(Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX ; Nguồn ảnh: internet) |
KHẬP KHIỄNG
HAY
KHÔNG KHẬP KHIỄNG?
(Về bài viết “Hai
Bài Thơ Quê Hương
- Hai Tâm Tình Khác Biệt” của Châu Thạch)
Từ Một Bình Luận Trên
Facebook
(Tác giả Phạm Đức Nhì) |
Mới đây nhà phê bình
Châu Thạch có bài bình thơ Hai Bài Thơ Quê Hương - Hai Tâm Tình Khác
Biệt đăng trên Facebook và vài trang web văn học. Hai bài thơ đó là Bài
Học Đầu Cho Con của Đỗ Trung Quân và Quê Hương của Nguyên Lạc.
Châu Thạch đã nương theo tứ thơ để cảm nhận và sau đó, bằng văn tài sở trường
của mình, diễn đạt một cách mạch lạc và bay bướm, tâm tình của hai tác giả.
Lang Bạt, một bạn đọc
Facebook đã viết một bình luận khá dài dưới bài viết Về Cách Hành Xử Của Một Nhà Bình
Thơ của Nguyên Lạc trên Facebook, trong đó có câu: “Việc đem bài thơ Quê Hương (của Nguyên Lạc)
để so sánh với (bài thơ của) Đỗ Trung Quân thật là khập khiễng.” (Mấy chữ
trong ngoặc đơn là của Phạm Đức Nhì) (1). Ý chị muốn nói giá trị nghệ thuật của
hai bài thơ cách biệt quá xa, đặt cạnh nhau để so sánh rất khập khiễng, không
cân xứng.
Bình luận của chị Lang
Bạt đúng hay sai? Nói khác đi, đặt hai bài thơ Quê Hương của Nguyên Lạc
và Đỗ Trung Quân cạnh nhau để so sánh có khập khiễng không? Tôi không phải là
người “ba phải” nhưng đọc bình luận của chị không hiểu sao lại nghĩ ra hai câu
trả lời trái ngược nhau. Dĩ nhiên, có lý do để tôi nẩy ra ý nghĩ trái khoáy như
thế. Xin viết ra đây như một câu chuyện văn chương để bạn đọc thưởng thức, và
nếu có nhã hứng, góp ý hay bình luận.
Câu Trả Lời Dựa Vào Bài
Viết Của Châu Thạch
Bình thơ là giúp người
đọc trả lời 3 câu hỏi. What? (Viết gì?), How? (Viết thế nào?), và When? (Viết
trong tâm cảnh nào?). Châu Thạch không những đã trả lời mà còn tán rộng ra, và
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra cho bài viết của mình qua tiêu đề Hai
Bài Thơ Quê Hương - Hai Tâm Tình Khác Biệt.
Tuy nhiên, đọc bài viết
thật kỹ tôi nhận thấy Châu Thạch không nói gì đến hai câu hỏi sau mà chỉ đặt
trọng tâm câu trả lời của mình - là bài viết - ở câu hỏi thứ nhất. Khi lờ đi
hai đặc tính quan trọng nhất để phân biệt thơ với văn, anh tuy gọi chúng
là “Hai Bài Thơ” nhưng thật ra, đã đối xử với chúng như là hai đọan văn, hai
công cụ chuyển tải thông tin không hơn không kém.
Chỉ nói đến chức năng
truyền thông mà lờ hẳn đi chức năng nghệ thuật - tính thơ của bài thơ và tài
thơ của thi sĩ - thì một tuyệt tác thi ca có khác gì một bài thơ của một người
mới tập tành chọn chữ, so vần.
Chính vì thế, trong bài
viết của Châu Thạch, “hai bài thơ” đặt cạnh nhau rất cân bằng và bình thường,
chẳng có gì là khập khiễng hết.
Câu Trả Lời Dựa Vào Nghệ
Thuật Thơ Của Hai Bài Thơ
Đây không phải là những
bài bình thơ “trường lớp” theo đúng trình tự một cách bài bản. Tôi sẽ chỉ đi
thẳng vào những chỗ hay, chỗ dở rồi tổng hợp để bạn đọc hình dung được giá trị
nghệ thuật của bài thơ một cách tương đối. Riêng phần tứ thơ, anh Châu Thạch đã
phân tích và bàn luận quá kỹ nên tôi sẽ không nói tới nữa, trừ trường hợp thật
cần thiết.
Bài Học Đầu Cho Con Của Đỗ Trung Quân
1/ Đoạn Thơ Quá Xạo
Nói đến bài thơ nổi
tiếng này của Đỗ Trung Quân người đọc thơ sành điệu chắc khó có thể quên một
đoạn thơ “xạo hết ga” của nhà thơ gốc Thanh Niên Xung Phong:
Quê hương là gì hả
mẹ?
Mà cô giáo dạy phải
yêu
Quê hương là gì hả
mẹ?
Ai đi xa cũng nhớ
nhiều.
Với cái tựa Bài Học Đầu Cho Con, đoạn thơ là hai câu
hỏi của đứa bé mới học lớp vỡ lòng hỏi mẹ sau khi được cô giáo dạy bài học đầu
tiên. Đỗ Trung Quân đã vô ý đặt 2 câu hỏi quá nặng ký vào miệng đứa bé mới 4, 5
tuổi. Độ xạo của đoạn thơ rất cao, nhưng rất may, theo tôi, không ăn sâu, bắt
rễ vào tứ thơ nên chỉ là lỗi kỹ thuật, có thể bỏ đi hoặc sửa chữa khá dễ
dàng.
2/ Thể Thơ Và Hội Chứng
Nhàm Chán Vần
Đỗ Trung Quân cho biết
(2) Bài Học Đầu Cho Con có 2 lần được
chính thức in ấn: Nguyên bản được chính thi sĩ phổ biến năm 1991 trong tập Cỏ Hoa Cần Gặp gồm 9 đoạn và phiên bản
đăng trên báo Khăn Quàng đỏ năm 1986 được chị Việt Nga biên tập (bỏ 3 đoạn) còn
6 đoạn.Theo tôi, còn một phiên bản nữa; đó là lời của ca khúc Quê
Hương do Giáp Văn Thạch phổ nhạc từ phiên bản năm 1986 (bỏ thêm 2 đoạn)
còn 4 đoạn.
Bài thơ viết theo thể
thơ 6 chữ, trường thiên, nhiều đoạn, mỗi đoạn 4 câu.
a/ Nguyên bản: Gồm 9
đoạn, đọc đến mấy đoạn cuối đã chớm hội chứng nhàm chán vần.
b/ Phiên bản năm 1986:
Chưa có hội chứng nhàm chán vần.
c/ Lời bản nhạc Quê Hương của Giáp Văn Thạch: Không có hội
chứng nhàm chán vần.
3/ Ngôn ngữ thơ: tượng
hình, đẹp một cách bình dị, nhiều đoạn như là những bức tranh thơ.
4/ Cái Siêu Của Bài Thơ
Chắc bạn đọc đã nghe nói
“thi trung hữu họa” - có nghĩa là trong thơ có họa. Những câu thơ loại này
thường được đánh giá cao vì có thể thấm nhập vào tâm hồn người đọc một cách
tương đối dễ dàng. Người đọc rất ít phải dùng đến lý trí để “bắt” tứ thơ.
Thí dụ:
Nắng Sài Gòn anh đi
mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo
lụa Hà Đông.
(Áo Lụa Hà Đông, Nguyên
Sa)
Hình ảnh chàng trai sánh
bước bên người yêu của mình mặc áo lụa Hà Đông giữa nắng Saì Gòn làm 2 câu thơ
rất dễ hiểu, có thể đi vào lòng người đọc dễ dàng. Đó là nhờ tác dụng của “thi
trung hữu họa”.
Một thí dụ khác:
Tôi đứng bên này
sông
Bên kia vùng địch
đóng
Làng tôi đấy xạm
đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rũ
ướt mưa sương
(Nhà Tôi, Yên Thao)
Nhờ “thi trung hữu họa”,
tác giả không cần dài dòng giải thích mà người đọc vẫn thấy - qua 4 câu thơ
-khung cảnh chính làm nền cho bài thơ: Ngôi làng của người lính bên kia sông,
đã bị quân địch chiếm đóng “xạm đen màu tiết đọng, tre cau buồn tóc rũ ướt mưa
sương”, hiện ra rõ mồn một.
Thi sĩ viết được những
câu thơ “thi trung hữu họa” như trên đã được coi là cao tay. Nhưng có những câu
thơ còn cao tay hơn nữa, cao đến mức siêu đẳng. Chúng ta thử đọc hai câu dưới
đây:
Lạc hà dữ cô vụ tề
phi
Thu thủy cộng
trường thiên nhất sắc
(Đằng Vương Các Tự,
Vương Bột) (3)
Dịch nghĩa:
Ráng chiều rơi
xuống cùng cánh cò đơn chiếc đều bay
Làn nước sông thu
với bầu trời kéo dài một sắc
(Trần Trọng San)
Ở đây không phải chỉ
trong thơ có họa mà ngôn ngữ thơ đã hoàn toàn tan biến để hóa thân thành bức
tranh tuyệt đẹp. Câu thơ “siêu” như thế này sẽ tự động thấm vào hồn người đọc
mà không cần đến một mảy may sự “gạn đục khơi trong” của lý trí.
Trong kho tàng thi ca
của Việt Nam những bài thơ đạt được mức “siêu” như thế cực hiếm. Tôi tạm thời
chỉ có thể đề cử bài Ông Đồ của Vũ Đình Liên. Bài thơ 6 đoạn thì có 5 đoạn đạt
mức siêu tuyệt “thi hóa thân thành họa” (trừ đoạn cuối) (4)
Bài Học Đầu Cho Con của Đỗ Trung Quân cũng
có mấy đoạn siêu tuyệt như thế. Khi phổ nhạc Giáp Văn Thạch đã bỏ đoạn đầu và
thay cái tựa. Việc làm rất tinh khôn này đã chữa được chứng bệnh xạo của bài
thơ. Sau đó ông lại còn mạnh tay cắt bỏ 2 đoạn khác, thay 2 câu cuối đoạn 4
bằng 2 câu đầu đoạn 5 (5) để ca khúc Quê Hương của ông trở thành một bộ tranh
thơ về quê hương tuyệt đẹp. Với bộ tranh thơ đó ông đã giúp Đỗ Trung Quân tâm
tình với khán thính giả bằng Tiếng Người
Chân Thật (6).
Tuy chỉ có hai câu nhưng
vì là tranh thơ nên “Lạc Hà Cô Vụ” đã được người Trung Hoa xem như một viên
ngọc quý giá trong kho tàng văn học của nước họ. Để có được viên ngọc quý đó
người Trung Hoa đã phải “đãi cát tìm vàng”, phải sục sạo cả bài Đằng Vương Các Tự hàng trăm câu mới tuyển
được hai câu nổi tiếng đó. Trong khi Quê
Hương của Đỗ Trung Quân và Giáp Văn Thạch là cả một bộ ngọc 6 viên nằm lồ
lộ trước mắt người thưởng ngoạn một cách nghệ thuật. Nói như thế để thấy tài
thơ trác tuyệt của Đỗ Trung Quân và công lao to lớn của Giáp Văn Thạch. Dĩ
nhiên, có cả một chút tự hào về Thi Ca của nước nhà khi so sánh với Thi Ca
Trung Hoa.
5/ Cảm Xúc
Có người đặt câu hỏi “Phải chăng với 6 bức tranh thơ, Đỗ Trung
Quân đã bước tới cảnh giới của một thiền sư đạt đạo - cho cái tiểu ngã của mình
hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ?” Tôi không nghĩ như vậy.
Chúng ta thử đọc bài thơ
Yên Hà Xứ của thiền sư Viên Minh:
YÊN HÀ XỨ
Đáo tận yên hà xứ
Hồi đầu biệt nhất
phương
Mục tiền sơn thủy
hạo
Nguyệt hiện thảo
đầu sương
Dịch thơ:
Thong dong tận cõi
mù sa
Quay đầu nhìn lại
yên hà một phương
Nước non hùng vĩ
thân thương
Lung linh trăng
hiện giọt sương đầu cành.
Ở đây thiền sư mới đúng
là đã “vất bỏ mọi tư ý tư dục để cái ngã của mình hòa nhập với vũ trụ - Thiên
Địa Nhân hợp nhất. Đây có thể coi như một chứng đạo ca, một bài thơ thiền của
người đạt đạo.
Đỗ Trung Quân đặt trọn
tâm tình của mình vào một không gian nhỏ bé hơn: khung trời quê hương. Tâm tình
ấy lớn quá, sâu đậm quá nên đã lấn át và loại bỏ tất cả những “ý, dục” khác để
có thể “độc quyền”hóa thân vào những bức tranh quê tuyệt đẹp. Tuy nhiên, Đỗ
Trung Quân vẫn khác vị thiền sư một chút; tâm cảnh của thi sĩ vẫn có tư ý, tư
dục; đó là tấm tình tha thiết của anh đối với quê hương, đất nước. Chút khác
biệt ấy, tùy căn cơ, có thể chỉ một tầm tay với, nhưng cũng có thể mù xa vạn
dặm.
6/ Đoạn Cuối Quá Dở
Riêng đoạn cuối, tôi xin
bỏ qua những bàn cãi có tính chính trị, để chỉ nói đến hiệu ứng văn chương.
Ngay khi câu thơ:
Quê hương mỗi người
chỉ một
xuất hiện, lý trí đã
quay lại để làm nhiệm vụ của nó (xem có đúng là “mỗi người chỉ một” không), và
cuộc đối thoại bằng Tiếng Người Chân Thật
đã chấm dứt. Tôi cho đoạn cuối dở là dở ở chỗ đó.
Là nguời thích bóng đá,
tôi tưởng tượng Đỗ Trung Quân - với đôi mắt tinh đời, chuyên nghiệp của mình -
đã đi khắp nơi chiêu mộ được một dàn cầu thủ sáng giá. Nhưng phải chờ đến Giáp
Văn Thạch - người có đôi mắt sắc sảo hơn - đã sàng lọc, tuyển lựa, mạnh dạn
loại bỏ một số cầu thủ rất giỏi nhưng không hợp với đấu pháp mới của ông, Quê Hương (tuy vẫn còn một chút khiếm
khuyết) đã trở thành một đội tuyển lừng danh, có thể so tài với bất cứ đội
tuyển nào trên thế giới.
Quê Hương của Nguyên Lạc
Bài thơ Quê Hương của Nguyên Lạc có một số đặc
điểm sau:
1/ Có một số câu thơ
riêng, tâm trạng khác biệt, mới lạ, làm vẻ đẹp của khung trời Quê Hương thêm sống động phong phú, tình
yêu quê hương thêm chút cay đắng, oán trách, gây thích thú cho độc giả.
Thí dụ:
Quê hương làm sao
không nhớ?
Dòng sông tuổi trẻ
mênh mang
Bần de. phóng
đùng. nước mát
Lặn tìm. chân
bắt. la vang
Bờ sông. chị khàn
tiếng gọi
Vết roi cha đánh.
tím bầm!
Và:
Quê hương ta ơi...
đừng nhớ!
Muộn phiền, cay
đắng mà thôi!
Cố quên, sao lòng
vẫn nhớ!
Quê hương nhớ
lắm... người ơi!
2/ Sinh sau đẻ
muộn:
Quê Hương của Nguyên Lạc được
sáng tác sau Bài Học Đầu Cho Con của Đỗ
Trung Quân trên ba chục năm. Thường thì bài thơ ra đời sau hay bị xếp ở hạng
dưới nếu có điểm gì đó giống bài thơ ra đời trước. Lý do: Trong thơ sự sáng tạo
(ra cái mới) được khuyến khích tối đa.
Trong một đoạn trao đổi
với Châu Thạch, Nguyên Lạc đã công nhận là viết bài thơ Quê Hương để trả lời Đỗ Trung Quân, bày tỏ một vài điểm khác biệt
trong tâm trạng của mình. Anh đã đạt được mục đích đó, nhưng đổi lại, ngay
trong việc chọn đề tài, thể thơ, âm điệu, nhịp điệu, hình ảnh, bài thơ Quê Hương của anh như một cô gái đẹp lại
chấp nhận cái kiếp lấy chồng chung, chấp nhận thân phận lẽ mọn vì là “kẻ đến
sau”. Chỉ riêng điểm đó đã giảm giá trị của cô gái, và giải mã ẩn dụ, giảm giá
trị của bài thơ khá nhiều.
3/ Bài thơ của Nguyên
Lạc dài đến 76 câu, thể thơ 6 chữ, âm điệu và nhịp ngắt đều đều, nên mặc dù có
thay đổi cách gieo vần - lúc liên tiếp, lúc gián cách, có cả lúc lạc vận - hội
chứng nhàm chán vần của bài thơ vẫn khá nặng.
4/ Bài thơ nhất khí liền
mạch, có sóng sau dồn sóng trước theo dòng chảy của tứ thơ để cảm xúc tầng 3 -
cảm xúc cao cấp nhất - xuất hiện, nhưng do ý tưởng hơi bề bộn, thế trận chữ
nghĩa xộc xệch nên dòng cảm xúc đó không đủ lớn mạnh để hình thành hồn thơ.
Quê Hương của Đỗ Trung Quân và Giáp
Văn Thạch là một bản nhạc có lời thơ siêu tuyệt - một bộ 6 bức tranh thơ đẹp
một cách bình dị. Người đọc lặng ngắm 6 bức tranh thơ ấy sẽ có cảm giác thật
mới lạ: Được thấy tâm tình yêu quê hương say đắm của tác giả tự động thấm nhập
vào hồn mình, hoàn toàn tránh khỏi sự can thiệp của lý trí.
Đỗ Trung Quân, bằng tài
thơ của anh, cộng thêm sự giúp sức của Giáp Văn Thạch, đã để lại cho đời một
tuyệt phẩm kết hợp cả Thơ Nhạc Họa. Tuyệt phẩm ấy đã cho phép tác giả và độc
giả được giao tiếp với nhau bằng tiếng Người
Chân Thật mà vì sức cuốn hút của cuộc sống, đã quên mất từ lâu.
Quê Hương của Nguyên Lạc cũng là
một bài thơ hay. Ngôn ngữ bình dị, đậm mùi Nam Bộ, cảm xúc dạt dào, tâm trạng
phức tạp, so với Bài Học Đầu Cho Con của Đỗ Trung Quân lúc chưa được phổ nhạc
cũng đã nhiều phần bề bộn chữ nghĩa hơn. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, Nguyên Lạc
cũng đi khắp nơi chiêu mộ cầu thủ nhưng anh tham quá. Trong số những cầu thủ
anh đưa về có nhiều người giỏi, nhưng cũng có một số chỉ ở mức độ khá. Hơn nữa,
trong số những cầu thủ giỏi lại có một số đá trùng vai (vị trí) nên việc gạt bỏ
ít nhất 75% cầu thủ để có một đội tuyển hùng mạnh lại vượt quá khả năng của
Nguyên Lạc.
Bởi thế Quê Hương của Nguyên Lạc, theo tôi, rất
cần một Giáp Văn Thạch, nhưng nhạc sĩ tài hoa đã không còn nữa. Trong số nhạc
sĩ đương đại của Việt Nam có thể cũng có người có khả năng “chặt đông chém tây”
để bài thơ Quê Hương của Nguyên Lạc
thon gọn tới cái vóc dáng tối ưu của nó. Nhưng để người tài hoa gặp, rồi phải
lòng với bài thơ, còn cần một chút duyên. Mà ngay cả khi đã có chút duyên ấy,
thành phẩm đem so với với Quê Hương
của Đỗ Trung Quân và Giáp Văn Thạch về giá trị nghệ thuật cũng còn một khoảng
cách rất xa.
Tóm lại, bình thơ kiểu
Châu Thạch, thơ chỉ là công cụ chuyển tải thông tin, chỉ khác nhau ở Ý, Tứ, còn
thì bài nào cũng như bài nấy, đặt cạnh nhau chẳng có gì là khập khiễng
hết.
Còn nếu xét về Nghệ
Thuật Thơ, câu bình luận “khập khiễng” của Lang Bạt trong trường hợp này đúng
sai thế nào, bạn đọc chắc đã tự tìm được câu trả lời.
Kết Luận
Nhà phê bình văn học
Nguyễn Hưng Quốc, trong bài Nghĩ Về Viết Lách: Phê Bình Cần Có Chủ Kiến
đã viết:
Đánh giá cuốn sách này
hay ư?
- Chuyện nhỏ!
Đánh giá tác giả kia
viết hay ư?
- Cũng chỉ là chuyện
nhỏ!
Cái lớn nằm ở đằng sau
cái gọi là “hay” ấy.
Và đằng sau cái gọi là
“hay” ấy chính là chủ kiến.
>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>
Nhà phê bình nào cũng
cần có chủ kiến. Không có chủ kiến, tưởng là khách quan, nhà phê bình chỉ làm
nô lệ cho truyền thống và theo đuôi quần chúng. Hắn có thể diễn đạt hay; nhưng
cái hay ấy chỉ nhằm củng cố những điều mọi người đã biết. Quanh quẩn trong sân
chơi của những cái-đã-biết, hắn rất dễ nhận được những tràng pháo tay, nhưng đó
là những tràng pháo tay tống tiễn hắn vào cõi quên lãng.
Nhà phê bình phải có chủ
kiến. Chính tính sáng tạo và độ quyết liệt trong chủ kiến sẽ là một trong những
tiêu chí chủ yếu để đo lường tầm vóc một nhà phê bình.
Châu Thạch là người rất
nặng lòng với thi ca và bình tán thơ rất có duyên, nhưng trong các bài bình thơ
của anh, theo tôi, còn thiếu một quan niệm thẩm mỹ, một số nguyên tắc có tính
lý thuyết mà Nguyễn Hưng Quốc gọi là chủ kiến, để làm chỗ dựa cho những lời
bình phẩm.
Nếu Châu Thạch bổ túc
đuợc điều thiếu sót đó thì tôi tin anh sẽ tiến rất xa trên đường đi tìm cái đẹp
của thơ - con đường đã lấy của anh rất nhiều thời gian, công sức, nhưng bù lại,
đã đem lại cho anh nhiều niềm vui và hứng thú.
-------------------
Mời Quý vị nhấp chuột các dòng
chữ dưới đây để đọc thêm:
Mời thư giãn với nhạc phẩm QUÊ HƯƠNG của
Giáp Văn Thạch, thơ Đỗ Trung Quân qua tiếng hát Tùng Dương:
*
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League
City , Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
.
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 28.10.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
1/ Ông Đồ: Những Bức
Tranh Thơ
2/ GVT đã bỏ 2 câu của
đoạn 4 (phiên bản 1986):
Là hương hoa đồng
cỏ nội
Bay trong giấc ngủ
đêm hè
rồi lấy 2 câu đầu của
đoạn 5, đổi chữ “thềm” thành “hè” để câu thơ khỏi lạc vận:
Quê hương là đêm
trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng
ngoài hè
Hai câu này mới chính là
“thi hóa thân thành họa”; còn 2 câu trước - diễn tả mùi hương – nên không thể
“nhập” và tan biến vào tranh được. Giáp Văn Thạch rất tinh và rất tài trong sửa
đổi này.
6/ Khi thơ biến thành
họa người đọc có thể tiếp nhận nội dung trực tiếp (như xem một bức tranh) mà
không cần đến lý trí. Vắng mặt lý trí, “cái tôi văn hóa” sẽ rút lui để nhường
chỗ cho “cái tôi đích thực” – tác giả và độc giả có cơ hội giao tiếp với nhau
bằng Tiếng Người Chân Thật.
PHỤ LỤC:
1/ Bài Học Đầu Cho Con –
nguyên bản (1991)
Quê hương là gì hả
mẹ
Mà cô giáo dạy phải
yêu?
Quê hương là gì hả
mẹ
Ai đi xa cũng nhớ
nhiều?
Quê hương là chùm
khế ngọt
Cho con trèo hái
mỗi ngày
Quê hương là đường
đi học
Con về rợp bướm
vàng bay
Quê hương là con diều
biếc
Tuổi thơ con thả
trên đồng
Quê hương là con đò
nhỏ
Êm đềm khua nước
ven sông
Quê hương là cầu
tre nhỏ
Mẹ về nón lá
nghiêng che
Là hương hoa đồng
cỏ nội
Bay trong giấc ngủ
đêm hè
Quê hương là đêm
trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng
ngoài thềm
Tiếng ếch râm ran
bờ ruộng
Con nằm nghe giữa
mưa đêm
Quê hương là bàn
tay mẹ
Dịu dàng hái lá
mồng tơi
Bát canh ngọt ngào
tỏa khói
Sau chiều tan học
mưa rơi
Quê hương là vàng
hoa bí
Là hồng tím giậu
mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm
bụt
Màu hoa sen trắng
tinh khôi
Quê hương mỗi người
đều có
Vừa khi mở mắt chào
đời
Quê hương là dòng
sữa mẹ
Thơm thơm giọt
xuống bên nôi
Quê hương mỗi người
chỉ một
Như là chỉ một mẹ
thôi
Quê hương nếu ai
không nhớ
Sẽ không lớn nổi
thành người.
2/ Bài Học Đầu Cho Con - phiên bản 1986
Quê hương là gì hở
mẹ
Mà cô giáo dạy phải
yêu
Quê hương là gì hở
mẹ
Ai đi xa cũng nhớ
nhiều
Quê hương là chùm
khế ngọt
Cho con trèo hái
mỗi ngày
Quê hương là đường
đi học
Con về rợp bướm
vàng bay
Quê hương là con
diều biếc
Tuổi thơ con thả
trên đồng
Quê hương là con đò
nhỏ
Êm đềm khua nước
ven sông
Quê hương là cầu
tre nhỏ
Mẹ về nón lá
nghiêng che
Là hương hoa đồng
cỏ nội
Bay trong giấc ngủ
đêm hè
Quê hương là vàng
hoa bí
Là hồng tím giậu
mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm
bụt
Màu hoa sen trắng
tinh khôi
Quê hương mỗi người
chỉ một
Như là chỉ một mẹ
thôi
Quê hương nếu ai
không nhớ...
3/ Lời của ca khúc Quê
Hương.
Quê hương là chùm
khế ngọt
Cho con trèo hái
mỗi ngày
Quê hương là đường
đi học
Con về rợp bướm
vàng bay
Quê hương là con
diều biếc
Tuổi thơ con thả
trên đồng
Quê hương là con đò
nhỏ
Êm đềm khua nước
ven sông
Quê hương là cầu
tre nhỏ
Mẹ về nón lá
nghiêng che
Quê hương là đêm
trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng
ngoài hè
Quê hương mỗi người
chỉ một
Như là chỉ một mẹ
thôi
Quê hương nếu ai
không nhớ
Sẽ không lớn nổi
thành người
QUÊ HƯƠNG
Ôi lịch sử những dòng đời cay nghiệt,
Những tự hào hoá giải với oan khiên.(Trần Kiêm Đoàn)
Quê hương có gì để
nhớ
Mà sao nước mắt
lưng tròng?
1.
Quê hương. chiếc đò
nho nhỏ
Qua sông. kham khổ
từng ngày
Thân me vai gầy. gánh
khổ
Thương con. chịu
nổi đắng cay
Quê hương còn đầy
thương nhớ
Ngoại nhai tóm tém
trầu cay
Mẹ mày. thằng cháu
mất dạy
Rong chơi lêu lỏng
suốt ngày
Quê hương làm sao
không nhớ?
Cầu tre lắc lẻo
sáng mai
Đường vui. trống
trường réo gọi
Cây cao. chim hót
từng bầy
Chia nhau từng viên
đạn nhỏ
Bịt mắt. kiếm tìm.
Ai đây?
Chia nhau nỗi lo
thầy gọi
Nhói đau. thước khẽ
bàn tay
Chia nhau trái me
keo ngọt (+)
Chia nhau từng
tiếng cười đầy
Quê hương làm sao
không nhớ?
Dòng sông tuổi trẻ
mênh mang
Bần de. phóng đùng.
nước mát
Lặn tìm. chân bắt.
la vang
Bờ sông. chị khàn
tiếng gọi
Vết roi cha đánh.
tím bầm!
2.
Quê hương đỏ màu
phượng vĩ
Hè sang. ve sầu
khóc vang!
Tạ từ. lời ca ly
biệt
Buồn trao lưu bút.
lệ tràn!
Biết rồi mùa sau
gặp lại?
Hay rồi đôi ngả ly
tan!
Quê hương. buồn vui
gác trọ
Thả hồn. giọng
Khánh Ly khàn
Chia nhau. chút đầu
thuốc vụn
Khói bay. theo khúc
tình tan
3.
Bao năm đời này vẫn
nhớ
Xuân nao. thay đổi
phận người!
Bể dâu. biệt ly.
mong đợi!
Khổ đau thay thế nụ
cười!
” Bàn tay. làm nên
tất cả
Sức người. sỏi đá
thành cơm ”
Trăm năm. lời này
vẫn nhớ!
Bao năm. thắt cổ
con người!
Khô cằn. ” thằng
Trời. Đảng thế ”
Giờ làm mưa gió
được chưa?
” Trăm năm. trồng
con người mới ”
Mười năm. đủ dối
lòng người!
Bao năm chém tre
đẵn gỗ
Bạn bè. chết không
nắm mồ!
Mẹ già vượt đồi núi
khổ
Thăm con. lệ đổ đôi
dòng!
Con ơi. vợ con Kiều
đó
Bán thân. lo giúp
cho chồng!
Chữ Trinh. thôi
đành phụ bạc!
Đoạn trường. con
biết hay không?!
4.
Bao năm đời này vẫn
nhớ
Đêm thâu. xuôi mái
theo dòng
Người đi. không lời
từ biệt
Buồn ơi. tím biếc
dòng sông!
Quê hương ta ơi.
thôi nhé!
Buồn ơi. nước mắt
lưng tròng!
Rặng cây quê hương
mờ bóng
Có còn gặp lại được
không?
5.
Quê hương hoài mong
thương nhớ
Cô thân. lưu lạc
phuơng người
Chiều nay. nhớ dòng
sông ấy
Lục bình hoa tím
hoài trôi!
Quê hương ta ơi
…đừng nhớ!
Muộn phiền. cay
đắng mà thôi!
Cố quên. sao lòng
vẫn nhớ!
Quê hương nhớ lắm…
người ơi!
Quê hương còn gì để
nhớ?
Buồn ơi. nước mắt
lưng tròng!
Quê hương sẽ còn để
nhớ?
Quê hương đáng nhớ
không người?!
Nguyên Lạc
.
0 comments:
Đăng nhận xét