“EM VÀ TRỊNH”
BỘ PHIM GÂY
NHIỀU TRANH CÃI
*
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Tác
giả: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
CA SĨ KHÁNH LY CÓ
QUYỀN KIỆN PHIM “EM VÀ TRỊNH”?
Đó
là câu hỏi mà một học trò cũ cùng nghề tôi mới hỏi qua thư Điện tử… Thú thực
là, tôi dự định khi cơn sốt phim này qua đi mới tìm xem sao, bởi lúc này đi
xem, nếu hay thì tốt, còn nếu dở (theo ý chủ quan), lại nổi “máu nghề nghiệp”
lên thì biết đâu sẽ ảnh hưởng tới doanh thu như mục đích của “đội bạn”, tôi
không nỡ.
Nhưng
vì có câu hỏi trên, rồi đọc lại mấy sự phản ứng khá gay gắt của ca sĩ Khánh Ly
(và ca sĩ Thanh Thúy), tôi thử đặt vào địa vị mình, thì bỗng hiểu và chợt thông
cảm hết với các ca sĩ - những người đã được hỏi, được tìm hiểu khá kỹ về đời
riêng trước khi “hóa thân“ trên màn bạc, song những gì được nhìn thấy - nghe
thấy sau đó lại không giống như những gì đã kể, đã miêu tả.
Lúc
đầu, tôi cũng đồng quan điểm với một số người xem, rằng đây là phim hư cấu -
fiction, người làm phim có quyền sáng tạo riêng, tạo ra một Trịnh Công Sơn của
riêng êkip làm phim; và nếu 10 đạo diễn làm phim về Trịnh Công Sơn thì sẽ có 10
Trịnh Công Sơn khác nhau - theo cảm nhận riêng của từng đạo diễn, đó là quy
luật của nghệ thuật điện ảnh - nhất là phim truyện.
Nhưng
trước phản ứng cụ thể của ca sĩ Khánh Ly, ngẫm kỹ lại, tôi thấy ca sĩ này có
lý. Vấn đề không phải là những chi tiết nghệ thuật về đời riêng Khánh Ly có tác
dụng tôn vinh bà, hay hạ thấp bà, mà vấn đề ở đây là: các nhà làm phim đã vi
phạm vào đạo đức lẫn pháp luật khi phá vỡ quyền bảo vệ nhân thân (tiểu sử) cùng
những bí mật đời riêng! Sao lại để đến cái nỗi ca sĩ phải than vãn: con cái tôi
sẽ nhìn nhận, đánh giá về tôi ra sao trước những tình tiết - chi tiết này nọ
mang tính bịa đặt, thậm chí trơ trẽn và thô bỉ nhằm câu khách?!
Chưa
kể việc hư cấu đó mang tính nghệ thuật đến đâu, giá trị thẩm mỹ tác động tới
đông đảo người xem thế nào, chỉ riêng điều xúc phạm tới sự thật lịch sử về một
nhân vật đang sống sờ sờ sờ ra đó với mục đích thương mại, không được sự đồng
tình của "nhân sự", cũng đã làm cho bộ phim công phu tốn kém này trở
thành thứ phẩm, thậm chí là bằng cớ không chối cãi cho một vụ kiện cáo rất có
thể xảy ra, vụ kiện cáo thực đáng xấu hổ với tất cả giới truyền thông và giới
điện ảnh trong nước!
Ừ,
ai cấm các bạn hư cấu, với những nhân chứng của Trịnh Công Sơn đang còn sống
kia, sao các bạn không cho mang cái tên khác, danh xưng khác (Ví như Khánh Ly
thành Khánh Huệ chẳng hạn; chữ Lys là hoa Huệ trong tiếng Pháp, gợi nhớ cuốn
tiểu thuyết lãng mạn của nhà văn hiện thực Balzac: “Hoa huệ trong thung” - Le Lys dans la valée, cũng gợi cho ta
tới giọng ca “vàng” của người nhạc sĩ trong thời còn bơ vơ giữa thung lũng cô
đơn của tên tuổi, v.v). Cách đây mấy chục năm, trong bộ phim “Em còn nhớ hay em đã quên” do Trung
tâm Điện ảnh Trẻ chúng tôi sản xuất, đạo diễn Nguyễn Hữu Phần cũng đã khôn khéo
thay tên hầu hết các nhân vật “vệ tinh” của nhân vật chính (cũng đổi tên thành
Quang Sơn), nhưng có ai kêu ca phàn nàn gì đâu!?
Với
riêng tôi, và một số đồng nghiệp, đây sẽ là bài học “xương máu” cho nghề
nghiệp!
Tác
giả: nhạc sĩ Tuấn Khanh
LÀM PHIM, VÀ
"QUYỀN" TỰ DO SÁNG TẠO
Bộ
phim về Trịnh Công Sơn được xem là phim tiểu sử, có nhiều chi tiết được liệt
kê, nhiều nhân vật được nhắc đến, nhưng có vài cái tên quan trọng bị tránh
không nhắc đến.
Trong
cuộc đời của ông Trịnh Công Sơn, nhân vật Lưu Kim Cương (1933-1968) là điểm
phản bác lại những quan điểm mà nhiều người hay gọi ông là Việt Cộng nằm vùng,
mà từ đó để nhận ra rằng bản chất nghệ sĩ của Trịnh Công Sơn là một người la cà
bè bạn, sống tùy cảm xúc và cuối cùng chỉ loay hoay chọn cách tồn tại an toàn ở
quê nhà.
Phim
"Em và Trịnh" nhấn mạnh về nhân vật Ngô Kha, bạn của Trịnh Công Sơn.
Cũng phải thôi, vì Ngô Kha được coi là người của phía cách mạng. Mặc dù chuyện
phong liệt sĩ cho Ngô Kha cũng đã từng vật vã tranh cãi ở Huế, cho đến năm
1981, vượt qua các lời phản bác, ông Ngô Kha mới được phong tặng liệt sĩ. Có
thể thấy cách chú trọng dựng một không khí riêng “Ngô Kha” trong phim, là một
phần để làm đẹp lòng những người kiểm duyệt.
Phim
cũng “cộng nghiệp” hai nhân vật Đinh Cường và Trịnh Cung thành một người và tạo
ra một tính cách chung chung cũng là một cách lướt qua, có thể là để không nói
về Trịnh Cung (1938). Nhân vật này, nếu nói về, cũng không tiện trong một nền
điện ảnh còn thiếu thốn tự do và khả năng cảm nhận về điện ảnh chân chính của
những người có quyền.
Ông
Trịnh Cung nhập ngũ năm 1964 như mọi thanh niên miền Nam lúc đó theo lệnh tổng
động viên, theo học khóa 19 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, sau đó với tài năng hội họa
ông được giữ lại làm huấn luyện viên môn Chiến tranh Chính trị VNCH. Sau Tháng
Tư 1975, ông gác bút lông và giá vẽ trong chục năm vì cuộc sống thay đổi với 3
năm đi tù “cải tạo”, 2 năm buộc đi kinh tế mới và 2 năm trở về Sài Gòn bán bánh
mì ở vỉa hè. Hơn nữa, đầu những năm 2000, khi cả nước sục sôi chống Trung Quốc,
ông cũng xuống đường và bị công an gọi làm việc nhiều lần.
Ông
Trịnh Cung kể, vào lúc quá mệt mỏi với những thư mời thẩm vấn, ông đã báo với
người công an là ông từ nay sẽ không đi nữa, vì lòng tự trọng của mình, và ông
chỉ sẽ chờ bắt thôi. Từ đó, lúc nào ở cái bàn gần cửa nhà, ông luôn để sẵn một
cái túi nhỏ với một bộ đồ, cái lon Guigoz chờ khi có công an đến là xúc cơm bỏ
vào đó với chút muối mè và lên đường. Nhưng không hiểu sao, từ sau tuyên bố đó,
không ai quấy rầy ông nữa.
Dĩ
nhiên, với một người bạn rất thân nhưng khác màu như vậy, thì làm sao có thể để
vào, khiến bộ phim có thể toàn vẹn mô tả về một Trịnh Công Sơn
tranh-đấu-như-một-người-cộng-sản?
Còn
với đại tá Lưu Kim Cương, lại càng không, vì cuộc đời của ông sống, chiến đấu
và phục vụ cho một chế độ khác. Hơn nữa hình mẫu của đại tá Lưu Kim Cương là
một nhân vật điển hình của một trí thức sĩ quan của chế độ cũ: quả quyết với lý
tưởng phục vụ nhưng nhãn quan đầy dân chủ trong đời sống.
Đại
tá Lưu Kim Cương vì mến tài mà quen với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Hai người
thường xuyên sinh hoạt văn nghệ với nhau ở quán Mây Bốn Phương, nằm trong Câu
Lạc Bộ Không Quân. Vì thân nhau nên một tuần có lúc ông Sơn đến chơi với đại tá
Cương hai, ba lần. Tình bạn của hai người gắn bó hơn khi có lúc ông Nguyễn Cao
Kỳ gặp Trịnh Công Sơn tại câu lạc bộ, và chỉ trích thẳng mặt ông Sơn về các bài
hát phản chiến, nhưng đại tá Lưu Kim Cương chính là người bênh vực. Chuyện kể
rằng khi Trịnh Công Sơn đang giải bày quan điểm của mình, thì đại tá Cương đã
xen vào cắt ngang, nói rằng “tôi nghĩ đó là những điều hay nhất của một quốc
gia tự do”.
Mậu
Thân 1968, khi Trịnh Công Sơn núp ở trong nhà, hé màn quan sát đường phố - là
tiền đề cho ca khúc mang tính lịch sử Bài Ca Dành Cho Những Xác Người – và mất
liên lạc với mọi người ở Sài Gòn. Sau khi chiến sự tạm lắng xuống, đại tá Lưu
Kim Cương đã sốt ruột biệt phái phi công Nguyễn Quí Chấn bay ngay ra Huế để đón
Trịnh Công Sơn vào Sài Gòn lánh nạn. Riêng chi tiết "hé màn nhìn ra"
của Trịnh Công Sơn, nếu ai có thời gian đọc lại Mười Gương Mặt Văn Nghệ của Tạ
Tỵ, sẽ biết nhiều hơn, đặc biệt là với bút ký của chính Trịnh Công Sơn viết về
những người lính Bắc Việt xuất hiện ở Huế lúc đó, ra sao.
Tháng
5 năm 1968, khi đang là đại tá Tư lệnh Không đoàn 33 Chiến thuật kiêm Chỉ huy
trưởng Yếu khu Quân sự Tân Sơn Nhứt, ông bị tử trận trong trận Mậu Thân đợt 2,
được truy thăng cấp bậc chuẩn tướng. Đại tá Lưu Kim Cương là người bạn duy nhất
của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, mà là người khiến ông xúc động đến mức viết ra ca
khúc dành riêng, mang tên Cho Một Người Nằm Xuống.
Dù
được viết bài hát riêng, nhưng ông Cương không được nằm trong nhãn quan mô tả
lại tiểu sử, cũng là điều dễ hiểu ở Việt Nam hôm nay. Nên có thể nói ở Việt Nam
hôm nay, người ta đang tạo ra thể loại tiểu sử giả tưởng. Vì giả tưởng, nên các
nhân vật cần thiết lại xóa đi, và những ai được phục dựng trong phim như ca sĩ Khánh
Ly, ca sĩ Thanh Thúy… đều phản đối phần của mình bị lãng mạn hóa, teen hóa hoặc
hoàn toàn khác biệt đời thật của mình.
Đã
có không ít những lời tranh cãi, cho rằng “làm phim có quyền”. Thậm chí là sếp
lớn của hãng đầu tư phim cũng nói kiểu như quần chúng còn dốt nát nên không
nhận ra cái “quyền sáng tạo” của điện ảnh. Dĩ nhiên, làm phim có quyền bay bổng
với trí tưởng tượng của nhà biên kịch, đạo diễn, nhưng trước hết nền tảng của
sự bay bổng đó phải là tinh thần tự do, trong một nền điện ảnh tự do không nhằm
phục vụ cho bất cứ ai. Khi không đủ sức mạnh của bản thân nhưng lại thích nói
lớn tiếng, giống như một người tự do, thì anh chỉ có thể tự huyễn hoặc mình, và
có tội khi cố căng sửa lịch sử để làm tròn phận mình và đời của cả người khác,
chỉ để mua vui ngày kiểm duyệt.
Hãy
tưởng tượng, một ngày nào đó, khi các nhà làm phim trẻ và ngôn ngữ bay bổng vũ
trụ ấy, lại làm phim tiểu sử về anh Bảy Lốp hay người anh hùng không quân Phạm
Tuân tắt máy, nằm trên mây để chờ B52 đến chẳng hạn. Nghĩ mà toát mồ hôi.
Tác
giả: nhạc sĩ Tuấn Khanh
CA SĨ KHÁNH LY NÓI
GÌ VỀ BỘ PHIM CUỘC ĐỜI TRỊNH CÔNG SƠN
Sau
khoảng một tuần công chiếu, bộ phim Em
Và Trịnh đã nhận được rất nhiều lời phê bình. Bên cạnh những lời khen
ngợi về hình ảnh đẹp, âm nhạc quen thuộc, những hình ảnh ký ức Sài Gòn được
phục chế, thì diễn xuất của diễn viên và nội dung kịch bản là điều bị tranh cãi
rất nhiều.
Bên
cạnh đó cũng có rất nhiều người từ chối không đi xem bộ phim của Trịnh Công
Sơn, vì họ tin rằng hệ thống kiểm duyệt của nhà nước vẫn chằng chịt, nên sẽ chỉ
có thể phô diễn một Trịnh Công Sơn theo ý của nhà cầm quyền mà thôi.
Điều
đáng nói là bộ phim này có rất nhiều chi tiết liên quan về những người còn
sống, nhưng không hiểu sao đạo diễn cũng như diễn viên lại không dành nhiều
thời gian tham khảo với những người có liên quan, cụ thể trong trường hợp đó là
nhân vật Khánh Ly.
Trên
các bài báo quảng cáo về bộ phim này, đạo diễn cũng như những người thực hiện
nói rằng họ rất quan tâm để tạo dựng nhân vật Trịnh Công Sơn cũng như xây dựng
nhân vật nữ thay cho hình ảnh của ca sĩ Khánh Ly. Theo mô tả, đây là những chọn
lựa hết sức công phu và khó khăn.
Ca
sĩ Khánh Ly kể diễn viên Bùi Lan Hương - ca sĩ hóa thân bà trong phim – từng
gửi email, gọi điện thoại xin bà tư vấn về vai diễn. Bà Khánh Ly nói trong cuộc
gọi kéo dài khoảng ba phút, Bùi Lan Hương hỏi ăn mặc sao cho ra chất của bà. “Thời trẻ, tôi giản dị, lại còn nghèo. Tôi
không có tiền mua quần áo, đôi guốc bít mũi đã cũ, xộc xệch, cũng không trang
điểm, đeo trang sức. Sau đó, tôi cũng không thấy ai hỏi thêm ý kiến của mình”,
Khánh Ly cho biết.
Câu
chuyện này khiến nhiều người ngạc nhiên bởi rõ ràng về mặt tổ chức phục trang,
và miêu tả nhân vật, có vẻ như đạo diễn đã phó thác cho diễn viên, chứ không có
sự tổ chức chi tiết nào khác. Mọi thứ được tập trung để miêu tả nhân vật Trịnh
Công Sơn, nhưng dường như chế độ kiểm duyệt đã khiến những góc cạnh thú vị có
thể trình bày được cuộc đời và vai trò của họ Trịnh trong lịch sử của Việt Nam
Cộng Hòa chỉ rõ nét hình ảnh của một thanh niên yêu đương lăng nhăng và… nhảm.
“Mới lò mò đi theo Diễm như mấy thằng stalk
trong phim kinh dị, xong thấy Dao Ánh phát là quên luôn nhỏ chị vừa tồn tại
trên đời. Lên Đà Lạt nhớ nhung thư từ cho Ánh được chút thì theo Khánh Ly tới
bến, còn viết cả vào thư khoe Ánh là anh mới quen con nhỏ này. Lúc về già cặp
Michiko thì cũng hôn hít tưng bừng xong nghe tin Ánh về thăm là sáng lác mắt,
báo hại cô dâu bỏ của chạy lấy người trong ngày cưới” - Trương Thiên Cơ,
một người bình luận phim tự do ghi lại cảm xúc trên Facebook, “Tất cả cứ trôi qua đều đều, ải ải, hết thời
lượng thì kết phim. Mà nó còn gây cho ta cảm giác Trịnh sống chỉ để đuổi theo
gái”.
Trong
cuộc họp báo vào trung tuần Tháng Sáu công bố kế hoạch lưu diễn xuyên Việt kỷ
niệm 60 năm ca hát, khi được phóng viên hỏi có đi xem qua phim Trịnh chưa, bà
Khánh Ly cười và nói: “Tại sao tôi phải
đi xem một bộ phim hư cấu về một con người mà tôi đã biết? Còn đáng ngạc nhiên
hơn trong đó hư cấu cả tôi”. Dù bà Khánh Ly nói, rồi cười nhã nhặn trong
cuộc họp báo, nhưng chi tiết này để lộ cho thấy việc sơ suất của những người
làm bộ phim này khi họ không nghĩ đến chuyện gửi cho bà một tấm vé mời để được
xem về chính mình trong phim.
Sai
lầm của bộ phim Em và Trịnh
được nhiều người mô tả cho thấy rằng đây là một bộ phim giải trí đơn thuần,
nhưng đạo diễn ham muốn diễn đạt như là bức chân dung điện ảnh về cuộc đời một
nhân vật nổi tiếng đang được chế độ bơm đẩy, khiến nhiều chi tiết phải gồng
gánh những phần lịch sử không thể làm rõ trong chế độ kiểm duyệt.
Ngân
sách làm bộ phim lên đến 50 tỷ. Thăm dò từ của những người theo dõi việc ra mắt
bộ phim này cũng cho thấy rằng hầu hết là tò mò để xem một Trịnh Công Sơn được
diễn đạt trên phim như thế nào, nhưng không có quá nhiều hi vọng về một bộ phim
hay. Cũng có nhiều người trẻ xem phim để được thấy một Sài Gòn cũ trước năm
1975 là như thế nào.
Thế
nhưng những chi tiết không đúng về lịch sử cũng như mập mờ tạo ra những nghi
vấn về cái chết của nhân vật Ngô Kha - vốn vẫn chưa có lời kết trong lịch sử về
cái chết của ông ta tại Huế, là điều đáng trách của những người viết kịch bản.
“Khi bạn kiếm ăn bằng cách khai thác di
sản Việt Nam Cộng Hoà, nếu bạn không dám, không thể nói đúng về chế độ này, thì
ở mức đạo đức tối thiểu, bạn cũng đừng nói xấu. Nếu vi phạm nguyên tắc đạo đức
tối thiểu này, bạn chỉ là rác rưởi”, nhà văn Trà Đoá, sống ở Sài Gòn, nói
về bộ phim qua những tình tiết được coi là không đúng với lịch sử.
Hoàng
Lê, một nữ khán giả xem phim, người đã sống qua những năm tháng của Sài Gòn cũ,
chỉ ra vài chi tiết bất hợp lý trong phim:
“Ngoài lỗi kiến thức dẫn đến dàn dựng sai như
cảnh quân cảnh lái xe Jeep chặn bắt Trịnh Công Sơn đang chở bạn gái bằng xe đạp
ngoài đường để đưa về thẩm vấn vì sao sáng tác nhạc ca ngợi hoà bình, còn có
cảnh khi còn ở B’lao (Bảo Lộc), chưa về biểu diễn tại Sài Gòn, khi nghe nói nữ
ca sĩ Joan Baez của Mỹ đã ví cặp Khánh Ly – Trịnh Công Sơn với cặp Joan Baez –
Bob Dylan, Khánh Ly-Bùi Lan Hương đã nói với Trịnh Công Sơn: “Mình đẹp đôi hơn
chứ!” Đạo diễn Phan Gia Nhật Linh không biết rằng Joan Baez đã gọi Trịnh Công Sơn
là “Bob Dylan của Việt Nam” (Bob Dylan of Vietnam) vào năm 1970, khi phong trào
phản chiến ở Mỹ đang lên cao sau Tết Mậu Thân, còn Trịnh Công Sơn lên B’lao dạy
học vào năm 1964 sau khi tốt nghiệp Trường Sư phạm Quy Nhơn và anh gặp ca sĩ
Khánh Ly ở Đà Lạt vào năm 1965”.
Phan
Cao Hoài Nam, một nhà bình luận điện ảnh, viết trên blog: “Khi Trịnh lên B’lao dạy học, ta không thấy anh trò chuyện với học trò,
với người dân, có suy nghĩ gì về thời cuộc. Tất cả bị biến thành các cảnh MV
rất bực bội. Trong những mối tình, Trịnh chỉ chạy trốn và thụ động với những
dòng thư hiện lên sến súa và sáo rỗng, với tần suất dày đặc vô cùng thiếu tinh
tế”.
Có
thể nói bộ phim Em và Trịnh bị
giằng xé giữa việc phục vụ giới trẻ với những tình tiết âm nhạc giải trí, và
cũng muốn lôi kéo luôn những khán giả muốn biết về một mảng đời có những câu
chuyện tình của họ Trịnh. Bên cạnh đó, lại pha trộn cả những hình ảnh chính trị
thiên tả của ông ta, như một món quà để lọt cửa kiểm duyệt. Tất cả điều này
khiến bộ phim trở thành một nồi lẩu vụng về và biến các tuyến diễn viên trở nên
nông cạn trong diễn xuất, vì không biết mình phải trình bày nhân vật được phân
vai theo hướng nào. Từ Sài Gòn, nhà báo Huỳnh Duy Lộc nói một cách điềm đạm: “Mình cho đây là một phim chưa hay, không có
tầm. Mình tin là mai sau lịch sử sẽ đặt nó đúng vị trí”.
Khi
được hỏi diễn viên Bùi Lan Hương trong vai Khánh Ly có vẻ trau chuốt và điệu
đà, liệu có mô tả đúng cuộc đời của bà không, bà Khánh Ly không bình luận gì mà
chỉ kể lại một kỷ niệm khi đi hát với Trịnh Công Sơn, bà tập trung trình diễn
đến mức bỏ cả guốc dép, đứng chân trần. Nữ ca sĩ 77 tuổi này kết thúc phần nhận
định của bà về bộ phim Em và Trịnh
bằng nụ cười “Có thể họ là người yêu
Trịnh Công Sơn, nhưng yêu theo một kiểu khác, một kiểu nào đó.”
Tác
giả: Lê Võ Châu Anh
EM VÀ TRỊNH -
THAM LAM VÀ HỜI
HỢT, ĐƯỢC VÀ MẤT
Trước
khi viết một bài khá dài về bộ phim Em
Và Trịnh của đạo diễn Phan Gia Nhật Linh, mình muốn nói rằng mình rất
trân trọng và đây hoàn toàn không phải là một bài chê phong trào, vì yêu quý vì
tiếc mà viết, vì theo mình đáng lẽ bộ phim không trở thành bộ phim gây tranh
cãi như hiện tại, mà có thể trở thành bộ phim thành công trong số ít các bộ
phim có chủ đề khai thác nhân vật như Trịnh Công Sơn.
1.
ĐƯỢC GÌ?
-
Đầu tiên phải kể đến đề tài, đề tài bộ phim là một điều đáng khen ngợi vì đưa
hình tượng cố nhạc sĩ lên màn ảnh rộng. Quả thực thì điện ảnh Việt rất nhiều đề
tài, rất nhiều chủ đề nhân vật có thể khai thác. Bộ phim có thể được xem là một
trong những sự tiên phong trong vấn đề khai thác nhân vật sự kiện tạo được sự
chú ý quan tâm của khán giả.
-
Tái hiện lại Huế, Sài Gòn và Đà Lạt xưa. Có nhiều chi tiết trên phim mình rất
thích và thấy rất cảm động. Ví như hình tượng chiếc vé tàu của Dao Ánh hay thời
trang những năm 60. Có những chi tiết mang dấu ấn lịch sử, ví như việc quân
dịch là việc đi lính phục vụ chế độ Ngụy quyền, hay trong lời thoại của Trịnh
khi nói chuyện với Khánh Ly, rủ Khánh Ly về Sài Gòn có nói "Sài Gòn là thủ đô". Quy mô tái hiện
khung cảnh đáng hoan nghênh ở quy mô lớn hơn 1 căn phòng hay một ngôi nhà, ví
như cảnh nhiều người đạp xe trên phố, quán bar thời xưa, bến tàu thời xưa. Điều
này thể hiện được sự đầu tư và chỉn chu trong việc tạo hình và hình ảnh của bộ
phim.
-
Lời thoại. Phim có nhiều lời thoại hay và đắt giá. "Mai ơi, anh e âm nhạc đã bỏ anh rồi" hay "Còn gì đau đớn hơn khi ta coi nỗi đau là một
điều bình thường." Những lời thoại này được lấy từ tư liệu của chính
cố nhạc sĩ, nhưng được lồng ghép vào phim ở những phân cảnh rất phù hợp.
2.
MẤT GÌ?
Tác
phẩm này mất nhiều hơn được, vậy vì sao mất? Phải kể đến sự tham lam của đạo
diễn và biên kịch. Mà thói đời, càng dư thừa thì càng thiếu thốn, càng lam lam
lại càng hời hợt. Điểm danh sự tham lam dẫn đến hời hợt trong bộ phim này:
-
Tuyến nhân vật: thông thường nhân vật trong phim sẽ có vài nhân vật chính và
một nhân vật trung tâm. Trước khi xem phim ai cũng biết, nhân vật trung tâm sẽ
là Trịnh, nhưng xem rồi thì không biết cuối cùng thì Trịnh nào là trung tâm khi
có 2 nhân vật trẻ và già quá khác xa nhau về diễn xuất, cách thể hiện và không
có sự ăn nhập gì. Hay tưởng tượng lại, nếu nhân vật trung tâm không phải là
người mà là cuộc tình, vậy cuộc tình Dao Ánh là trung tâm, vậy thì tại sao thời
lượng phim với các cuộc tình khác lại dài đến vậy, có khi còn dài hơn cả, ví
như mối quan hệ với cô gái người Nhật Michiko. Sự tham lam này khiến bộ phim kể
rất nhiều câu chuyện nhưng cuối cùng lại chẳng biết đang kể câu chuyện gì.
-
Diễn viên: Việc kiếm tìm diễn viên cho nhân vật rất khó khăn, vì không phải bao
giờ cũng có một người phù hợp hoàn hảo, nhưng để 1 người không có một chất gì
ăn nhập, thì đó là có lỗi với nhân vật thực sự. Chú Trần Lực có thể là một diễn
viên gạo cội ở những tuyến nhân vật khác, nhưng khi hóa thân thành Trịnh Công
Sơn khi về già có thể coi là một thất bại trong sự nghiệp diễn xuất của chú. Vì
sao, vì chú không có một nét gì trầm mặc nhưng đầy lãng mạn của một người nhạc
sĩ, chú không có nét từng trải nhưng mong manh của Trịnh, và khi chú phiêu theo
âm nhạc người ta thấy chú như một người nghệ sĩ nửa mùa, vì nó là nét phiêu bề
mặt, không phải cái phiêu nội tâm cuả người nghệ sĩ, nhất là người nghệ sĩ sáng
tác. Chú khô cứng và thiếu mong manh, nên khi chú đau khổ, người ta cảm thấy
khô khốc, khi chú nói những lời đường mật và lãng mạn, người xem lại cảm thấy
sự phô quá đà trong hình hài và biểu đạt thô ráp. Đáng lẽ câu thoại "Mai ơi, anh e âm nhạc đã bỏ anh rồi"
là một câu thoại đắt giá, nhưng nó chẳng làm nên điều gì cả. Việc không tìm
thấy diễn viên phù hợp cho bộ phim không phải hiếm, và đôi khi đạo diễn và biên
kịch phải thay màu mới, phải sửa lại kịch bản, đó là một điều rất bình thường.
Tuy nhiên không biết đoàn làm phim có nhận thấy điều này không, khi sự xuất
hiện của chú chiếm 1 nửa thời lượng phim. Đó chẳng phải là sự tham lam và hời
hợt hay sao.
-
Mối tình Dao Ánh bị nâng lên quá đà tạo nên những mối quan hệ còn lại gượng ép
và xây dựng nên một hình hài Trịnh Công Sơn khó hiểu. Sự tạo cao trào để tô vẽ
cho cuộc tình với Dao Ánh dùng chính chất liệu là các cuộc tình khác nói một
cách nghiêm túc thì nó khá buồn cười, theo lối tư duy ngôn tình kiểu các cô gái
mới lớn thường hay đọc, đó chính là lý do mà cư dân mạng gắn cho hình tượng cố
nhạc sĩ là "trapboy đời đầu" trong khi trên thực tế hoàn toàn không
phải như vậy. Đầu tiên là kể về câu chuyện tình giữa nhạc sĩ với Ngô Vũ Bích
Diễm, khi lần đầu tiên đến chơi và Dao Ánh mở cửa, thời điểm đó Dao Ánh còn là
"một cô bé chạy loăng quăng theo chị",
thực sự ở thời điểm đó Dao Ánh còn quá bé và tâm lý yêu cô chị, công bằng mà
nói không ai để ý cô em quá bé như vậy. Nhưng không, trên phim phải có cảnh nam
chính thất thần trước nhan sắc nữ chính hay đi vào còn ngắm nàng thêm chút nữa
mới hả dạ. Chưa hết, khi mang tặng Diễm bài hát, nam chính lại ngây ngất trước
vẻ đẹp của nữ chính thêm chút nữa, ơ hay, để làm gì. Để nhấn mạnh rằng đây mới
là định mệnh cuộc đời của cố nhạc sĩ ư? Chưa hết, sang cảnh xây dựng mối quan
hệ cùng đi lên bằng âm nhạc với Khánh Ly, rõ ràng đây là mối quan hệ thuần
khiết tri âm tri kỷ, nhưng khi cảnh Trịnh trước khi về Huế, nhất định giữa cảnh
rừng núi hoang vu heo hắt phải có cảnh nàng ôm chàng trong cô độc, để nói rằng
giữa bao nhiêu cám dỗ, Trịnh vẫn chỉ yêu mình Dao Ánh hay sao? Tại sao? Tại sao
lại phải thế? Rồi đến khi đi nửa cuộc đời, có mối quan hệ với cô gái hồn nhiên
Michiko, Dao Ánh lại xuất hiện rồi biến mất, để lại trong Trịnh nỗi trống trải
còn Michiko là nỗi tủi hờn. Đến giờ vẫn không ai biết tại sao đám cưới ngoài
đời thực lại không diễn ra, nhưng nếu trên phim Dao Ánh xuất hiện 1 cách ý tứ
hơn, không phải là một con người bằng xương bằng thịt, những cái ôm và những bó
hoa thì có lẽ hình ảnh Trịnh đã khác. Chi tiết này, một lần nữa cũng chỉ để tô
điểm cho cuộc tình Dao Ánh mà thôi.
-
Quá nhiều chi tiết nhưng thiếu ý niệm thời gian. Sự ôm đồm chi tiết trong phim
thì ai cũng thấy, nhưng có một sự hời hợt xuyên suốt bộ phim chính là ý niệm
thời gian. Từ lúc gặp lần đầu ở Pháp cho đến khi Michiko đến Việt Nam là bao
lâu? Họ ở bên nhau bao lâu thì yêu nhau? Bên nhau bao lâu thì họ quyết định làm
đám cưới? Trịnh theo đuổi Diễm bao lâu? Cuộc tình và những lá thư với Dao Ánh
kéo dài bao lâu? Vì thiếu ý niệm thời gian trên, Trịnh trên phim biến thành kẻ
vừa nhảy vài bước thì đã ngả đầu ôm ấp với Michiko, vừa thoáng thấy cô gái xinh
đẹp tan trường thì đã đem lòng yêu say đắm, vừa chấm dứt với cô chị đã quay ra
tỏ tình với cô em. Thời gian duy nhất xác định ở trên phim là thời gian Trịnh
quay lại tìm Khánh Ly "Lời mời của
Quán văn 3 năm trước vẫn còn chứ?", chỉ một sự xác định thời gian thôi
đã tạo nên sự bền bỉ chắc chắn của một mối quan hệ, nhưng với các cuộc tình của
ông trên màn ảnh thì không.
-
Ôm đồm nhiều chi tiết, nhiều nàng thơ làm cho bộ phim chỉ có chuyển cảnh, không
có chuyển biến tâm lý nhân vật. Nếu ai từng ấn tượng với tình yêu Trịnh dành
cho Diễm và Dao Ánh thì càng thấy bộ phim này dở như nào. Đầu tiên là Diễm,
trên phim chỉ có cảnh 1 chiều mưa, Diễm đi qua và nhạc sĩ đem lòng say đắm.
Nhưng trên thực tế, việc ngắm dòng nữ sinh tan trường về trên phố và say đắm
nàng nó là một khoảng thời gian rất dài, nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm.
"Thưở ấy có một người con gái rất mong manh,
đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến trường Đại học Văn
khoa ở Huế.
Nhiều ngày, nhiều tháng của thưở ấy, người con
gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa
cũng theo qua. Những mùa nắng ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa
mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhạt nhòa trong mưa giữa hai hàng cây long não
mờ mịt...
Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng
ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận...Trừ những người quá xa phải đi xe đạp, còn
lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung. Đi để được
ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng, mình là một nhan sắc."
"...ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong
chiếc áo lụa trắng của trường Đồng Khánh, vẫn thường đi ngang qua , băng qua
cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh người con gái thùy mị mang nét kín cổng cao
tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào không nhìn xuống đường chờ
đợi:
Lụa áo em phủ mặt đường
Gót nhỏ xanh xao tựa khói sương
Diễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng
và lãng mạn như hai chữ "Diễm Xưa". Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy
bên cửa sổ có cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình.
Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: "Chiều
nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn
lên nỗi đau, bước chân em xin về mau.""
Còn
Dao Ánh, mối tình của bà và Trịnh Công Sơn tái hiện trên phim là những lá thư,
nhưng độc chỉ có thư của Trịnh gửi nàng, trong thời gian yêu đương đó nội dung
bà gửi cho ông những nội dung gì, không ai rõ. Trên thực tế nhiều nguồn kể lại,
thì Dao Ánh ban đầu để an ủi ông vì mối tình với Diễm nên viết thư, sau nhiều
lần tâm tình tình yêu mới nảy nở. Nhưng không, trên phim thì họ gần như yêu và
say đắm nhau luôn. Vì thiếu quãng nghỉ, chuyển biến tâm lý nhân vật nên hình
tượng cố nhạc sĩ lên phim khá buồn cười, nếu không nói là đa tình một cách
thiếu nghiêm túc.
-
Quá tập trung vào các nàng thơ, mối quan hệ xã hội của Trịnh trên phim không
tồn tại. Để xây lên nội tâm nhân vật không chỉ có tình yêu, còn phải có mối
quan hệ xã hội, Trịnh cư xử như nào với bạn bè, với công việc, với gia đình,
những biến cố nào trong đời để Trịnh lúc này khác lúc kia. Nhưng không, Trịnh
trong phim chỉ là một hình hài di động chạy từ nàng thơ chuyển cảnh sang một
nàng thơ khác.
-
Nhiều cảnh thừa và vô lý. Một trong những cảnh vô lý và gây tụt cảm xúc của
phim là cảnh những người bạn yêu nhạc cười nói hát hò ngay trong chính ngôi nhà
của ông ngay từ đầu phim. Trong rất nhiều năm được tiếp xúc nhạc Trịnh, mình
không thấy một tổ chức nào có kiểu giao lưu vừa đi vừa vỗ tay hát hò, cười haha
hihi khi hát nhạc Trịnh như thế cả, rất giống kiểu giao lưu văn nghệ làng xã,
thiếu tính chiều sâu trong âm nhạc của ông. Mà trên thực tế có chăng đi chăng
nữa thì cũng không nên đưa vào, vì thời lượng cuộc đời và thời lượng phim là 2
khái niệm hoàn toàn khác nhau. Chính cảnh văn nghệ văn gừng chỉ để chuyển cảnh
hoài niệm như thế, thực sự đã tạo nên một dự cảm thiếu nhất quán về bộ phim
ngay từ những phút đầu tiên.
Cuối
cùng thì, đọng lại bộ phim vẫn là sự tiếc nuối. Vì với một đề tài đắt giá như
vậy, đáng lẽ bộ phim phải đi được xa hơn. Và việc đưa tất cả nàng thơ của Trịnh
lên phim là một sai lầm không thể chối bỏ. Như trong hội họa hay nhiếp ảnh,
trước khi bắt đầu bằng màu phải tập làm quen với chì và đen trắng, tức trong
nghệ thuật, sự giản lược là điều cần thiết. Em Và Trịnh đã liều lĩnh và ôm đồm cuối cùng tạo nên một sự hời
hợt không đầu không cuối, méo mó trong hình tượng người nhạc sĩ tài hoa.
Dù
sao thì, xem xong một bộ phim không thể về, mấy mươi con người rời khỏi rạp
chiếu phải đứng lại để tâm sự trong các trạng thái đứng, ngồi. Về nhà bật nhạc
Trịnh lên nghe và viết 1 bài dài ơi là dài để bày tỏ nỗi niềm, thì không phải
bộ phim nào cũng làm được.
Nên
là, cứ xem thôi.
Để
tưởng nhớ và day dứt.
Tác
giả: Diễm Trinh
CA SĨ THANH THÚY
KHÔNG ĐỒNG TÌNH VỚI BỘ PHIM “EM VÀ TRỊNH”
Bên
cạnh những chia sẻ "không vui" từ Khánh Ly, danh ca Thanh Thúy - một
trong những nhân vật "Em" trong phim Em và Trịnh -
cũng đã có phản ứng về cách xây dựng hình tượng cũng như những chi tiết sai
lệch về bà trong phim.
Sau
15 ngày trình chiếu, bộ phim Em và Trịnh hiện
đạt doanh thu khoảng 90 tỉ đồng. Chính những tranh cãi gay gắt quanh bộ phim
chân dung, tiểu sử về cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trên khắp các diễn đàn phim
ảnh, mạng xã hội đã giúp bộ phim được nhiều người tìm xem, để
rồi tranh cãi, "khẩu chiến" dữ dội tiếp.
Những
nhân vật có thật ngoài đời được đoàn phim "tái dựng" hình ảnh trên
phim đã có những phản ứng về chính hình tượng của họ trên phim. Danh ca Khánh
Ly, trong những chia sẻ gần đây với báo chí, cho rằng bộ phim đã phản ánh không
chân thực mối quan hệ giữa bà và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lúc sinh thời, với
những cảnh trong phim như "đút sữa
chua cho ông ăn, đi tìm nhạc sĩ, ôm ông khi ông buồn". Khánh Ly khẳng
định, giữa bà và Trịnh Công Sơn không có tình yêu: "Nhưng họ vẫn cố tình gán ghép chúng tôi thành một đôi. Để làm gì, tôi
không hiểu. Để cho họ thỏa mãn à? Và quan trọng là lúc đó tôi đã có gia đình.
Các con tôi sẽ nghĩ gì khi xem phim có cảnh mẹ chủ động đi tìm ông Trịnh Công
Sơn. Trong khi tôi với bố nó vẫn ở với nhau".
"Tôi chỉ nghĩ một điều là vì sao người ta làm
như thế trong khi tôi còn sống. Tôi không biết khi con tôi xem phim đó, chúng
sẽ nghĩ thế nào về mình. Đại diện của đoàn phim trước khi quay có liên lạc, có
cho tôi xem kịch bản những phân đoạn Khánh Ly trong phim. Với những cảnh họ dự
định thực hiện, tôi đã không đồng ý. Và tôi cũng nói nếu muốn sáng tạo, muốn
giữ kịch bản thì phải đổi tên nhân vật. Nhưng cuối cùng, một số cảnh tôi không
đồng ý vẫn đưa lên phim và tên Khánh Ly không hề thay đổi" - danh ca
Khánh Ly nay đã 77 tuổi cho biết.
Danh
ca Thanh Thúy cho rằng hình ảnh của mình bị "xuyên tạc"
Mới
đây, bà Thanh Thúy (danh ca Thanh Thúy) đã chia sẻ với báo chí rằng hình ảnh
của mình bị xuyên tạc trên phim về Trịnh Công Sơn. Nữ ca sĩ từng thành công với
ca khúc Ướt mi (do Trịnh Công Sơn sáng tác tặng) - Thanh Thuý
khẳng định: "Ông Trịnh Công Sơn chưa
bao giờ đưa cô về đến đầu ngõ".
Nữ
danh ca Thanh Thúy không giấu được sự thất vọng khi chia sẻ với báo chí tiếng
Việt ở hải ngoại: “Đó là thời gian mẹ tôi
mới mất. Tôi để tang mẹ, đi hát chỉ mặc toàn áo dài trắng và đen. Cả đời, cho
đến nay chưa bao giờ tôi mặc áo sườn xám và búi tóc như thế. Tôi cũng rất 'kỵ'
hình ảnh một nam, một nữ đi về trong ngỏ hẽm mờ ảo như thế. Đó không phải là
tôi. Trước khi làm phim họ có nhờ một nhạc sĩ bên này hỏi về trang phục của tôi
lúc đó, tôi cũng nói hết. Vậy mà cuối cùng họ làm phim như thế. Tôi không hiểu
được. Đó là một cô gái sành sỏi nào đó chứ không phải ca sĩ Thanh Thuý”.
Thời
điểm ekip Em và Trịnh tung ra poster nàng thơ đầu tiên
của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - nhân vật danh ca Thanh Thúy do nữ diễn viên
Phạm Nhật Linh đảm nhận, thì ngay lập tức trên mạng xã hội, khán giả đã có
những màn so sánh giữa "bản sao" và có không ít ý kiến tranh cãi xoay
quanh danh ca Thanh Thúy phiên bản 9x này, cho là "không đúng thần
thái".
Danh
ca Thanh Thúy, tên thật Nguyễn Thị Thanh Thúy (sinh năm 1943), là người con của
xứ Huế. Do mẹ của bà bị bệnh hiểm nghèo nên gia đình phải rời mảnh đất cố đô,
đưa mẹ vào Sài Gòn chữa trị. Để mưu sinh kiếm thêm tiền thuốc thang cho mẹ tại
Sài Gòn, Thanh Thúy đến với nghiệp ca hát khi mới 16 tuổi. Lần đầu tiên Thanh
Thúy xuất hiện trên sân khấu phòng trà Đức Quỳnh, cạnh rạp chiếu bóng Việt Long
nằm đường Cao Thắng cùng với Minh Hiếu. Và ngay lúc đó, tiếng hát của bà đã
chinh phục được khán thính giả vốn dĩ rất khó tính trong việc thưởng thức âm
nhạc.
Thân
gái dặm trường nơi đất khách quê người, song Thanh Thúy vẫn xuất hiện đầy tự
tin dưới ánh đèn sân khấu bằng một chất giọng rất đặc biệt, không lẫn lộn với
ai. Bà là người Huế, nói rặt tiếng Huế nhưng hát giọng Bắc, chất giọng trộn lẫn
giữa Huế và Hà Nội vốn đã đặc biệt, nhưng khi bà cất lên bằng giọng hát thì
càng đặc biệt hơn. Đó là một chất giọng hơi khàn nhưng không đục, được bà luyến
láy, nhấn nhá nhiều cung bậc trầm bổng rất liêu trai. Thanh Thúy được nhiều đạo
diễn, nhạc sĩ gọi với các biệt danh, như "Tiếng hát liêu trai", "Tiếng hát khói sương", "Tiếng hát lúc 0 giờ"...
Những
năm đầu thập niên 1960, tên tuổi của ca sĩ Thanh Thúy đã lừng lẫy không chỉ
trên các sân khấu phòng trà mà cả trên sóng đài phát thanh, đĩa nhạc, băng
nhạc. Những ca khúc đã gắn liền với tên tuổi Thanh Thúy lúc bấy giờ như: Nửa
đêm ngoài phố, Kiếp nghèo, Người em sầu mộng, Ngăn cách, Tàu đêm năm cũ…
Sinh
thời, Trịnh Công Sơn từng cho biết ông gặp Thanh Thúy năm 1958, khi cùng bạn
đến phòng trà Mỹ Cảnh ở Sài Gòn để uống rượu, nghe nhạc. Tình cờ, ông được nghe
tiếng hát của một ca sĩ người Huế - Thanh Thúy. Giọng ca trầm buồn của bà gây
cho ông ấn tượng đặc biệt. Nhạc sĩ viết một mảnh giấy nhỏ đề nghị Thanh Thúy
hát bài Giọt mưa thu của
Đặng Thế Phong. Bà nhỏ nhẹ cám ơn rồi cất tiếng hát. Vài tháng trước đó, cha bà
qua đời, mẹ đang bị lao phổi nặng. Mang nỗi niềm riêng, bà không kiềm chế nổi
cảm xúc, vừa hát vừa khóc. Sau đó, Trịnh Công Sơn nhớ lại những giọt nước mắt
của Thanh Thúy, sáng tác ca khúc Ướt
mi. Ông viết trong một lần giới thiệu ca khúc: "Những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ
trên tâm hồn mỏng manh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời
nào còn xa xôi hơn đã từng làm tôi nhỏ lệ". Một lần khác, nhớ bóng
dáng Thanh Thúy mặc áo dài, sau đêm nhạc hối hả về nhà với mẹ, Trịnh Công Sơn
viết tặng bà ca khúc tên Thương
một người: "Thương nụ cười
và mái tóc buông lơi/ Mùa thu úa trên môi/ Từng đêm qua ngõ tối...".
Theo
tư liệu, vào năm 1961, nhạc sĩ Y Vân sáng tác ca khúc Thúy đã đi rồi,
dựa trên mối tình đơn phương của bạn thân ông - một đạo diễn kiêm kịch sĩ -
dành cho Thanh Thúy. Nhạc phẩm được sử dụng trong cuốn phim cùng tên, do ca sĩ
- diễn viên Hùng Cường thu âm.
Tác
giả: Tằng Phát
“EM VÀ TRỊNH” NHƯ
NỒI LẨU THẬP CẨM
Đứa
con tinh thần của Phan Gia Nhật Linh không thể gọi tên là phim âm nhạc và quá
hư cấu cho một tác phẩm tiểu sử.
Bản
nguyên Trịnh Công Sơn vốn là một tam giác Bermuda- một huyền thoại bí ẩn, đầy
mâu thuẫn, nuốt trọn tất cả và không nhả gì ra ngoài các bản tình ca bất hủ.
Phó
bản điện ảnh Trịnh Công Sơn và phó bản của phó bản Em
và Trịnh là một “kỳ quan thế giới thu nhỏ ở Sa Pa” - phiên bản cuộc
đời được làm bé đi, sản xuất bằng xốp phủ sơn, có tất cả sự hào nhoáng và rất
thích hợp để trở thành một điểm check-in thời thượng.
Bản
nguyên Trịnh Công Sơn là khối nguyên liệu khổng lồ - những mối tình của ông, sự
nghiệp âm nhạc đồ sộ và phong phú của ông, bạn bè của ông… đặt trên bối cảnh
của một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất trong lịch sử.
Trong
những năm tháng chiến tranh và cả những năm dài của thời hậu chiến, ở cả hai
bên bờ đại dương, hàng triệu người đã nương tựa vào âm nhạc của ông, tạo ra vô
vàn những phiên bản Trịnh Công Sơn khác nhau trong tâm tưởng.
Một nồi lẩu thập cẩm
Do
đó, cuộc tranh cãi bất tận về việc “giống” hay “không giống” sẽ là vô nghĩa.
Hãy
xem những người gần gũi nhất với ông, thân thuộc nhất với ông không ngừng mâu
thuẫn, dị biệt và nhiều khi đối nghịch khi cố gắng mô tả Trịnh Công Sơn là đủ
hiểu.
Câu
hỏi ở đây sẽ là: “Đâu là Trịnh Công Sơn”
của đạo diễn Phan Gia Nhật Linh? Và có vẻ, đạo diễn không có được Trịnh Công
Sơn 'của mình'”.
Cái
bối rối “tình đôi lận đận” phân vân giữa chọn góc nhìn của riêng mình hay làm
dâu trăm họ, thỏa mãn vô vàn những ý kiến khác nhau (có thể) của người thân,
bạn bè, những “chuyên gia Trịnh Công Sơn” đã đưa đạo diễn vào tình trạng “tiến
thoái lưỡng nan” ngay từ đầu và kéo dài đến tận cuối phim.
Vậy
thì tóm lại Em và Trịnh là thể loại phim gì?
Nó
quá nhiều “tài liệu” cho một câu chuyện tình, quá ít âm nhạc cho một bộ phim âm
nhạc, quá hư cấu cho một bộ phim tiểu sử và vì không đủ dũng cảm lựa chọn Trịnh
Công Sơn của mình.
Vì
vậy, Em và Trịnh trở thành một nồi lẩu thập cẩm. Nó có mỗi thứ
một ít, chút thời cuộc, chút âm nhạc, chút số phận và rất nhiều các mối tình
nhàn nhạt thoáng qua.
Có
một câu chuyện ngụ ngôn về con lừa chết đói giữa hai bó cỏ - nó không thể quyết
định bó cỏ nào ngon hơn. Hãy hình dung như nhà biên kịch phải đứng giữa hàng
trăm bó cỏ - những chi tiết đắt giá trong một quãng đời dài của người nghệ sĩ -
và anh ta bị ''chết'' vì bội thực, vì bó cỏ nào anh ta cũng muốn nếm một chút.
Phương
pháp truyền thống của người sáng tạo khi đứng trước một hiện thực quá ngồn
ngộn, đó là lựa chọn “zoom out” (tạo một góc nhìn cao hơn hiện thực) hay “zoom
in” (đi thật sâu vào một vài chi tiết của hiện thực).
Cả
hai phương pháp này đều “dị ứng” với cách minh họa của tác giả kịch bản
của Em và Trịnh, dẫn đến một hiện tượng hi hữu trong lịch sử điện
ảnh Việt Nam: Nhà sản xuất cùng một lúc ra mắt hai phiên bản phim.
Do
đó phiên bản thứ 2 Trịnh Công Sơn là phiên bản 1 được dũng cảm
cắt tuột đi nhân vật dẫn chuyện thời hậu chiến và mối tình của ông với cô sinh
viên người Nhật Michiko.
Và
lạ lùng là sau khi cắt tuột hơn 40 phút phim của bản “lẩu thập cẩm”, bộ phim
lại tập trung và tốt hơn hẳn.
Đoạn phim tài liệu ghép vô
tội vạ
Có
rất nhiều lời ca thán về việc Em và Trịnh giống một MV ca nhạc
kéo dài. Thật ra, sự giống nhau đó xuất phát từ lựa chọn chung - minh họa trực
tiếp. Cho nên nếu ca từ vang lên “mưa vẫn mưa bay” thì trời phải ướt sũng và
người nhạc sĩ run rẩy sáng tác trong mưa, “đường phượng bay” thì hoa phượng
phải nở đỏ phố, “nắng thủy tinh” thì trời phải bừng sáng, “đại bác ru đêm” thì
màn ảnh phải ngập tràn tiếng nổ và đêm trong phim lúc nào cũng ngập ánh hỏa
châu.
Và
khi minh họa cho một hiện thực đã quá quen thuộc trên màn ảnh, thì việc bị ảnh
hưởng bởi những bộ phim trước đó là điều dễ hiểu.
Khán
giả khó tính sẽ phì cười khi luôn gặp hình ảnh rập khuôn đến không thể rập
khuôn hơn.
Những
đoạn phim tài liệu được lồng ghép vô tội vạ trong phim càng làm tính minh họa
của nó rõ rệt hơn, nhưng có lẽ cũng không tệ bằng áp đặt khiên cưỡng trong hành
trình trở về từ B’Lao của Trịnh Công Sơn - mọi thảm cảnh của chiến tranh nối
đuôi nhau trình diễn trước mặt Sơn qua khung cửa chuyến xe.
Nhưng
có những bó cỏ không dễ ăn như vậy, bởi nó không thuộc về hiện thực đời sống để
có thể dễ dàng minh họa.
"Remake" cảm xúc
Trịnh Công Sơn thất bại
Các
mối tình của Trịnh Công Sơn là vậy. Bởi sự thực là “thực tại Trịnh Công Sơn” là
một thực tại nhiều chiều. “Hoàng tử bé” của âm nhạc Việt Nam vốn không thuộc về
thế giới này, ông ở đó mà cũng không ở đó, luôn luôn trìu mến và cũng luôn luôn
xa cách, ông thuộc về hành tinh của ông, hành tinh ông tự tạo ra và sống thiết
tha trong hành tinh đó.
Ông
bị hút hồn không phải bởi vệt áo dài lướt qua mà là cảm xúc nó ngân mãi trong
ông, ông say đắm một Dao Ánh trong hơn 300 bức thư tình tuyệt diệu ông viết hơn
là một Dao Ánh trong đời thực, yêu thương một Mai của những cuộc điện thoại
viễn liên và thấy trẻ lại trong những câu hỏi ngây thơ của Michiko…
Tình
yêu của ông là tình yêu với cảm xúc của chính mình, và nỗi sợ hãi của ông là
nỗi sợ hãi rằng: Đến lúc những xúc cảm đó rời khỏi ông và biến mất. Nỗi sợ hãi
khi sự buồn bã trở nên bình thản, như một sự tất yếu của cảm xúc. Đó cũng là
nỗi buồn hiện sinh của thế hệ ông, và điều khiến ông được nhiều người chia sẻ.
Trong
khi cố gắng “remake” hiện thực, Em và Trịnh đã hoàn toàn thất
bại trong việc “remake” cái cảm xúc đó, cái tinh thần đó của Trịnh Công Sơn.
Một
trong những từ mà Trịnh Công Sơn yêu thích là “thiết tha” - có một sự trìu mến
đầy tính nữ trong mối quan hệ của ông với những người xung quanh.
Không
tìm thấy đâu ra sự “thiết tha” đó trong phim. Không tìm thấy đâu cái cảm giác
“mà tôi yêu quá cuộc đời này” - đạo diễn trình bày trước mắt chúng ta hình ảnh
một nhạc sĩ ngây ngây thơ thơ khi còn trẻ (“ngây ngây mà rầu, sầu sầu mà khóc”)
và một ông già mất toàn bộ sức sống, niềm vui sống khi tuổi già, không có xót
xa, chỉ có mệt mỏi.
Cảnh tệ hại nhất phim
Điểm
đặc biệt của Em và Trịnh, đó là chúng ta sẽ rất khó để quyết định
xem cảnh nào là cảnh tệ hại nhất của bộ phim - đoạn phi lộ dài dòng mở đầu phim
hay cái nháy mắt “đểu giả” của Trần Lực ở kết phim.
Nhưng
tôi sẽ bỏ phiếu cho cái kết.
Nếu
sự thừa thãi của đoạn “phi lộ” đầu phim quá rõ ràng - bữa tiệc gia đình kiểu
“cả nhà cùng ca” - có thể rất gợi nhớ không khí của gia đình nhạc sĩ, nhưng lại
đầy nhàm chán với khán giả thì cái kết phim chính xác là một “coup de grace”
cho hình tượng nhạc sĩ trong tâm tưởng khán giả - một con người vừa chao đảo đi
qua các cuộc tình tha thiết lại trở nên rất “trai lơ” bước vào một cuộc tình
mới, với nàng thơ mới.
Không
thể không nói, góp phần vào sự thất bại điện ảnh của Em và Trịnh có
phần đóng góp không nhỏ của các diễn viên.
Trần
Lực là một thất bại toàn tập. Việc loại bỏ hoàn toàn các phân cảnh có anh trong
phiên bản Trịnh Công Sơn khiến bản phim dễ chịu hơn nhiều. Cái
khô cứng của anh, cái mệt mỏi của anh, cái thái độ “trai lơ” của anh ở cuối
phim làm khán giả triệt để đánh mất cảm xúc.
Avin
Lu, như đã nói ở trên, có sự “ngây ngây thơ thơ” chứ không phải sự ngây thơ
thánh thiện của Trịnh Công Sơn. Đặc biệt ở đoạn đầu, khi nhìn thấy Bích Diễm,
cái thể hiện của anh không phải sự rung động thảng thốt của nghệ sĩ với cái
đẹp, mà là biểu cảm rất “lạ cho mặt sữa cũng ngây vì tình”.
Những
đoạn sau anh đóng tốt hơn, nhưng cũng chỉ đủ tròn vai một cách miễn cưỡng.
Trường đoạn anh đóng tốt nhất có lẽ lúc thẩm vấn với nhân viên quân cảnh, gương
mặt chìm trong tối nên sâu hơn, quyết liệt hơn.
Mọi
người dành nhiều lời khen cho Bùi Lan Hương, nhưng tôi tự hỏi: “Khánh Ly sẽ thô
bạo vậy sao, dữ dằn vậy sao?”.
Cái
thô bạo dữ dằn của Bùi Lan Hương (“Anh thó của ông Văn Cao đấy
à”, “Em có hai con rồi đấy”) là cái thô bạo dữ của ngõ chợ Khâm Thiên sau bao
cấp chứ không phải sự mạnh mẽ của cô Mai di cư từ Hà Nội vào miền Nam. Chỉ có
một điểm sáng hiếm hoi là diễn xuất tự nhiên và hồn hậu của Hoàng Hà, lọt thỏm
giữa những vai diễn vô vị khác.
Vậy chẳng lẽ không có điều
gì đáng khen ở Em và Trịnh?
Âm
nhạc của Đức Trí, và chắc chắn các tình khúc bất hủ của Trịnh Công Sơn là thứ
đã khiến cho khán giả không bị ngủ gục suốt 136 phút lê thê của một bộ phim
không thể biết đạo diễn sẽ kết thúc như thế nào.
Sự
kỹ lưỡng của bối cảnh, trang phục và hình ảnh chắc chắn là điểm cộng cho bộ
phim. Nhưng ngay cả ở đây, xử lý màu sắc và ánh sáng cũng khiến cho bộ phim
“mới” quá - màu sắc và những cảnh quay đậm chất MV khiến chúng ta không có cảm
giác được quay về với quá khứ.
Những
bối cảnh đẹp đẽ ở Đà Lạt, Huế, Sài Gòn cũng mang đầy màu sắc “remake” - phục
dựng chứ không làm chúng ta có cảm giác cũ kỹ chân thực của một bộ phim truyện
điện ảnh.
Vậy đâu là Trịnh Công Sơn
của Phan Gia Nhật Linh?
Lựa
chọn thỏa mãn nhóm khán giả tuổi teen với một Avin Lu rất “ a la Mắt biếc” (Hãy
xem sự trở lại của hình ảnh diễn viên điển trai chở cây đàn sau lưng xe đạp của
mình) hay nhóm khán giả tuổi ''sồn sồn'' với hình ảnh người hùng xế chiều Trần
Lực, hay cả hai?
Với
một kịch bản dàn trải, một đạo diễn mang nặng tính minh họa và do dự, một dàn
diễn viên mà nhân vật thiếu nhiều đất diễn vì thế rất ít đời sống nên người làm
tốt nhất cũng chỉ ở mức tròn vai, nhưng cuối cùng Em và Trịnh vẫn
sẽ thu hút được một lượng khán giả đến rạp xem phim?
Cái
may mắn của bộ phim là ở chỗ, những khán giả trung thành của Trịnh Công Sơn vốn
đã có sẵn “hành tinh Trịnh Công Sơn” trong mình và khi họ xem phim, tiềm thức
của họ không ngừng làm đầy cho hình ảnh tẻ nhạt mà họ đang xem trên màn ảnh, và
họ sống lại không phải với câu chuyện trên màn ảnh, mà là với câu chuyện về
Trịnh Công Sơn trong tiềm thức của họ.
Nhưng
lớp khán giả trẻ hơn sẽ không có được đặc ân ấy!
Không
may cho họ? Hay là may cho họ?
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Vài cảm nhận khi
xem phim BỐ GIÀ (web drama) của Trấn Thànhl
0 comments:
Đăng nhận xét