BÁO VĂN NGHỆ VÀ VÀI CHUYỆN GIẢI THƯỞNG - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

 

BÁO VĂN NGHỆ

VÀI CHUYỆN GIẢI THƯỞNG

*

Vũ Thị Hương Mai giới thiệu

(Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com.vn

Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet

Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả)

 

Tác giả: Đặng Văn Sinh

BÁO VĂN NGHỆ NGÀY ẤY VÀ NHỮNG VÒNG DÂY TRÓI…

Thời kỳ ấy, chúng tôi được giao nhiệm vụ khảo sát thiết kế nâng cấp quốc lộ 43, đoạn từ thị trấn Mộc Châu đi bến phà Vạn Yên thuộc tỉnh Sơn La. Nghề khảo sát đường bộ cùng với cánh thăm dò địa chất nay đây mai đó chẳng khác gì dân du mục Đông Âu hay Trung Á. Chỉ có điều người Di gan hành nghề bán hàng rong, bói toán, múa hát trên thảo nguyên mênh mông đầy nắng gió với lều trại và đàn gia súc của mình, còn chúng tôi, công chức nhà nước, suốt ngày chui rúc trong từng sâu, lội suối, trèo đèo khổ sở vì muỗi, vắt… Đến rồi đi, hành tung như kiếm khách giang hồ, thoắt ẩn thoắt hiện, vô tăm tích là đặc điểm của nghề. Có lẽ đấy cũng là nguyên nhân khiến dân gian, nhất là đám chị em tặng cho câu ca dao bất hủ: “khảo sát, địa chất, lái xe/ trong ba thằng ấy chớ nghe thằng nào”. Chuyện này là có thật. Không hiếm cô nàng xinh đẹp nhưng nhẹ dạ cả tin ăn quả lừa của bọn Sở Khanh giỏi khoa chim chuột. Đến khi tỉnh ra thì quá muộn. Chúng đã “quất ngựa truy phong” trên đường thiên lý, nhiều ngã rẽ, có mà giời tìm.

Ở tổ tôi, tay kỹ sư thực tập quê Anh Sơn, Nghệ An tên Trần Q, làm cô bé người Mường Bùi Thị D. có thai rồi bỏ của chạy lấy người. Ông bố nổi trận lôi đình vác súng săn phóng ngựa tìm mấy ngày không thấy. May cho Q. Người Mường vốn ân oán phân minh, hôm ấy mà bị ông bố cô gái tóm được, ít nhất gã Don Juan cũng què một cẳng. Mãi ba mươi nhăm năm sau hắn mới quay về bản cũ, nhưng người tình đã chết trong một trận lũ suối, còn cô con gái trở thành phó chủ tịch huyện. Hắn không dám gặp mặt mà chỉ đứng từ xa nhìn con rồi lặng lẽ quay đi.

Lán của chúng tôi trong cánh rừng thuộc địa phận bản Kà Tèo, xã Đoàn Kết. Đang thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá ác liệt, người dân chuyển vào trong “lũng” cách đó chừng năm, sáu cây số. Trâu bò, gà lợn cũng đưa hết vào rừng. Bản hoang vắng tiêu điều. Ban ngày tuyệt không bóng người, ban đêm nai, hoẵng lần về tìm muối. Khi lên tuyến, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp đàn lợn rừng mõm dài ngoẵng hùng hục bới sắn...

Tổ trưởng của chúng tôi là anh Th., kỹ sư cầu đường bộ nhưng sẵn máu văn chương. Anh có hai chiếc hòm gỗ, một đựng quần áo và đồ đạc lặt vặt, chiếc kia to gấp đôi đựng sách báo. Cứ mỗi lần mang tài liệu về Đội Khảo sát Thiết kế giao nộp, anh lại đến bưu điện Bờ Hồ mua “Văn nghệ”. “Văn nghệ” đối với anh là lẽ sống, có thể bớt khẩu phần ăn, tạm bằng lòng với bộ bảo hộ lao động dày như da voi đi tán gái nhưng không thể thiếu “Văn nghệ" của Hội Nhà văn. Anh Th., đặc biệt thích thơ Tố Hữu, nhất là “Bài ca mùa xuân 61”. Bài này anh thuộc nằm lòng, bất cứ lúc nào, hễ có dịp lại ngâm đoạn:

“Tôi viết cho ai bài thơ 61?

Đêm đã khuya rồi, rét về tê buốt

Hà Nội rì rầm... Còi thổi ngoài ga

Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa

Tiếng xình xịch, chạy dọc đường Nam Bộ...”.

Ngược lại, tôi chỉ mê kiếm hiệp. Trong hòm của tôi có trọn bộ “Chinh Đông”, “Chinh Tây”, “Ngũ hổ bình Liêu”, “Ngũ hổ bình Nam”, “Vạn hoa lâu”… còn chẳng có chút cảm tình nào với các loại thơ.

Hồi ở nhà, học cấp ba, tuy những bài nghị luận cũng được xem là “sạch nước cản” nhưng tôi không thích văn. Toán cũng chẳng có gì khá khẩm. Tóm lại, tôi là một gã làng nhàng, mải chơi, mỗi thứ một tí, chẳng thứ nào ra hồn. Chính vì đam mê món kiếm khách như Cao Giang Nguyễn Dân Quân, Triệu Nhất Phấn hay Hồng Gia nữ hiệp..., bỏ bê việc nhà nên rất hay bị ông bố dữ đòn nện cho những trận lên bờ xuống ruộng. Ăn đòn mãi thành quen, xong rồi đâu lại vào đấy. Nói vậy thỉnh thoảng tôi cũng liếc qua tờ “Văn nghệ”, nhưng thú thật, truyện ngắn nó cứ khô khan, và công thức thế nào ấy, đọc rất khó vào.

Máy bay ném bom phong tỏa bến phà Chợ Bờ, giao thông bị ách tắc, xe cộ qua lại rất khó khăn. Anh Th. không về Hà Nội được đồng nghĩa với việc nguồn báo “Văn nghệ” bị cắt. Một hôm, anh rủ tôi tìm vào bưu điện Mường Khoa sơ tán về xã Đoàn Kết xem sao, nếu có, đặt mua ở đây cho tiện. Nể quá phải gật đầu. Chủ nhật, bưu điện nghỉ mà ban ngày lại phải leo rừng, phát tuyến, chúng tôi chọn phương án đi buổi tối vào tận nơi sơ tán. Đường vừa xa vừa lắm dốc, khó đi. Mãi gần 9 giờ đêm mới vào đến “lũng”. Ánh đèn pile bọc vải tỏa ra quầng sáng mờ mờ chẳng giúp nhận rõ đường. Bỗng có tiếng lên đạn lách cách rồi chẳng hiểu từ nơi nào mấy dân quân xuất hiện như những bóng ma chĩa súng vào hai anh em quát bằng tiếng Kinh lơ lớ: “Đứng im, giơ tay lên”. Chưa kịp định thần thì tôi và anh Th. đã bị mấy vòng dây thừng ngoắc vào cổ rồi quặt về phía sau trói cả hai tay…

Bị điệu về nhà ông xã đội, chúng tôi trình ra hai tấm thẻ cử tri, giải thích thế nào họ cũng không nghe, sau hơn nửa tiếng đồng hồ thẩm vấn, họ tống hai anh em vào gian nhà chứa củi cạnh chuồng dê, rồi khóa cửa, cho hai dân quân gác bên ngoài. Cả đêm trằn trọc không thể nhắm mắt. Muỗi bay vù vù như vãi trấu. Chắc chúng thích mùi phân dê…

Khoảng 8 giờ sáng, cửa mở, hai anh em lại bị trói giật cánh khuỷu có hai dân quân hộ tống, phía sau là ông xã đội trưởng, cả đoàn rồng rắn ra lán khảo sát theo lời khai của “bị can”.

Sau khi thoát nạn, hôm ấy tôi nghỉ việc đánh một giấc đến nửa chiều mới tỉnh dậy. Buổi tối, nhìn thấy anh Th., tôi mỉa mai bảo: “Văn nghệ của anh đấy, tuy rằng không mất mạng về súng đạn nhưng ai dám chắc chúng ta không mắc chứng sốt rét vì thứ muỗi anophèle có chất xúc tác từ phân dê”. Anh mủm mỉm cười, giọng nửa đùa nửa thật: “Cậu có công nhận tinh thần cảnh giác cách mạng của họ cao không?”.

Anh Th., dân Hà Nội gốc, chơi guitar bài “Ngày về” của Hoàng Giác rất bài bản, lại thỉnh thoảng có thơ đăng báo vậy mà không qua khỏi trận bom đánh vào công trường năm 1972. Anh chết vào lúc đang giám sát thi công chiếc cầu bê tông trên suối Tà Lải.

 

 

Tác giả: Đặng Xuân Xuyến

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH... ‘TÀO LAO’ VỀ

BÁO VĂN NGHỆ ĐỔI MỚI SỐ 1... 

Tối qua, 06 tháng 07-2021, Nhà thơ Nguyễn Đăng Hành điện thoại hỏi: “Cậu đã đọc bài nhà báo Nguyễn Thanh Tâm phỏng vấn các nhà thơ “Thế nào là một bài thơ hay” đăng trên web Văn Chương Phương Nam chưa?”. Tôi trả lời: “Em chưa. Mà em cũng lười đọc lắm, bác ạ.”. Ông cười cười: “Nguyễn Thanh Tâm hỏi ai không hỏi lại hỏi Nguyễn Phan Quế Mai về nghệ thuật sáng tác thơ, về cảm thụ thơ.”. Tôi trêu ông: “Nguyễn Phan Quế Mai vừa mắc lỗi với bác à?”. Ông hô hố cười: “Tớ là thằng vô danh tiểu tốt thì lỗi hay không lỗi cái đếch gì. Là lỗi với chính lòng tự trọng của Nguyễn Phan Quế Mai khi cô ấy tuyên bố sẽ kiện ra tòa làm rõ ngô khoai với tay nhà thơ ất ơ Ngô Xuân Phúc nào đó về bài thơ “Tổ Quốc gọi tên mình” mà cô ấy lại im lặng ỉm đi đến tận giờ này. Tớ hỏi thật nhé: Có khi nào vì đuối lý nên cô ấy không dám kiện nữa không?”. Rồi giọng chót vót, nhấn nhá rất đặc trưng Nguyễn Đăng Hành: “Tớ thấy bài thơ “Tổ Quốc gọi tên mình” thường thôi, thơ chính trị, thơ phong trào, hay ho đếch gì đâu mà tố nhau chôm chỉa nhỉ? Nếu quả thật Nguyễn Phan Quế Mai chôm thơ của Ngô Xuân Phúc thì khốn nạn quá! Khốn nạn đến mức trộm cắp để ghi danh thì đểu quá, nhục quá! Tớ mong Nguyễn Phan Quế Mai kiện Ngô Xuân Phúc ra tòa để minh bạch danh dự cho cả 2 chứ cứ ỉm đi tuyên bố sẽ kiện Ngô Xuân Phúc ra tòa thì nhiều người sẽ tin Ngô Xuân Phúc bị Nguyễn Phan Quế Mai thuổng bài thơ “Tổ Quốc gọi tên mình”.

Chậm vài nhịp thở, ông tiếp: “Cậu đã đọc bài nhà thơ Hoàng Hưng, chủ xướng văn đoàn độc lập gì đấy hoắng lên ca ngợi biên tập báo Văn Nghệ Đổi Mới (số 1) hết lời vì báo đó đã đăng thơ của con gái ông ấy chưa? Mọi người bàn tán trên mạng bảo Hoàng Hưng thế là xoàng, là bưng bô kiểu mới. Tớ nói thật, bộ ba Trần Mạnh Hảo - Nguyễn Hoàng Đức - Đỗ Hoàng chửi thơ Hoàng Hưng, Nguyễn Việt Chiến... là thơ nói nhảm, thơ thần kinh cũng chả sai. Tớ đọc mấy bài thơ của cô Ly Hoàng Ly, nói thật là đếch thể tiêu hóa nổi vì nó lảm nhảm như lời nói của kẻ thần kinh. À này, tớ vừa vào trang facebook của lão Trần Mạnh Hảo, lão dùng kính chiếu yêu tìm ra bài thơ hay nhất trong chùm thơ đăng trên báo Văn Nghệ Đổi Mới số 1 của ông Văn Giá (Phó Giáo sư, Tiến sĩ phụ trách khoa viết văn trường Đại học Văn Hóa Hà Nội) lại là “học theo gương Hữu Thỉnh: Lấy việc đạo văn (ăn cắp văn, ăn cắp ý, ăn cắp lời của nhạc sĩ Trần Tiến) làm sự nghiệp để đời”. Công nhận lão Trần Mạnh Hảo này giỏi, rất giỏi! Nhưng mà tớ vẫn nghi nghi: Có khi nào kính chiếu yêu của lão Trần Mạnh Hảo bị trục trặc kỹ thuật không? Tớ đếch tin ông Phó Giáo sư, Tiến sĩ Văn Giá lại làm trò hèn đó.”. Rồi ông đột ngột cụp máy. Tôi gọi lại mấy lần mà đầu dây phía ông cứ vọng lại tiếng tút tút cụt ngủn, khô khốc.

Sáng nay, 07 tháng 07-2021, post bài thơ “Lan man và chuyện thằng bạn” vào album: “Thơ đã xuất bản” lên trang facebook cá nhân, chợt nhớ lại cuộc điện thoại tối qua nên chép lại, dán vào phần bình luận để “lưu” cuộc điện thoại tối 06 tháng 07-2021 với nhà thơ Nguyễn Đăng Hành.

*.

Hà nội, ngày 07 tháng 07 năm 2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

 

Tác giả: Nguyễn Hữu Quý

TRẢ LẠI GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC CỦA GIẢI THƯỞNG

Mấy năm gần đây có những cuộc thi hay các đợt xét giải thưởng bị dư luận chê bai ồn ào trên các phương tiện truyền thông chính thống hay mạng xã hội. Cái sự ồn ào xoay quanh các giải thưởng đã làm hoang mang công chúng về các giá trị văn học nghệ thuật đích thực.

Cách đây chưa lâu mấy, có không ít ý kiến chê thậm tệ những bài thơ của một tác giả được giải cao trong cuộc thi do tạp chí Nhà văn và tác phẩm tổ chức. Hay gần đây cuộc thi thơ của báo Văn nghệ cũng đã làm sôi sục dư luận bởi một bài thơ được ban tổ chức trao giải cao. Ý kiến chung là người ta chê chất lượng nghệ thuật của những tác phẩm ấy. Những bài thơ đó chưa thể gọi là hay không tương xứng với giải thưởng được trao. Sự nghi ngờ của dư luận nhằm vào ban tổ chức, ban sơ khảo, ban chung khảo cuộc thi. Hay chuyện xét Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước cho những tác giả có tác phẩm xuất sắc luôn kèm theo những eo xèo, bàn tán không hay. Những tác giả và tác phẩm được trao tặng các giải thưởng cao quý bị công chúng soi chiếu, đánh giá đôi khi rất quyết liệt, sòng phẳng. Người ta thường so sánh tác giả, tác phẩm này với tác giả, tác phẩm khác và đưa ra ý kiến ai là người xứng đáng được trao giải thưởng. Một tác giả có những tác phẩm được trao giải thật sự hạnh phúc khi được số đông công chúng tâm phục, khẩu phục. Giải thưởng cao quý xứng đáng với những nhà văn hội đủ tâm tài, có tác phẩm xuất sắc hướng về đất nước, nhân dân và các giá trị tốt đẹp của con người. Những tác phẩm có ảnh hưởng tốt tới sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng bảo vệ Tổ quốc và giàu tính nhân văn. Hiển nhiên, đó phải là những tác phẩm mang tính nghệ thuật cao, in đậm dấu ấn sáng tạo của nhà văn, có sức sống lâu bền trong công chúng của nhiều thế hệ.

Không dễ dàng đạt tới những tiêu chí đó. Cho nên, tôi nghĩ số lượng người viết được giải trong các cuộc thi, được trao các danh hiệu danh giá bao giờ cũng rất ít. Do đó, nó cần phải được thực hiện hết sức công tâm, công bằng, công khai. Đây không phải là sự ban phát, xin – cho, càng không phải là cơ hội kiếm chác danh và lợi cho những kẻ lợi dụng. Thực tế, đã và đang xảy ra chuyện đó rồi. Thế mới có những tác phẩm làng nhàng lại được giải cao trong các cuộc thi. Tôi nghe người ta đồn có hiện tượng mua giải, chạy giải trong một số cuộc thi. Người cần danh, kẻ cần tiền, đó chính là nguyên nhân đẻ ra những cuộc bán mua nhơ nhớp, những toan tính tối tăm ê chề. Có không? Những phi vụ văn chương hàng trăm triệu được thực thi trong bóng tối. Có không? Người ta có cớ để nghi ngờ các nhà văn được Giải thưởng Hồ Chí Minh hay Giải thưởng Nhà nước lại chẳng có tác phẩm nào đáng kể. Cũng chỉ là bấy nhiêu trang viết thường thường bậc trung, không tỏ rõ tài năng của người cầm bút.

Tôi nghĩ, muốn để chọn lọc ra được những nhà văn xuất sắc nhất thì không còn cách nào khác phải lấy tác phẩm của họ làm thước đo chính. Vâng, tác phẩm. Tác phẩm thể hiện rõ ràng nhất, đầy đủ nhất, sâu sắc nhất cái tâm, cái tài của người viết. Muốn làm được điều đó những người có trách nhiệm thẩm định tác phẩm cũng phải là những người tâm sáng, tài cao.

Cần có những quy định về tiêu chuẩn xét giải thật hợp lý, rõ ràng và chặt chẽ. Tất cả các thành viên dự thi hay dự xét thưởng đều được bình đằng soi chiếu, đánh giá trên tiêu chuẩn đó. Loại trừ ngay các yếu tố ngoài văn chương như quen biết, cánh hẩu, mua bán, chạy chọt. Ít nhưng tinh và đúng là tiêu chí số một của việc chấm, xét các giải thưởng văn học. Tôi nghĩ, đã đến lúc cần siết lại thật chặt chẽ việc xét các giải thưởng văn học, đặc biệt là Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh.

 

 

Tác giả: Đỗ Hoàng

CHẤT LƯỢNG THI THƠ BÁO VĂN NGHỆ RẤT THẤP

Trước đấy báo Văn nghệ và Hội Nhà văn tặng giải cho các tác giả hoặc các tác phẩm dù dở hoặc hay đều là thơ Việt. Bẵng đi 30, 40 năm Hội Nhà văn Việt Nam do Hữu Thỉnh đứng đầu tặng giải cho các tác giả và tác phẩm phi văn chương Việt. Đầu têu năm 1993 tặng giải tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều - một tập sách nhăng nhăng cuội cuội, lộn xà, lộn xộn, ông chằng bà chuộc… Phải dịch ra thơ Việt thì mới thưởng thức được. Tiếp theo các năm sau “Bầu trời không mái che” của Mai Văn Phân, Thơ Li Li, “Mặt thớt” của Trần Quang Quý, “Hoan ca” Đỗ Doãn Phương, Thơ Đinh Thị Như Thúy, “Vườn khuya” của Trần Hùng,… là những ấn phẩm băng hoại thơ Việt!

Năm nay (2019 - 2020) báo Văn nghệ tặng giải có “đổi mới”, một nửa “Vô lối” , một nửa truyền thống. Vô lối thì vứt sọt rác, truyền thống thì chất lượng quá thấp. Ba bài của Nguyễn Văn Song (Từ ngày lên phố, Gọng vó đầu làng, Từ ngày cha mất) có hai bài viết về cha loanh quanh tủn mủn ở một vùng ao đầm, lục bát như vè xẩm mà lại lỗi vận! Thơ không có tráng tâm, hào khí, ngoài bài thơ của Mai Thìn viết về nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên…

Ba bài đạt giải cao (B) của Tòng Văn Hân phải dịch ra thơ Việt mới nghe xuôi tai!

Đây là cuộc thi thơ Việt - người viết phải viết tiếng Việt và làm thơ Việt. Thơ Việt hiện đại không cần vần điệu nhưng phải có tứ xuất sắc, chứ viết “ Vô lối “là hỏng

Thơ Lò Ngân Sủn:

“Người đẹp như tuyết

Chạm vào thấy nóng

Người đẹp như lưa

Chạm vào thấy mát

Gặp người đẹp không đói cũng phải đói

Gặp người đẹp không khát cũng phải khát

Muốn chết, gặp người đẹp lại không muồn chết nữa…”

Ba bài “thơ” của Tòng Văn Hân đều là “thơ Vô lối”. Hai bài “Mẹ tôi chửi kẻ trộm” và “Nhà dưới nhà trên” chọi nhau. Một bài nói trộm cặp như rươi, một bài bình yên, nhà không cần khóa cửa. Thạt không ra thể thống gì!

Dịch Vô lối ra thơ Việt:

Tòng Văn Hân

MẸ TÔI CHỬI KẺ TRỘM

Những lần gà nhà tôi bị mất

Mẹ tôi chửi:

- Cái đứa trộm gà ơi

Ta cầu mong cho ngươi

Nuôi được gà đầy đàn

Lứa này tiếp lứa khác

Có nhiều gà nhất bản

Có nhiều gà nhất mường!

Những lần lợn con nhà tôi bị mất

Mẹ tôi chửi:

- Đứa nào trộm lợn nhà tôi

Thì hãy có nhiều lợn

Đàn tiếp đàn núc ních

Lứa tiếp lứa không ngừng

Bán được nhiều tiền nhé!

Từ thủa bé đến giờ

Hễ nhà mình mất gà mất lợn

Tôi đều nghe thấy mẹ tôi chửi như thế

Cầu mong cho kẻ trộm kia khá giả

Không bao giờ đến nhà tôi ăn trộm nữa.

Tôi là đứa con gái dưới mức bình thường

Nhan sắc không bằng đám bạn

Khéo léo không bằng người ta

Thế mà có hẳn bốn nhà

Muốn được tôi làm con dâu của họ./.

Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:

MẸ TÔI VÀ TÊN TRÔM

Những lần gà nhà tôi bị mất

Mẹ tôi liền nói thật mấy lời:

“Hỡi anh chuyên trộm gà ơi

Ta cầu mong tốt cho người bình an

Nuôi được lắm gà đán gà lũ

Lứa này nhiều tiếp lứa nhiều hơn

Có nhiều gà nhất trong buôn

Có nhiều gà nhất trong mường sinh sôi”

 

Những lần lợn nhà tôi bị mất

Mẹ tôi liên nhắn thật mấy lời:

“Này anh vác lợn nhà tôi

Mong anh nuôi được lợn hơi đầy nhà

Đàn tiếp đàn núc na núc ních

Bầy tiếp bầy như bịch như bồ

Bán đi có món tiền to

Chuyện này từ bé đến giờ nhà ta!”

Nhà tôi hễ mất gà mất lợn

Tôi đều nghe mẹ phán sẻ chia

Cầu mong cho kẻ khổ kia

Làm ăn tấn tới đừng đi phá mường!

Tôi người con gái bình thường

Xinh tươi cũng chẳng sắc hương nước trời

Vá may kim chỉ thua người

Thế mà có bốn nhà mời làm dâu!

*

Hà Nội ngày 10 - 4 - 2021

ĐỖ HOÀNG

 

LÀM RỂ

Ngày anh sang nhà em làm rể

anh đi phát nương

con dao nhỏ bằng ba ngón tay

phát được nhiều bằng ba người khác.

Những buổi sáng trời đổ sương muối

cá suối trú rét đầy trong hốc

anh đi bắt cá về ăn

nước suối ấm như nước em đun tắm.

Có những bữa hai ta ăn cơm ở trên nương

bẫy và nỏ chẳng săn bắn được gì

chỉ ăn lá vả, lá sung chấm muối ớt

ngon như ăn thịt hoãng thịt nai.

Có những hôm hai ta ngủ trên nương

đêm mùa hè trời oi và nóng lắm

cái lán nhỏ nằm một mình đã chật

mà ngủ ngon hơn bất cứ nơi nào./.

Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:

LÀM RỂ

Ngày anh sang nhà em làm rể

Đi phát nương bất kể tháng ngày

Con dao bằng ba ngón tay

Ba người cũng chẳng so tày sức anh

 

Những buổi sáng trời hành sương muối

Trong hốc sâu cá suối từng đàn

Anh bắt về bữa thêm sang

Nước suối ấm như hơi làn em đun

 

Có những bữa ta cùng cơm rẫy

Bẩy nỏ kia chẳng bẩy được gì

Lá sung quả vả nhâm nhi

Mà ngon quá xá như khi thịt rừng

 

Có những đếm giữa thung ngủ lại

Đêm mùa hè nóng vãi mồ hôi

Một mình, lán nhỏ đã oi

Thế mà ngon ngủ không nơi nào bằng!

*

Hà Nội 10 - 4 - 2021

ĐỖ HOÀNG

 

NHÀ DƯỚI NHÀ TRÊN

Bản ta ở sườn dốc

Nhà sát nhà

Kê nhau cao dần cao dần lên đầu núi

Gọi quen "Nhà dưới nhà trên"

Ánh mặt trời xuyên qua vách nhà trên lọt vào cửa sổ nhà dưới

Gió hắt qua nhà dưới thông thống cửa sổ nhà trên

Không làm hàng rào ngăn cách

Gánh nước vương ra ướt sân nhà nhau

Con vịt nhà trên bơi lội ao nhà dưới

Con gà nhà dưới bới ăn trong gầm sàn nhà trên.

Đời cha đời ông

Ăn chung cây xoài cây me

Đời con đời cháu

Ăn chung giàn bí giàn bầu.

Khi một nhà đi đâu không cần khóa cửa

Chỉ cần nói một câu "Trông nhà hộ nhé!"

Đồ bé đồ to chẳng mất bao giờ.

Khi một nhà có khách

Chỉ cần gọi một câu "Về đây ăn cơm đê"

Chai rượu lâu năm chăng đầy mạng nhện

Mang sang để cùng tiếp khách

Tiếng thơm lòng nhà dưới

Cũng thơm lòng nhà trên.

Sống với nhau bằng tấm lòng ngay thẳng

Nhà dưới kê nhà trên cao lên

Nhà trên kéo nhà dưới cao lên./.

Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:

NHÀ DƯƠI NHÀ TRÊN

Bản của ta ở bên sườn dốc

Nhà sát nhà tâng bậc cao lên

Gọi quen “nhà dưới, nhà trên”

Hai nhà ánh nắng vách xuyên lọt vào

 

Gió nhà thấp, nhà cao thông thống

Không hàng rào cửa đóng cách chia

Nước vương sân gánh lúc đi

Nhà trên vịt lội ao đìa nhà ta.

 

Gà nhà dưới lên nhà trên đẻ

Đời đời ông, bố mẹ ăn chung

Xoài me bầu bí trong vùng

Cháu con tiếp nối lại cùng sẻ phân.

 

Nhà đi vắng không cần khóa cửa

Từ họ nghe “thả rứa” là xong

Y nguyên của nả vẫn còn

Không mất một tứ con con bình thường

 

Khi có khách thập phương ới gọi

Về ăn cơm có đọi, có mâm

Có chai rượu ủ lâu năm

Mang sang đãi khách thấy tăm sủi đầy

 

Tiếng thơm lòng ngất ngây nhà dưới

Tiếng thơm lòng lên tới nhà trên

Tấm lòng ngay thẳng vững bền

Hai nhà kê bậc cao lên nền trời!

*

Hà Nội 17 - 5 - 2021

ĐỖ HOÀNG

 

 

Tác giả: Gia Vũ

THƠ ĐOẠT GIẢI BÁO VĂN NGHỆ: DƯ LUẬN CHÊ DỞ, BAN GIÁM KHẢO KHEN ĐỘC ĐÁO

Trước ồn ào chê bai về bài "Mẹ tôi chửi kẻ trộm" đoạt giải B của Báo Văn nghệ, nhà thơ Hữu Thỉnh, Trưởng Ban Giám khảo cho rằng, đây là bài thơ hay, độc đáo nhất cuộc thi.

Sau khi Báo Văn nghệ tổ chức trao giải cuộc thi thơ 2019 - 2020 vào ngày 9/4 với 2 giải B (không có giải A) được trao cho 2 tác giả, trong đó có Tòng Văn Hân ở Điện Biên, dư luận trong giới văn chương và mạng xã hội "sôi" lên về chất lượng bài thơ "Mẹ tôi chửi kẻ trộm", một trong 3 tác phẩm đoạt giải của ông.

Đứng trước những bức xúc, ồn ào về giải thưởng, nhà thơ Hữu Thỉnh, Trưởng Ban Giám khảo chung cuộc của giải thơ khẳng định "Mẹ tôi chửi kẻ trộm" là bài thơ hay và độc đáo nhất cuộc thi, xứng đáng nhận giải thưởng đã được trao. Theo ông Thỉnh, "Mẹ tôi chửi kẻ trộm" không được viết theo kiểu “mơn trớn chữ nghĩa” nhưng thú vị bởi yếu tố nhân văn, độ lượng của nó.

“Lý thường, khi chửi kẻ trộm, người ta sẽ nguyền rủa kẻ trộm gặp những tai ương, đây 'Mẹ tôi chửi kẻ trộm' lại mong cho kẻ trộm đủ ăn, giàu có, tử tế lên để không phải đi ăn trộm nữa. Tư tưởng đó nhân văn vô cùng, tâm hồn rất cao thượng, độ lượng. Lấy ân báo oán thì oán giảm đi, lấy oán báo oán thì oán chồng chất. Đấy là đạo lý rất hay của dân tộc mình”, ông Thỉnh giải thích nguyên nhân khiến ông và các thành viên khác của Ban Giám khảo chấm giải B cho tác phẩm này.

Cũng có cùng quan điểm này, ông Khuất Quang Thụy - Tổng Biên tập Báo Văn nghệ, Trưởng Ban tổ chức giải thơ, cho biết báo ủng hộ và tôn trọng tất cả quyết định của hội đồng chung khảo gồm các nhà thơ, nhà văn uy tín như: Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đức Mậu.

Ông Thuỵ cũng khẳng định Ban tổ chức rất trong sáng, không khuất tất. Với những khen chê, bình luận trái chiều, ông Thuỵ cho là chuyện bình thường. 

Trước đó, một số nhà thơ, nhà văn cho rằng đây là tác phẩm ngô nghê, “dở nhất nước”, và đông đảo cư dân mạng đồng tình với nhận xét này.

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo khẳng định, tác phẩm không phải là thơ, Báo Văn nghệ đã làm một cuộc “vinh danh thơ dở”, và "Mẹ tôi chửi kẻ trộm" là thứ thơ “tân con cóc”, vớ vẩn, dễ dãi, dông dài.  

Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn cho rằng, ý tưởng “phúc đức tại mẫu” của bài thơ rất được; người mẹ có tấm lòng rộng lớn thì người con sẽ gặp được nhiều phúc báo, tuy nhiên Tòng Văn Hân viết bài này quá vụng về, phơi bày sự ngô nghê.  

Theo anh, "Mẹ tôi chửi kẻ trộm" được chọn đăng báo đã là sự châm chước, còn trao giải cho nó là hơi xem thường độc giả và thi ca. “Động viên Tòng Văn Hân là cần thiết. Thế nhưng, không thể khích lệ theo kiểu ban phát giải thưởng một cách chủ quan, dễ dãi” – Lê Thiếu Nhơn viết. Anh nói thêm, cư dân mạng lấy "Mẹ tôi chửi kẻ trộm" để "chửi" giải thơ là hợp tình, hợp lý./.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Vài nhời sau khi đọc “Văn Nghệ chí”l

- Lĩnh nam chích quái: Miễu cô hồnl

- Về trang thơ của “báo Văn Nghệ đổi mới số một”…l

- Báo Văn Nghệ làm mới sổ hưul

- Nghề viết và những nguy hiểm rình rậpl

 

Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ, truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến:

0 comments:

Đăng nhận xét