Bến My
Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu
hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng
thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái
buồn để gió lén mơn râu.
Ông
không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi
hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu
hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ
vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi
quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ
vương trời, nhưng chỉ giải trăng trăng,
Chiều
ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm
buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng
đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng
đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.
Chàng
gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ
trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão
vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để
thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng
gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò
thôi run rẩy cả ngành trăng.
Bến My
Lăng còn lạnh, bến My Lăng,
Ông lái
buồn đợi khách suốt bao trăng...
Đừng
hỏi bến Mi lăng ở đâu?
Đừng
hỏi Bến Mi Lăng có thực hay không?
Hãy im lặng và đọc đi
đọc lại bài thơ để cho cái ánh trăng vàng đầy mộng mị của Yến Lan rắc vàng
trong lòng ta.
Đừng hỏi bài thơ muốn
nói gì?
Đừng cố gắng đi cắt
nghĩa bài thơ như có nhà phê bình văn học đã làm vì làm thế vô tình chúng ta đã
đi dung tục hóa một bài thơ đầy mộng mị.
Trôi
quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ
vương trời, nhưng chỉ giải trăng trăng,
Chiều
ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm
buồn vây phủ bến My Lăng.
Ở đâu có cái không gian
này? Không đâu cả! Nó chỉ có trong tâm hồn thi sĩ.
Tnh lặng. Thời gian như
ngừng lại để cho một nỗi buồn, một nỗi cô quạnh nhè nhẹ trùm lên hồn ta.
Đừng hỏi: ”Tơ gì
vương trời” vì chỉ nghi ngờ một chút thôi là toàn bộ cái không gian huyền
ảo của bài thơ trong ta sẽ biến mất.
Bài thơ này không để
hiểu. Bài thơ này để cảm.
Chiều
ngui ngút trôi về nẻo quạnh.
Nẻo quạnh ở đâu? Ở
trong chính lòng thi nhân. Chao ôi hai từ “Ngui ngút”! Nó gợi trong ta
một cái gì côi cút, lủi thủi và tĩnh lặng. Phải chăng chiều cũng biết cô đơn?
Bài thơ được làm trong
phong trào thơ mới. Thời kì này một tầng lớp tri thức tiểu tư sản mới hình
thành ở các đô thị việt nam còn nhỏ bé và yếu ớt hầu chưa có một vai trò gì
trong xã hội. Chính vì vậy họ luôn cảm thấy lạc lõng và cô đơn trước cuộc đời.
Chả thế mà Vũ Hoàng Chương đã kêu lên
Lũ
chúng ta, lạc loài, dăm bảy đứa,
Bị quê
hương ruồng bỏ, giống nòi khinh,
Bể vô
tận, sá gì phương hướng nữa,
Thuyền
ơi thuyền! theo gió hãy lênh đênh>
Yến Lan cũng nằm ở
trong tâm trạng đó. Và đấy là nguồn gốc của cái buồn, cái cô quạnh gần như là
ngưng trệ của bài thơ.
Nỗi buồn vô cớ và cô
đơn, đấy là tâm trạng chung của những thi sĩ thời bấy giờ. Xuân Diệu có: “Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Nguyễn Bính có: “Đời tôi sa mạc ôi sa
mạc/ Hoa hết thơm rồi rượu hết say”. Nhưng những nỗi buồn ấy đều là những
nỗi buồn thế tục. Xuân Diệu buồn vì: “Nhanh lên chứ vội vàng lên với chứ”. Nguyễn bính buồn vì: “Thủa xưa còn bé Nhi còn đẹp / Huống nữa giờ nhi đã đến
thì”. Hình như chỉ có duy nhất Yến Lan có một nỗi buồn thoát tục trong bến
Mi Lăng.
Ông lão
vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để
thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Hay.
Ông
không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi
hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu
hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ
vàng, trời thiếu những vì sao.
Ông lão lái đò là ai?
Là Yến Lan đấy. Nỗi buồn thời thế trộn lẫn với nỗi cô đơn nhân thế đã tạo nên
nhân vật ông lão lái đò. Hình ảnh ông lão lái đò phảng phất chút gì đó thoát
tục của cái vô vi đạo lão. Nhưng hãy nhớ rằng lúc viết bài thơ này Yến Lan mới
có mười sáu tuổi. Một chàng trai mười sáu theo tây học mang trong mình biết bao
nhiêu hoài bão liệu có “Vô vi” nổi không? Và cái hình ảnh chàng kị mã “Nhúng
đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.” Với:
Tiếng
gọi đò, gọi đò như oán trách,
Là cái gì đây? Tiếng
gọi đò hay tiếng gọi của cuộc sống vọng đến bên chàng trai mười sáu đang muốn
xa lánh cuộc đời?
Gọi đò
thôi run rẩy cả ngành trăng.
“Ngành trăng”!
Không phải là vầng trăng. Một vầng trăng không có trong thực đang run rẩy trong
tâm hồn thi sĩ vì một tiếng gọi đò.
Chao ôi! Chống lại cái
quyến rũ đầy mộng mị của cuộc đời “Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly”
Đối với một chàng trai mười sáu đâu có dễ dàng gì thế mà với Yến Lan thi sĩ
vẫn:
Ông lão
vẫn say trăng đầu gối sách
Để
thuyền hồn bơi khỏi bến Mi Lăng
Một không gian đầy hư
ảo và mộng mị tạo cho ta một nỗi buồn nhè nhẹ khi đọc bài thơ nhưng có lẽ hay
nhất lại là câu kết
Bến My
Lăng còn lạnh, bến My Lăng,
Không có dấu chấm
hỏi(?) đây là một câu hỏi không cần trả lời hay thi nhân tự hỏi chính mình?
Ông lái
buồn đợi khách suốt bao trăng...
Hóa ra Yến Lan không
thoát tục. Yến Lan đang chờ đợi! Chờ đợi một sự thay đổi lớn lao cho cuộc đời
mình. Để dứt mình ra khỏi cái cuộc sống buồn tẻ, cô đơn và vô ích. Và trong đời
thực ông đã thay đổi để hòa mình vào ngọn sóng cách mạng của dân tộc
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các
bài viết của (về) tác giả Nguyễn Thế Duyên0
- Các bài viết về Chuyện
làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm
nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận
thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ CẠN LÒNG:
NGUYỄN THẾ DUYÊN
Địa chỉ: số nhà 19 ngõ
695 phố Bạch Đằng,
Chương Dương, Hoàn Kiếm,
Hà Nội.
.
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên
bản từ email tác giả gửi ngày 16.09.2023.
- Ảnh dùng minh họa cho
bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét