(Nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc - Nguồn ảnh: internet) |
THƠ
NGUYỄN LƯƠNG NGỌC,
NHỮNG CÁCH TÂN KHỞI ĐẦU
*
những
con đã sinh ra thì đã chết
những
con chưa chết thì chưa sinh ra
N.L.N
1. Nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc
sinh năm 1958 tại Sơn Tây (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội). Ông tạ thế năm 2001
sau một thời gian gặp hiểm nạn. Thời khắc ông bước sang đời sống khác, là lúc
đang căng tràn sức sáng tạo, để lại bao dự định ngổn ngang cho những cuộc khởi
hành kế tiếp. Bạn đọc khi ấy đang chờ đợi thơ Nguyễn Lương Ngọc hiển lộ thêm,
độc sáng hơn. Có người còn dự đoán nhà thơ sẽ “bẻ ghi” sau ba tập thơ đã xuất
bản: “Từ nước” (Nxb Hội Nhà văn VN, 1991), “Ngày sinh lại” (Nxb Thanh niên,
1991) và “Lời trong lời” (Nxb Văn học, 1994). Nhưng hành trình thơ ấy đã dừng lại khi nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc mới vào tuổi 43.
Ông
cùng quê, xuất hiện cùng thời với Nguyễn Quang Thiều và
Dương Kiều Minh. Ba nhà
thơ này sẽ được văn học sử ghi danh là những tác giả khởi đầu cho khuynh hướng
thơ cách tân sau 1975 tại Việt Nam .
Họ là những nhà thơ quan trọng, sớm tìm ra con đường riêng của mình trong hành
trình sáng tạo. Bài viết này của tôi nhằm đánh giá và tưởng nhớ một tài năng,
sáng tạo với tinh thần tiền phong (avant-garde) đã ra đi trong đa chiều những
bàn luận, tranh cãi của người đọc về giá trị đích thực cũng như còn mơ hồ về
những khái niệm đổi mới, cách tân thi pháp.
(Tác giả Mai Văn Phấn) |
2. Thơ Nguyễn Lương Ngọc thể
hiện bút pháp tài hoa, mang định mệnh lớn ngay từ những bài thơ đầu tiên công
bố trong tập “Từ nước”. Ngắm mặt sông mà tỏ lòng sông/ Vuốt tóc
lòng tay gặp vầng trán/ Ấm, mát, một phần mùa đông (Mùa đông). Cũng như một số nhà thơ khởi nghiệp vào đầu
thời kỳ Đổi mới (1986), thơ Nguyễn Lương Ngọc xuất hiện trong từ trường của thơ
hậu chiến. Đây là giai đoạn văn học, đặc biệt thơ ca, gần như chững lại, đông
cứng... Những nhà thơ đã thành danh hồi ấy vẫn tiếp tục sáng tác trong dư âm
của cuộc chiến, hân hoan với chiến thắng, hoặc bầy tỏ sự cô đơn, lạc nhịp giữa
cuộc sống đời thường. Có một số tác giả trẻ mới xuất hiện lại chưa đủ nội lực
và uy tín để chinh phục người đọc. Thơ Nguyễn Lương Ngọc được trình hiện trong
bối cảnh như vậy, cũng là “một phần mùa đông” năm ấy. Thơ ông tựa mầm lá tơ
non, run rẩy và bỡ ngỡ trong heo hút gió lạnh: Tung tăng có em
gái nhỏ/ Ô xanh bóng mỏng theo sau (Em gái
trên đường); Câu hát mảnh tơ giữa miền quánh gió (Tương quan).
Thơ
Nguyễn Lương Ngọc giai đoạn này như vết nứt trên bề mặt của tảng băng báo hiệu
mùa xuân. Câu thơ sau đây thể hiện áp lực chuyển vần bên trong con người thơ
giàu nội lực và ý chí bứt phá: Để
anh đủ sức đập vụn mình ra mà ghép lại/ Nung chảy mình ra mà tìm lõi/ Xé toang
mình ra mà kết cấu (Hội họa lập thể).
Trong
tập thơ đầu tay của Nguyễn Lương Ngọc, bạn đọc thấy được nỗ lực và sức bền của
một mầm cây vừa bật lên trong mùa đông khắc nghiệt, và, cũng thấy được cả sự
rướn sức, lấy đà và hụt hơi trong một số câu thơ, bài thơ của ông. Bài thơ “Vẽ
chim” là một ví dụ cho thấy tác giả đã cố tình triết lý những hiện tượng vốn
rất tự nhiên và hồn nhiên trong đời sống: Hai chú cháu thi nhau chấm những dấu ngày càng bé tí. Không hiểu
sao, sau hôm đó, chẳng bao giờ bé còn nhờ tôi vẽ.
3. Tập thơ “Ngày sinh lại”
là bước vượt lên của thi pháp thơ Nguyễn Lương Ngọc, dù xuất bản cùng năm
(1991) với tập thơ “Từ nước”. Đây là giai đoạn phồn sinh của một thân cây đã
trưởng thành, có vóc dáng cao lớn, sum suê và ẩn chứa nhiều mặt khuất lấp.
Nếu
thiết kế không gian trong tập thơ “Từ nước” có thể ví với hình học phẳng, thì
một số bài thơ trong tập thơ “Ngày sinh lại” đã tạo cho bạn đọc cảm giác về
hình học không gian. Những hình ảnh trong đó thường đứt đoạn, cắt nhỏ, biệt
lập... để ráp nối lại trong không gian trừu tượng với nhiều góc nhìn từ nhiều
hướng. Nhà thơ không quan sát đối tượng ở một góc cố định mà đồng thời phân
chia thành nhiều mặt khác nhau, tạo những liên tưởng phức hợp, cho bạn đọc cảm
nhận như đang xem một bức tranh lập thể: Tôi xanh da trời/ Em tôi thì trắng/ Hai anh em
tươi/ Sương dâng ngang người (Tiên cảm).
Câu
thơ sau đây trong bài thơ “Đừng” đã phần nào lý giải cách kết nối không gian
trong thơ Nguyễn Lương Ngọc: Trong
căn phòng muốn gọn gàng/ Những đối thoại không lời.
Không gian của căn phòng “muốn” gọn gàng đã gợi ý những cuộc đối thoại “vô
ngôn” cho người đọc, đưa họ trở về với ký ức, những không gian tưởng tượng. Nếu
trong tranh lập thể, các bề mặt của hình họa, mặt phẳng giao nhau không theo
quy tắc phối cảnh, làm cho người xem nhận ra chiều sâu của bức tranh, thì trong
thơ Nguyễn Lương Ngọc, những chuyển động của hình ảnh thường đứt quãng, đột
ngột, mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ, gợi nhiều chiều kích của cảm xúc, mở thêm
những biên độ tưởng tượng phong phú và mới lạ.
Trong
tập thơ “Ngày sinh lại”, tác giả không đề ngày tháng sáng tác, nhưng tôi cho
rằng “Đàn
giang” là bài thơ mở đầu cho lối viết mới, riêng biệt của nhà thơ Nguyễn Lương
Ngọc. Này, đàn giang trắng/ Khoảnh khắc/ Từ đất rạch lên trời/
Từ trời buông xuống đất. Ở đây, trong một không
gian đã được cắt nhỏ theo “quy ước” riêng, trong đó chỉ dung chứa một loại hình
ảnh, cụ thể là “đàn giang trắng”. Tôi gọi đó là cách kết nối những
hình ảnh “đơn phương” (chữ “đơn phương” dùng với hàm nghĩa một chiều, chứ không
phải đơn giản), khác với cách kết nối hình ảnh “phức điệu”, hay còn gọi là kết nối "lập thể tổng hợp" ở một số bài thơ tiêu
biểu trong tập thơ “Lời trong lời” sau
này. Câu thơ tiếp theo Các vị đến cùng chúng ta/ Các vị rời bỏ
chúng ta, là cuộc đối thoại hoàn toàn khác với
những đối tượng tham dự vô hình, không phải những sự vật vừa được nhà thơ đưa
ra. Những hình ảnh “Em”, “đàn giang”, “đám mây vàng” trong khổ thơ cuối là
những kết nối rời, xa nhau, chưa từng thấy trong tập thơ “Từ nước”: Em
đang nói về tương lai ư/ Đàn giang bay mải miết/ Chẳng lẽ anh ngắt lời em/ Em
đang nói về tương lai à/ Trên cao, đám mây vàng sững sờ.
Không
gian đa chiều đã thiết lập trong thơ Nguyễn Lương Ngọc thế giới sống động và kỳ
ảo, khiến người đọc như đang được xem một bộ phim 3D. Trong đó, một thế giới
được nhà thơ hóa thân, “hóa kiếp”, đã đem lại cho bạn đọc cảm giác sống động,
rờn rợn như trong một kiếp nào: Em
dựng dậy trong tôi một người trinh nữ/ Lâu nay nằm ủ rũ.../ Sám hối cùng rễ cỏ/
Chờ một ngày tái sinh (Trinh nữ); Sinh
ra từ nước/ Em dịu dàng mỉm cười/ ánh sáng từ đâu, ai biết (Từ nước).
Nguyễn
Lương Ngọc đã xuất phát từ cách hành ngôn quen thuộc trong thơ truyền thống,
như lối ẩn dụ, ví von của ngôi thứ ba trong vai trò người quan sát trong tập
thơ “Từ nước”, như:
Hạt phấn vàng nhẹ như không có (Tương quan).
Mưa cuồng nộ ngoài
kia chỉ còn như điệp
khúc (Hy vọng).
Người lớn như suối sông, lũ trẻ thì như nước (Đường và trẻ).
Đến
cách chuyển đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất, nhân vật đang trực tiếp cảm nhận,
hành động. Đây là sự hoàn thiện của quá trình trình hóa thân, chuyển hóa từ cái
tôi chủ thể sáng tạo thành hình ảnh và chuyển động của thế giới bên ngoài đồng
nhất với thế giới nội tâm:
Nhà thơ cúi đầu/
Môi dầy lụi lửa/ Bỏ đi/ Những bó cơ tan rữa (Nhà thơ).
Em mỉm cười từ đâu/ đá
Bay-on chao chát/ Đăm đắm nhìn từ
đâu/ Sương Tây Hồ ngột ngạt (Lời hát).
Từ
“tôi như, tôi là...” đến “chính tôi...” là cách chuyển đổi chủ thể quan trọng
của thơ cách tân sau 1975, mà thơ Nguyễn Lương Ngọc là một ví dụ cụ thể. Đó là sự khác biệt
căn bản so với thế hệ thơ trước đó về cách xác định cái tôi chủ thể ở ngôi thứ
nhất và cách thiết lập không gian thơ. Xin dẫn chứng cách quan sát sự vật và
góc nhìn từ bên ngoài của một số nhà thơ thuộc thế hệ trước đó. Đây là thơ Xuân Diệu:
Không gian như có dây tơ/ Bước đi sẽ đứt, động
hờ sẽ tiêu (Chiều).
Và của nhà thơ Huy Cận:
Những ngôi sao
cũng lần lượt hòa tan/ Làm thành rạng đông như màu lơ thoảng nhẹ (Một ngày lên).
Mặt trời xuống
biển như hòn
lửa (Đoàn thuyền đánh cá).
Đến
thơ Nguyễn
Lương Ngọc đã khác. Nhà thơ và đối tượng được mô tả đã hòa nhập làm một chủ thể
để cất tiếng nói chung. Câu thơ sau đây cho thấy, ngọn gió đã thổi lên điệu hồn
của nhà thơ và nhà thơ rung cảm để gió không còn là vô tri nữa:
Tôi đã rón rén
từng bước, nín thở/ Mong giữ được một cơ thể biết bay/ Nhưng chỉ gặp chút nỗi
niềm ngọn gió/ Mát mát đầu ngón tay (Tìm gặp).
Nhận
thức và linh cảm được bản chất và chuyển động của vạn vật, nhà thơ đã tri nhận
được tính “hợp nhất” của thế giới, vũ trụ: Cái trước ở trên đầu giờ chìm vào trong ngực/
Chỉ một/ Tất cả chúng ta chỉ một (Chỉ một).
“Ngày sinh lại” đã được nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc thi
triển đúng với tinh thần tên gọi tập thơ này. Đó là sự khai sáng, tiên cảm một
thế giới thơ đang hồi sinh với dáng vẻ non tơ và thơ ngây: Nhưng
sợi tơ đã tan trong cổ họng chim và tiếng hót như tơ cuốn mọi người vào thế
giới thanh âm/ Nhưng vầng trăng đẫm nước đã rơi xuống/ đáy sông khô và làm đầy
nó bằng/ cơ thể mềm mại của mình (Cảm nhận).
Thế giới ấy đã hồi sinh, sinh lại cho trần thế những vẻ đẹp hiển linh và bí ẩn: Anh
tới khi nào tôi không được biết/ Bí mật chuyến bay cánh giấu đi rồi/ Còn lại
màng tơ đẫm nắng/ Và dòng kiến ngược xuôi (Tìm
gặp). Cả mặt đất và khoảng không trong câu thơ trên vừa chuyển động, vừa khép
cánh đậu xuống. Nhà thơ đã bất ngờ đưa bạn đọc đến một bến đỗ trừu tượng, nhà
ga của những chuyến bay của vạn vật. Mọi người đang chuyển động, cả những ai
đọc đoạn thơ này cũng được ngỡ như vừa “khép cánh” đậu xuống sau đường bay bí
ẩn của riêng mình, để rồi lại bình tĩnh sống, bình tĩnh chiêm nghiệm khi biết “Bí mật chuyến bay cánh giấu đi rồi”.
4. Thi pháp Nguyễn Lương
Ngọc trong hai tập thơ đầu, “Từ nước” và “Ngày sinh lại” là con đường đổi mới
từ kết cấu hình ảnh đơn tuyến đến đa tuyến, từ đơn điệu đến phức điệu, từ
hiển ngôn đến linh ẩn, vô ngôn…
Nếu
lấy “Mùa đông”, bài thơ đầu tiên trong tập thơ “Từ nước” làm nơi khởi
đầu góc mở, thì càng về sau, góc mở ấy càng rộng, cũng như ánh sáng của thi
pháp truyền thống càng thấm sâu, nhòa đi trong không gian mới mẻ và đa cực của
nhà thơ.
Nhưng
đến tập thơ “Lời trong lời”, tôi thấy có sự phân tán trong cách lập tứ, ở một
số bài cho thấy, tác giả có nhiều cung bậc cảm xúc, thậm chí có lúc còn hời
hợt, mờ nhạt. Một số bài trong tập thơ thứ ba này vẫn tiếp tục nằm trong góc mở
của thi pháp cách tân như, “Hòa thanh”, “Gọi hạc”, “Đồng hồ vĩnh cửu”, “Liên
bút từ sen”... Những bài thơ này mang đặc trưng cách viết phức điệu, phối bè
của Nguyễn Lương Ngọc.
Bài
thơ “Gọi hạc” trở lại cách lập tứ gần giống bài “Đàn giang”. Những hình ảnh
“đơn phương” chuyển động trong những mặt cắt “lập thể”. Nhưng ranh giới những
mặt cắt ấy trong “Gọi hạc” được đặt biệt lập, tách rời nhau hơn: Con cắt trắng/ xếp
cánh/ khi gặp con khướu vàng. Có thể ví khổ thơ trên là hoàn thiện một trong bốn bức
của bộ tranh “tứ bình”, nó được treo bên cạnh ba bức tranh kia: Con
khướu vàng/ khép mỏ/ khi gặp con
hạc đỏ. Và bức tranh tiếp theo nữa trong bộ
tranh đó: Con hạc đỏ/ nức
nở/ nhìn/ con hạc trắng. Bắt đầu khổ kết là tiếng gọi hạc của nhà thơ: Hạc
trắng! Hạc trắng! Đó là tín hiệu
của nhạc trưởng cho bản hòa tấu bắt đầu: những con đã sinh ra
thì đã chết/ những con chưa chết
thì chưa sinh ra. Đây là hai câu thơ tài
hoa, mang vẻ đẹp linh ẩn trong thơ Nguyễn Lương Ngọc. Bạn đọc như nghe được
tiếng những sinh linh từ hai cõi âm dương đang chuyển động qua bức màn vô minh,
nghe được những cánh hạc đập vào khoảng không rộng mở xao xác và hiu quạnh.
Nghe và cảm được những âm thanh hòa quyện và cả những nốt nhạc lẻ loi, đơn độc
trong đó. Nhưng chúng ta khó có thể ước lượng, đếm được bao nhiêu “con hạc”
trong đàn hạc đang chuyển động kia. Cách “hòa âm” của câu thơ trên đem cho
người nghe cảm giác một chút vui xen lẫn nỗi buồn, niềm hy vọng vừa được nhen
lên trong sự cô lạnh, sự tự tin trong an phận, cam chịu...
Bài
thơ “Đồng hồ vĩnh cửu” cho thấy, nhà thơ quan sát đời sống hiện hữu từ hệ quy
chiếu khác, ngắm nhìn và thấy được ý nghĩa cùng vẻ đẹp của đời sống nơi trần
thế. Đây là bài thơ văn xuôi có lối kể chậm rãi và trầm tĩnh, ngôn ngữ thơ gần
với cách nói đời thường: Trên
tường, trước mặt, có cái đồng hồ ba kim cứ giật giật chạy. Nhưng bạn đọc bất ngờ khi nhà thơ nhìn chiếc đồng hồ một
cách chăm chú, không rời mắt, và “liền nhấc xuống”. Tác giả đã cho xuất hiện
trong bài thơ “một cửa sổ tròn”, đưa bạn đọc vào một thế giới khác lạ vừa được
tạo ra: Mấy ngôi sao đang tắm, bầy đom
đóm, một đứa trẻ giữa bể đang kêu cứu... Đến đây, Nguyễn Lương Ngọc đã tự do chuyển dịch mọi hình ảnh trong
khoảng không riêng biệt của ông, cho chúng bay lượn trong mộng tưởng, trong cơn
mộng mị thi sỹ: cửa đã mở cho thấy cửa. Ta không đóng lại nữa. Mọi hình ảnh trong bài thơ như được chuyển động trên ranh
giới giữa thực và ảo, thông tuệ và lú lẫn..., dẫn bạn đọc đến những tình huống
kỳ lạ, bất ngờ, nhưng chấp nhận được: Mèo dạy tôi cách rơi, và
đứng lên, một bông sen nở. Hình ảnh bông hoa sen
bật dậy trong câu thơ, mà trước đấy nhà thơ không báo trước hay phát đi tín
hiệu nào có liên quan, đã tỏa ra quầng sáng lung linh và thanh khiết. Quầng
sáng ấy như cánh cửa bất ngờ mở ra trước mắt bạn đọc, tựa lối vào một cảnh giới
tuyệt lành, thanh tịnh, an lạc… Câu thơ gợi liên tưởng tới một cá thể đơn độc,
quay cuồng trong gió bụi của đời sống trần tục, bỗng có lúc vụt đứng lên như
bông sen nở. Bông hoa sen tiếp tục được hiện ra trong đoạn 3 của bài thơ giữa
tiết điệu phối bè tự nhiên và rất đỗi khiêm nhường. Đây là một trong những đoạn
thơ văn xuôi hay nhất của Nguyễn Lương Ngọc. Ông tiết giảm tối đa tính từ, giới
từ, đồng thời gia tăng những động từ, trạng từ trong câu thơ, làm những hình
ảnh xuất hiện nhanh, thoáng chốc, lại nhường chỗ cho những hình ảnh kế tiếp: Hoa
sen nở không lựa chọn. Giữa đầm, hoa nở. Ven bờ, hoa nở, hái về nhà cắm vào lọ,
hoa nở, và mang bày giữa người thích mặc cả, hoa vẫn nở. Là hoa thì nở, dẫu
biết nở là chết. Ông cũng hay nhắc tới “cuộc
chết”, một “váng vất” thường trực trong thơ Nguyễn Lương Ngọc. Kế tiếp, ta bắt
gặp một câu thơ lạ, hay đến thảng thốt: Tôi thỉnh một tiếng
chuông, kêu một tiếng chuông. “Tiếng chuông” báo
hiệu thời khắc của sự đốn ngộ, nhập định, được giải thoát đã đến. Xin mượn lời
của Thượng tọa Thích Thông Phương: “Đây là phá tan cái thấy còn kẹt trên thứ
lớp, vượt qua giáo nghĩa phân biệt, ngộ thẳng tự tâm”(1). Sau “Tiếng chuông”
huyền diệu ấy, hình ảnh “sư nữ” như chính nhà thơ hóa thân, hiện ra trên phông
nền nửa sáng nửa tối, ngập ngừng giữa không gian thanh tĩnh và nuối tiếc những
khát vọng thế tục: Bên chùa, sư nữ thở dài, người tỉnh dậy tụng
kinh, lần tràng hạt, nghĩ thế nào lại thôi. Nàng nằm, đầu nhớ tóc lênh láng
quanh gối. Tóc là gì? Câu hỏi “Tóc là gì” đã biến
nhà thơ thành người thứ ba, kẻ khác... ngơ ngẩn nhìn lại cuộc trở về nguồn an
lạc giải thoát, cuộc hoán chuyển từ chốn trần gian vừa xẩy ra.
Nguyễn
Lương Ngọc thường nhắc tới hoa sen, loài hoa mang vẻ đẹp cao sang và thanh
khiết. Hoa sen còn biểu trưng cho giá trị đạo đức, sự thánh thiện, biểu trưng
cho trí tuệ siêu việt, thể hiện niềm khao khát giác ngộ của con người. Trong
thơ Nguyễn Lương Ngọc, hoa sen thường xuất hiện trong tinh thần cứu rỗi, thanh
tẩy những tục lụy dơ bẩn trong đời sống thế tục: Một gương sen trong vòng tay của nhụy vàng.../ Những nhụy sen dặn dò ta, giọng đượm hy
vọng (Liên bút từ sen). Nhớ câu thơ của vua
Tự Đức, chợt có “dư âm sen” vọng về trong thơ Nguyễn Lương Ngọc: Thi
nhân một nòi huyễn ảnh/ Dư âm sen trắng nở người (Dư âm).
Bên
cạnh một số bài thơ trong tập thơ “Lời trong lời” quy tụ tài năng, điểm hội tụ
của lộ trình cách tân thi pháp của nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc, ta gặp khá nhiều
bài thơ còn nông cạn ý tưởng, hời hợt, mờ nhạt cảm xúc. Có cả những bài như ông
cố tình buông lỏng dây cương cho ngựa quay về đường cũ, có thể điểm tên như: “Nhịp nhàng”, “Vào hạ”,
“Một vòng Hà Nội”, “Quanh quẩn”, “Dịu dàng ở nguồn suối”, “Tiếng yêu”, “Trong
tinh mơ Cam Ranh”, “Thao thức cùng Phan Thiết”, “Sóng lăn tăn bình minh”... Đọc
những bài thơ này, tôi liên tưởng nhà thơ giống như một phi công, khi lấy được
độ cao cho máy bay thì ông đã cài tự động hệ thống điều khiển. Có lúc ngỡ ông
như còn lơ là ngồi uống cafe, rồi nghĩ lan man mà ít chú ý tới đường bay có gặp
nguy hiểm hay không...
5. Khi xếp những tập thơ của Nguyễn Lương Ngọc cạnh
nhau, “Từ nước” - “Ngày sinh lại” - “Lời trong lời”, tôi nhận ra những cột mốc
của một hành trình, một lý tưởng thi ca xuyên suốt: sáng tạo chính là sự lột
xác, hoài thai, sự tái sinh...
Phần 4
“Trong sổ tay của vợ” trong tuyển tập “Nguyễn Lương Ngọc, Thơ và Người” (Nxb
Hội Nhà văn, 2006, do nhà văn Tạ Duy Anh sưu tầm và tuyển chọn) là những vĩ
thanh của ba tập thơ trên.
Lần
theo lộ trình thơ Nguyễn Lương Ngọc, ta bắt gặp ông nhiều lần nhắc đến cái
chết, như là điểm nút của những vòng tuần hoàn, như cửa sông của những đợt thủy
triều lên xuống. Cái chết với ông không phải nỗi sợ hãi, chỉ là điểm dừng trong
quy luật vận động bất tận của vạn vật, để từ đó bắt đầu “sinh lại” trong những
chu trình khác: Ai đi cùng tôi, được cứu vớt/ Ai đi cùng ta,
được chết/ Em yêu, hãy hôn (Cứu vớt). Ông
quan sát “điểm nút” ấy với thái độ bình thản pha chút lạnh lùng và hài hước: Ai
bắt anh chăm chút cái chết ngày mai/ từ gói kẹo cho con hôm nay (Viết cho mình). Đôi khi ông phân thân thành “kẻ khác” nhìn
lại đời sống trần gian với thái độ tiếc nuối da diết: Hôn lên
đôi môi hồng của thần chết/ và nghe nàng dấm dứt khóc/ ta chẳng đến được nhau/
trên môi anh còn giọt nước mắt của trẻ (Viết
cho mình). Hoặc như kẻ mộng du giữa đôi bờ ảo và thực, sinh sôi và hủy diệt: Em
người trong tranh/ không sống không chết/ hình như giống anh/ cơn cơn váng vất (Giao cảm). Ông cảm được “cuộc chết” là chu trình tất yếu
của cuộc sống; nó đến với thái độ thanh thản và thậm chí rất yên bình trong Lời
hát của ông: Cuộc sống lạnh lẽo sao/ Cuộc chết ấm áp sao.
Và đây
là bài thơ, gồm hai câu, được Nguyễn Lương Ngọc viết trong trạng thái xuất thần
về cuộc hóa thân kỳ vĩ của một nhà thơ danh tiếng. Ông đã vĩnh biệt chúng ta,
nhưng sự nghiệp còn mãi với xứ sở này: mai ngày về với Cửu Long/ chảy hoài rồi nước cũng trong như người (Thu Bồn).
Bài
thơ “Ở lại”, một trong những bài in ở Phần 4 “Trong sổ tay của vợ” trong tuyển
tập “Nguyễn Lương Ngọc, Thơ và Người”, đã phát những tia sáng mãnh liệt cuối
cùng trước lúc nhà thơ giã biệt thế gian. Nỗi khát khao được sống, được hiến
dâng tài năng và phẩm hạnh nơi dương thế trong ông lúc này vô cùng cháy bỏng,
khắc khoải khôn cùng: Muốn
ở lại cùng mặt trời/ Mỗi con người/ Phải tỏa sáng.
Nhưng bóng tối của đời sống phía bên kia đã dìm ông quá sâu; “hơi lạnh” của nó
đã tràn vào khoảng cách những câu thơ của ông. Đoạn thơ sau đây cho thấy bàn
tay của ông như đã buông ra khỏi người thân, hơi thở ông không còn lan xa sưởi
ấm vạn hữu, và, ông đã cách chúng ta một khoảng cách khá xa: Muốn
ở lại cùng em/ Bài thơ của anh/ phải cách nhau/ một cơn gió/ lạnh.
6. Hơn hai thập niên trước
đây, thơ Nguyễn Lương Ngọc đã xuất hiện trong đời sống văn học chúng ta tựa
“Những mầm hy vọng lên nhiều”. Bạn đọc giờ đây bình tĩnh chiêm ngưỡng thế giới
thơ riêng biệt và độc đáo ấy của ông, tựa những hạt mầm hôm nào đã vươn thành
cây xanh to lớn. Thấy được nhà thơ chính là “con chim lấy cát làm trời xanh”,
là “sự sống hát lời lửa nước”. Đọc bài thơ “Áo xanh”, tôi liên tưởng thơ Nguyễn
Lương Ngọc lúc mới xuất hiện tựa “một trứng tròn thở lẻ” giữa “đảo xa kia, đèn
biển tắt rồi”. Nhưng “trứng tròn” ấy đã sản sinh đàn đàn chim én cùng vạn vật
làm nên những mùa xuân sau này. Thời gian đã đi qua và đủ để lắng lại những giá
trị đích thực. Thơ Nguyễn Lương Ngọc mãi còn đó một dấu mốc quan trọng trong lộ
trình cách tân thơ Việt hiện nay và cả sau này.
_________
(1) Thích Thông
Phương: Thiền Tông Đốn Ngộ, Hội
Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003.
MAI VĂN PHẤN
Địa chỉ: Số nhà 12/56 phố Cát Cụt,
Quận Lê Chân, TP. Hải Phòng.
Email: maivanphan@gmail.com
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 19.05.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét