VÌ SAO NHÀ LÊ BUỘC HỌ TRẦN
PHẢI ĐỔI SANG HỌ TRÌNH?
*
Nếu 1226, Trần Thái Tông ban lệnh
kiêng húy chữ Lý để nhân tâm quên họ Lý thì 2 thế kỷ sau, nhà Lê lại làm theo y
chang cách của nhà Trần để nhân tâm khỏi nhớ họ Trần…
Như từng đề cập, nhà Trần sau khi lên ngôi
đã ép người họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn với lý do kiêng húy vì ông nội của
Thái Tông Trần Cảnh là Trần Lý. Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vì
nguyên tổ húy Lý, cho nên đổi họ Lý làm họ Nguyễn, vả lại để tuyệt lòng mong
mỏi của người dân đối với nhà Lý”.
Chữ Lý phải mãi đến khi nhà Trần mất, nhà Lê
lên thì mới được khôi phục lại cho dùng. Cụ thể là “Mùa đông (1428), tháng 10,
ngày 11, có lệnh thôi kiêng húy chữ “Nguyễn”. Theo giải thích là quy định dùng
chữ Nguyễn dùng thay thế chữ Lý theo lệnh kiêng húy của Trần Thái Tông năm 1226
đến 1428 thì chính thức bị bãi bỏ. Chỉ có điều sau 200 năm là quá dài, nhiều
người họ Lý chuyển sang họ Nguyễn cũng không cải về họ cũ.
Chữ Lý được khôi phục, không phải kiêng kỵ
nữa nhưng đến lượt chữ Trần phải chịu trả giá. Nếu 1226, Trần Thái Tông ban
lệnh kiêng húy chữ Lý để nhân tâm quên họ Lý thì 2 thế kỷ sau, nhà Lê lại làm
theo y chang cách của nhà Trần để nhân tâm khỏi nhớ họ Trần.
Sau khi giải quyết xong Trần Cảo hồi đầu năm
1428, Lê Lợi lên ngôi ở Đông Kinh vào ngày 15/4, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu
là Thuận Thiên (tức là theo ý trời) và đến ngày 20 thì đã công bố chữ húy. Đại
Việt sử ký toàn thư chép: Ngày 20, ban các chữ húy tông miếu và chữ húy tên
vua. Tất cả các chữ húy chính khi viết đều không được dùng, nếu đồng âm mà khác
chữ thì không phải húy. Húy Tông miếu có 5 chữ: Hiển Tổ Chiêu Đức Hoàng Đế húy
là Đinh, Hiển Tổ Tỷ Gia Thục Hoàng Thái Hậu húy là Quách, Tuyên Tổ Hiến Văn
Hoàng Đế húy là Khoáng, Trinh Từ Ý Văn Hoàng Thái Hậu húy là Thương, huý của
vua là Lợi, của hoàng hậu là Trần, của anh vua là Học.
Trong số 5 chữ húy này thì thật “trùng hợp”
là có chữ Trần vì cớ là húy của hoàng hậu. Nhưng nếu xét kỹ lại thì Lê Lợi vốn
không lập chính thất mà chỉ lập mấy người làm phi như Trịnh thần phi, Phạm huệ
phi và Phạm hiền phi (tức Phạm thị Ngọc Trần). Bà Ngọc Trần vốn qua đời khi Lê
Lợi còn chưa lên ngôi và trong bố cáo thiên hạ truy tôn tổ tiên trước khi lên
ngôi cũng không thấy truy tôn bà Ngọc Trần. Cụ thể: cuối tháng 3 (1428), Truy
tôn thuỵ hiệu từ khảo tỷ trở lên. Tổ khảo Đinh làm Chiêu Đức Hoàng Đế, bà là
Nguyễn Thị Quách làm Gia Thục hoàng hậu, cha là Khoáng làm Tuyên Tổ Hoàng Đế,
mẹ là Trịnh Thị Thương làm Ý Văn hoàng hậu.
Phải mãi sau này khi con của bà Ngọc Trần là
Lê Nguyên Long (tức Lê Thái Tông) lên ngôi thì bà mới được truy phong là Cung
Từ hoàng thái hậu. Vấn đề tại sao khi Lê Lợi vừa lên ngôi đã vội cho một người
vợ qua đời là Phạm hiền phi được kiêng húy trong khi không làm vậy với Trịnh
thần phi, Phạm huệ phi khiến chúng ta phải đặt câu hỏi: Phải chăng Lê Lợi học
lại chiêu của nhà Trần 200 năm trước khi kiêng húy chữ Lý?
Đến thời Lê Thánh Tông, tức là vua thứ 4 nhà
Lê (sau Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông) thì tiếp tục ban thêm một chiếu chỉ cụ
thể hơn có ý buộc người nhà Trần phải đổi họ. Năm 1465, Thánh Tông Lê Tư Thành
lên ngôi và tháng 8 năm đó, vua hạ chiếu: Đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ
húy của Cung từ hoàng thái hậu. Sử quan nhà Nguyễn giải thích trong Khâm định
việt sử thông giám cương mục: “Nhà vua lấy cớ rằng: Cung từ hoàng thái
hậu họ Phạm, tên húy là Ngọc Trần, nên yết thị cho trong kinh thành, ngoài các
đạo, phàm nơi nào có họ “Trần” đổi chép làm chữ “Trình”.
Tuy nhiên, việc đổi họ này có vẻ không làm
mạnh tay. Chính vì vậy, trong năm đó có một người họ Trần ra đời là Trần Sùng
Dĩnh. 22 năm sau, Trần Sùng Dĩnh là người đỗ trạng nguyên cũng dưới thời Lê
Thánh Tông. Nếu bảo người họ Trần đều phải đổi sang họ Trình dưới thời Lê Thánh
Tông thì sao lại còn Trần Sùng Dĩnh đỗ Trạng nguyên. Rồi sau đó, năm 1526, dưới
thời Lê Cung Hoàng lại có thêm Trạng nguyên Trần Tất Văn.
Chưa hết, cuối thời Hậu Lê còn có Trần Chân
là trụ cột triều đình. Năm 1516, sau khi dẹp yên Trần Cảo thì binh quyền trong
tay Trần Chân rất lớn đến mức dân gian còn lưu truyền câu sấm rằng: “Trần
hữu nhất nhân, vì thiên hạ quân, thỏ đầu hổ vĩ, tế thế an dân”, nghĩa là: “Họ
Trần có một người, làm vua thiên hạ, đầu thỏ đuôi hùm, giúp đời yên dân”. Cứ
thế mà suy ra thì ngay thời Hậu Lê dù có lệnh kiêng húy của Thái Tổ rồi Thánh
Tông nhưng người họ Trần vẫn rất đông và thành đạt.
Hơn nữa, chúng ta cũng không thấy dấu hiệu
nào cho thấy người họ Trần đổi sang họ Trình ồ ạt vì tỷ lệ người họ Trình
(không phải họ Trịnh) trong mặt bằng các dòng họ hiện giờ khá hiếm. Những người
Trình nổi tiếng nhất trong lịch sử nước ta thời xưa là Trình An Tể, Trình Minh
lại thuộc thời nhà Đinh, khá xa so với thời Lê.
Có thể tin rằng việc kỵ húy chữ Trần của Lê
Thái Tổ hay buộc đổi họ Trần sang Trình của Lê Thánh Tông chỉ là động tác chính
trị nhằm để “nhắc nhở” những người có ý khôi phục triều cũ rằng giờ đã là triều
đại mới. Vì là “nhắc nhở” nên không cần làm quá quyết liệt như cách nhà Trần
trong việc cải họ Lý trước đây.
Chuyện về Cung từ hoàng thái hậu Phạm thị Ngọc Trần
Phạm Thị Ngọc Trần người hương Quần Lai,
huyện Lôi Dương (huyện Thọ Xuân ngày nay), Thanh Hoá. Bà là em gái tướng quân
Phạm Vận, người sau này trở thành đại thần nhà Hậu Lê.
Ngày 20/11 năm Quý Mão (1423), năm thứ sáu
của cuộc khởi nghĩa, bà sinh ra Lê Nguyên Long. Lúc này, Lê Lợi chống chọi với
quân Minh rất kịch liệt, phải di chuyển luôn, bà theo hầu rất gian khổ.
Năm Ất Tỵ (1425), Lê Lợi vây thành Nghệ An,
khi đến thành Triều Khẩu ở Hưng Nguyên, có đền thờ thần Phổ Hộ, ông nằm mộng
thấy một vị thần đến xin một người thiếp và hứa sẽ phù hộ cho Lê Lợi đập tan
quân nhà Minh. Lê Lợi bèn đem chuyện này ra nói với các bà phi của mình, nói
rằng: “Có ai chịu làm vợ thần không ? Sau này khi ta lấy được nước sẽ
lập con người ấy làm thiên tử”. Ai cũng đắn đo, duy chỉ có bà khẳng
khái quỳ xuống nói rằng: “Nếu minh công giữ lời hứa, thì thiếp nguyện
xả thân. Ngày sau làm nên nghiệp lớn chớ phụ con của thiếp”.
Lê Lợi khen ngợi và thương xót, nói với bề
tôi, hẹn ngày dâng tế lễ. Lúc đó, Nguyên Long chỉ vừa 3 tuổi, bà đưa cho người
hầu cận nuôi nấng và đi theo dàn tế lễ, bà gieo mình chết, đó là ngày 24.3.
Khi Lê Lợi bình định được quân Minh, ông nói
với quần thần: “Bà ấy đáng làm chúa cả trăm vị thần của nước ta, không
ai dám trái”. bèn sau đó sai người ở động Nhân Trầm là Lê Cối rước
quan tài về táng ở Thanh Hóa. Đi đến xã Thịnh Mỹ thì trời tối, chưa kịp qua
sông bèn ngủ trọ ở chợ. Đến đêm mối đùn lên quanh quan tài một đống rất cao,
biến thành nấm mồ. Sứ giả thấy lạ, trở về tâu Lê Lợi, ông bèn nói: “Đó
là vị thần đã làm theo lời hẹn”, nói rồi sai bảo cứ để quan tài ở đó, xây
dựng điện Hiến Nhân để thờ, đồng thời lập miếu, đặt thần chủ ở Lam Kinh để cúng
tế
Bấy giờ, Thái Tổ Lê Lợi lại lập con trưởng
là Quận vương Lê Tư Tề làm giám quốc, lo triều chính mà quên mất Lê Nguyên
Long. Một hôm giữa trưa, Cao Hoàng nằm ngủ chợt mộng thấy Hoàng hậu oán trách
rằng: “Đức hoàng phụ công của thiếp; từ hồi mới khởi binh dẹp loạn, đã
đem thiếp cho vị thần. Nay được thiên hạ rồi mà ơn thánh chẳng được hưởng”, rồi
tan biến.
Thái Tổ hoảng hồn tỉnh dậy, lòng bồi hồi xúc
cảm, bèn lập Nguyên Long làm con đích trưởng, cho nối ngôi. Bấy giờ, Quận vương
tuy làm giám quốc nhưng bị người chống đối hãm hại, nói rằng quận vương mắc
bệnh điên, lại dựng nhiều chuyện làm trái ý hoàng đế. Thái Tổ buồn bực không
thôi, nên có ý phế truất mà còn do dự, nay Hoàng hậu về báo mộng, nên mới có
lệnh ấy
Năm 1433, Thái Tổ băng hà, Lê Nguyên Long
lên ngôi, tức Thái Tông hoàng đế. Lòng bồi hồi nhớ về người mẹ quá cố, nên Thái
Tông truy phong làm Cung Từ Quốc thái mẫu
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời thư giãn với nhạc phẩm ĐẤT NƯỚC LỜI RU
của Văn Thành Nho, qua tiếng hát Nghệ sĩ Nhân dân Thu Hiền:
Trần Hải Sơn giới thiệu
Tác giả: Anh Tú - Nguồn: một
thế giới
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn:
internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét