích để
vài vết xước rìu trên tượng cẩm thạch:
“Lâu đến nỗi lặn
rồi Sông Vị
chỉ còn hình sông
lượn quanh phố cổ
vài mái ngói âm
dương
cố gượng lên đỡ nốt
những ngày tàn”
(chiêm ngưỡng)
Thương quá vài mái
ngói âm dương, gầy trơ xương cố gượng dậy đỡ tàn phai, lưu lại thơ nỗi buồn sẫm
hết lòng phố cổ. Có khi thơ chạy ma ra tông trên phố quên khóac y phục mơ hồ…
“Một ngọn đèn xanh”
Trúc Thông đã chín lửa, chín thơ; đi từ chốn “chầm chậm tới mình” đến cuộc ma
ra tông thơ, đến được cõi không phân biệt mình với người, không phân biệt bơi
với bay, chạy với đi, chạm tới mơ hồ thảng hoặc. Ông chừng như đã học được cách
chơi của sông Tắc Giang quê mình mà thông thơ bằng trúc trắc. Ông lạc vào nghẽn
chữ Hà Nội để để thông thênh sương khói Hà Nam ngút trời Nguyễn Khuyến, cùng
“sư cụ nằm chung với khóm mây”, nằm chung với bụi đỏ mũi giày thi tứ.,.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
*.
TRẦN MẠNH
HẢO
Địa chỉ: 21/22 Xuân Thủy, phường Thảo Điền,
quận 2, Thủ
Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Email: cokhicon@gmail.com
Điện thoại: 091 841 00 42
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: tahongtruong@yahoo.com.vn, ngày 27.03.2021.
- Ảnh dùng
minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo rất ưu ái nhà thơ Trúc Thông!
Trả lờiXóa