(Đèo Hải Vân, Đà Nẵng ; Nguồn ảnh: internet) |
THẮNG CẢNH HẢI VÂN
QUA ĐƯỜNG
THI NHÀ THƠ THẠCH CHÂU
(Tác giả Châu Thạch) |
Đèo Hải Vân còn có
tên Ải Vân, là một phần của dãy Trường Sơn cắt ngang dãy núi Bạch Mã chạy sát
ra biển, nằm giữa ranh giới của tỉnh Thừa Thiên và thành phố Đà Nẵng. Đây là một con đèo ngoạn mục, cảnh sắc thiên nhiên vừa nên thơ vừa
hùng vĩ. Đường lên đèo khúc khuỷu, nước biển xanh bao quanh chân đèo, mây bay
lưng chừng dưới mắt du khách. Qua Hải Vân còn gợi lại lòng ta đến lịch sử xa
xưa của hai dân tộc Chiêm và Việt với chiến trận, với cuộc tình tay ba của nàng
công chúa với tướng Việt, với vua Chiêm đã trở nên huyền sử.
Thơ đề vịnh về Hải
Vân thì nhiều lắm. song đáng chú ý là bài thơ “Vãn Quá Hải Vân Quan” của Trần Quý Cáp mà cặp trạng “Sầu ngập mắt trông ngàn dặm biển/ Giận tung quyền phá bốn trời
mây” nói lên tấm lòng và chí khí của một người yêu
nước.
Ngày nay, theo phong
trào Đường thi, có hàng ngàn bài thơ viết về Hải Vân, trong đó có hai bài thơ
của nhà thơ Thạch Châu đã mô tả đèo Hải Vân vừa cảnh vừa tình được xem như đầy
đủ mà người viết muốn giới thiệu cùng bạn đọc.
Trước hết ta hãy đi
vào bài thơ tả cảnh:
THẮNG CẢNH HẢI VÂN
Hùng quan lịch sử
tạc lưng trời
Chất ngất non ngàn
hướng biển khơi
Sóng quyện chân đèo
tung nước biếc
Gió luồn vách núi
vọng âm ngời
Ru hồn lữ khách bao
xao xuyến
Níu dạ văn nhân
chút thảnh thơi
Tiên cảnh bồng lai
sương dỡn sóng
Hải Vân thắng cảnh
để lưu đời…
(Thạch Châu)
Vì sao gọi Hải Vân
là “Hùng quan lịch sử tạc lưng trời”?
Theo sử liệu, trước
năm Bính Ngọ (1306) vùng đất có đèo Hải Vân thuộc châu Ô và châu Rí của vương
quốc Cham Pa
(còn gọi là Chiêm Thành). Sau đó vùng nầy được vua Champa cắt làm sính lễ cầu
hôn công chúa Huyền Trân của nước Đại Việt ta. Từ đó ngọn đèo trở thành ranh
giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Ngày nay trên đỉnh đèo Hải vân còn có dấu
vết một cửa ải. Cửa ải này được xây với tường dày kiên cố, cao 490 mét so với mực
nước biển, bên dưới có vòm cổng lớn, bên trên là một tầng riêng có cửa sổ để
quan sát, làm nhiệm vụ phòng thủ cho kinh thành xưa. Mặt chính của cổng hướng
về tỉnh Thừa Thiên - Huế với tấm bảng khắc 3 chữ "Hải Vân Quan", còn
mặt sau hướng về thành phố Đà Nẵng với 6 chữ "Thiên hạ đệ nhất hùng
quan". Danh hiệu này tương truyền do vua Lê Thánh Tông phong tặng khi nhà
vua dừng quân ở đây vào năm Canh Thìn (1470). Hùng là rạng rỡ, quan là cửa ải.
Người xưa đã công nhận đây là một của ải đẹp nhất thiên hạ.
(Nhà thơ Thạch Châu) |
Tiếp theo vế mở,
Thạch Châu vào vế trạng để tóm lược phong cảnh bằng hai bức tranh ước lệ: “Sóng gợn chân đèo tung nước biếc/ Gió luồn vách núi vọng âm ngời”. Nếu du ngoạn đèo
Hải Vân, xe sẽ đưa du khách chạy quanh các sườn núi mỗi lúc một lên cao. Du
khách sẽ nhìn thấy một bên là núi chồng núi, một bên là biển nối biển. Ngồi
trên cao, mắt nhìn từng làn sóng xanh biếc nối tiếp vổ vào vách chân đèo, tai
nghe tiếng gió vi vu từ biển thì hai câu thơ của Thạch Châu đã gợi hình, gợi
âm, miêu tả hầu như sinh động phong cảnh Hải Vân.
Câu luận của bài
thơ phơi bày tâm trạng của khách khi qua đèo Hải Vân:
Ru hồn lữ khách bao
xao xuyến
Níu dạ văn nhân
chút thảnh thơi
Hai câu thơ nầy tuy
phân biệt trạng thái khác nhau giữa lữ khách và văn nhân vì mục đích để làm
chỉnh câu đối, nhưng thật ra nhà thơ muốn mô tả tâm trạng chung của mọi người
khi qua đèo và cảm nhận của họ khi dừng chân ở lưng chừng đèo hay dừng chân tại
đỉnh đèo để nhìn phong cảnh.
Người qua đèo dầu
bất cứ ở thời tiết nào cũng không thể không xao xuyến khi nhìn cảnh hùng vĩ của
núi rừng và cảnh nên thơ của biển quanh co dưới chân mình. Bên vách núi những
con suối nước trong ào ào chảy xuống như từng giãi lụa vắt trên vai rừng xanh.
Đối diện, dưới vực sâu, biển xanh dờn. sóng vổ ì âm tung bọt nước. Trời nắng, mặt
trời chiếu lung linh muôn màu sắc. Trời xấu, sương mù giăng khắp núi rừng, ta
đi lên hay xuống đều tưởng như con đường dẫn vào cõi thiên thai. Đặc biệt, Hải
Vân được gọi là “Ải Mây” rất đúng. Mây bay là đà bên vách núi, mây hòa trong
khói sóng, mây tựa vào nhau lớp lớp, mây xây thành và biến hóa giữa không
trung. Vào những đêm trăng, chị hằng vành vạnh cho ta thấy đến tận làn da, lung
linh trên đầu non hay giữa không gian bao la trên vùng biển xanh bát ngát.
Xe dừng lại bất kỳ
một nơi nào đó, khách đưa mắt nhìn bao quát, lòng cảm nhận vô cùng thảnh thơi
trước phong cảnh hữu tình. Nhất là tại đỉnh đèo, tại đây ta đứng nhìn thung
lũng tít mờ xa, nhìn cung đường uốn lượn, nhìn Hải Vân Quan rêu phong và uống
một ly cà phê hay trà đậm ở quán bên đường, lòng ta thấy thảnh thơi, nhẹ nhàng
đến cả chiếc áo ta đang mặc cũng dường như không có.
Vế luận của bài thơ
đọc tưởng bình thường như bao câu Đường thi khác, nhưng thật ra chữ “thảnh thơi” đi đôi với chữ “xao xuyến” đã có sự liên đới giữa “cảnh sinh tình” và “tình đối cảnh” trong nghệ thuật miêu tả mà Thạch Châu đã học được
cụ Nguyễn Du ngày xưa là vị thầy của bao thế hệ.
Qua vế kết của bài
thơ “Tiên cảnh bồng lai sương dỡn sóng/ Hải Văn thắng cảnh để lưu đời” ta để ý đên cụm
từ “sương dỡn sóng”. Sương là hình
ảnh của sự mong manh, sóng là hình ảnh của sự hùng vĩ. Nhà thơ cố ý để hai hình
ảnh nầy thành đôi bạn, mục đích kết hợp vẽ đẹp tuyệt vời của phôi pha trong
trường cửu, của không trong có, của sự vô vi giữa trời đất mông lung, làm cho
trong trí ta càng thêm rõ nét một vùng tiên giới Hải Vân.
Trên là bài thơ tả
thắng cảnh Hải Vân. Dưới đây là bài thơ tả dấu tích tình yêu còn lưu lại trên
ngọn núi Hải vân:
DẤU TÌNH
Chất ngất non ngàn
đỉnh Hải Vân
Hùng quan dấu tích
lệ Huyền Trân
Lòng nghe xao xuyến
trong tình bạn
Dạ bổng bồi hồi với
nghĩa nhân
Nước Việt muôn
trùng mang nỗi nhớ
Non Chiêm ngàn dặm
gởi niềm thân
Ngày xưa dâu bể vì
sao tỏ
Sương lạnh phòng
khuê kiếp bạc phần.
(Thạch Châu)
Đọc thơ ta biết
ngay tác giả khóc cho mối tình bi lụy của công chúa Huyền Trân mà Hải Vân Quan
coi như là dấu tích còn lưu lại cho đến ngày nay. Nhìn Hải Vân Quan không ai là
không nhớ đến sự tích Huyền Trần công chúa. Huyền Trân công chúa là công chúa
đời nhà Trần. Bà là con gái của vua Trần Nhân Tông, em gái của vua Trần Anh
Tông. Năm 1306, Huyền Trân công chúa được gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế
Mân để đổi lấy hai châu Ô, Rí... Bằng đường bộ,
công chúa Huyền Trân sang Chiêm quốc, có Trần Khắc Chung đưa tiễn. Chắc chắn
khi qua đỉnh đèo, Hải Vân Quan là nơi công chúa phải dừng lại để đoàn tùy tùng
nghỉ ngơi, chuẩn bị cho hành trình xuống núi, cũng để nhìn phong cảnh ngoạn mục
hai bên đèo.
Kinh đô Đồ Bàn hân
hoan tiếp đón giai nhân lẫy lừng cõi Việt, long trọng tổ chức hôn lễ. Huyền
Trân trở thành hoàn hậu. Éo le thay, tháng 5 năm Đinh Mùi 1307, vua Chế Mân đột
tử. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu
để chết theo. Vua Trần Anh Tông biết thế, sai Trần Khắc Chung, mượn cớ sang
viếng tang rồi dùng mưu cướp lấy công chúa đem về, đi đường biển loanh quanh
chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Bập bềnh trên sóng biển Đông phía ngoài
đèo Hải Vân, vụt gặp mưa bão, hải đoàn Đại Việt tấp vào để tránh thiên tai. Như
thế cả chuyến đi và chuyến về, gót chân nàng công chúa dều đặt lên đất Hải Vân.
Cũng theo hư truyền
rằng trước khi sang làm dâu xứ Chiêm, Huyền Trân và Trần Khắc Chung đã có một
mối tình sâu đậm, vì lợi ích quốc gia nên đành phải hy sinh mối tình đầy thơ
mộng để đổi lấy hai châu Ô Mã và Ô Rí. Rồi khi Chế Mân mất, tình xưa của hai
người được kết nối qua cuộc giải vây và hộ tống Huyền Trân về lại Đại Việt. Năm
qua tháng lại, dòng đời tuôn mãi, câu chuyện ấy vẫn được các thế hệ truyền lưu.
Đâu là sự thật thì chưa biết được nhưng mối tình của họ đã đi vào huyền sử, tồn
tại giai thoại trong tâm hồn người Việt.
Bài Đường thi “Dấu Tình”
của nhà thơ Thạch
Châu cho ta quay lại ngàn năm trước với những thứ tình mà công chúa Huyền Trân
mang trong lòng. Tình yêu, tình bạn, tình non sông mà công chúa đã có được và
đã hy sinh như còn “chất ngất” di
tích trên “non ngàn đỉnh Hải Vân”.
Khi đứng trên đỉnh đèo, nơi hùng quan đệ nhất thiên hạ, chắc chắn lòng công
chúa se thắt lại. Hải Vân Quan, nơi chứng kiến bao giọt lệ của nàng tuôn rơi
còn sừng sửng đến ngày nay, trơ gan cùng tuế nguyệt. Bài thơ cũng đã tả lại tình
cảm của nàng công chúa ly hương, mang nỗi nhớ muôn trùng của nước Việt, non
Chiêm ngàn dặm. Đã thế kiếp dâu bể khiến nàng phải “sương lạnh phòng khuê” bạc phận một đời, ôm khối yêu, ôm nghĩa vợ
chồng với nỗi cô đơn trống trải ở độ tuổi còn xuân.
Qua hai bài Đường
thi đã đọc. nhà thơ Thạch Châu đã vẽ trọn cảnh Hải Vân và tình sử Hải Vân. Cảnh
làm dấu tích cho tình tồn tại với thời gian và tình làm cho cảnh càng thêm ý
nghĩa. Người viết đang ở thành Phố Đà Nẵng, không lạ gì với Hải Vận cũng không
lạ gì với sự tích Huyền Trân công chúa. Tuy thế đọc thơ lòng vẫn cảm xúc, bởi
hai bài thơ dựng lại cái bên ngoài và cái trong nội tâm, quay lại nối lòng của
một thời xa xưa bằng tâm tình ta ngày nay, hảnh diện bới non sông cẩm tú, bởi
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể tồn tại giữa không gian và thời gian
trên đất, trong lòng chúng ta và con cháu chúng ta, mãi mãi đến mai sau.
---------------
Ghi chú: Vì tính chất của
bài, người viết có lấy tài liệu lịch sử trên sách vở không đặt vào ngoặc kép để
bài được sinh động.
Xin bạn đọc thông cảm./.
Mời thư giãn với nhạc phẩm TÀU ANH QUA NÚI
của Phan Lạc Hoa, qua tiếng hát Anh Thơ:
.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 30.03.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
DVD sang thăm nhà, được thưởng thức 2 bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật của nhà thơ Thạch Châu về thắng cảnh Hải Vân hay quá!
Trả lờiXóaDVD xin cảm ơn và chúc nhà thơ ĐX.Xuyến an lành, thơ tiếp thơ...
Vâng!Cám ơn bác đã ghé thăm trang.
XóaKính chúc bác ngày cuối tuần nhiều may mắn!
Thơ hay gặp được người bình như tri kỉ nên thơ đã hay càng thêm hay.
Trả lờiXóa