NGÀY PHẬT ĐẢN NHÌN VÀO HÌNH ẢNH PHẬT
VÀ CÁC THỂ TƯỚNG CON NGƯỜI
Vùng đất mang tên Jambudvipa, ngày nay được biết
đến là bắc Ấn Độ, 2551 năm trước, là nơi tập hợp của nhiều vương quốc lớn nhỏ.
Một trong những vương quốc đó là Kapilavastu, nằm dưới chân núi Himalayas
(Tuyết Sơn), bắc ngạn của dòng sông Tapti. Cai trị quốc vương này là vua
Suddhodana, thuộc dòng họ Sakya (Thích Ca). Họ này có tên chung là Gautama.
Hoàng hậu là Maha Maya (Vô Minh Lớn).
Một hôm, hoàng hậu Maya nằm mộng thấy một con voi
trắng to lớn (thân tứ đại) đến bên mình và chĩa vòi ngà trắng vào bụng bà. Hoàng
hậu Maya mang thai từ đó. Khi gần đến ngày sinh nở, Hoàng hậu yêu cầu được đi
đến thành phố Devadaha.
Đi được nửa đoạn đường, ngang qua công viên
Lumbini (Lâm Tỳ Ni), Hoàng hậu trông thấy một bông hoa trắng nở ra từ một cành
cây cổ thụ lớn trong vườn. Người dân địa phương cho Bà biết rằng cánh hoa mới
nở hôm đó - và là lần nở hoa duy nhất sau cả ngàn năm cây cổ thụ đã tồn tại ở
công viên này.
Ngày ấy là Rằm tháng Tư âm lịch, giữa mùa hè nóng
ẩm của xứ nhiệt đới. Hoàng Hậu Maya vươn tay trái ra đụng vào cành hoa. Từ
trong nách trái, vào giây phút cánh tay Bà đụng đến cánh hoa, Phật Thích Ca đản
sinh. Ngài nhảy xuống đất, bước đi bảy bước. Mỗi bước chân Ngài đặt xuống có
một đoá sen hồng nở lên đón chân Ngài. Đến bước thứ Bảy, Ngài dừng lại, tay
phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất bằng ngón tay trỏ, tuyên bố,
"Thiên thượng địa hạ, duy Ngã độc tôn."
THÔNG ĐIỆP ẨN DỤ
Nếu ai đã đọc kinh Cựu Ước, chương Sáng Thế, thì
biết rằng ở đó câu chuyện cũng gần như vậy. Vào ngày thứ bảy, Thượng để ngừng
sáng thế và hoàn tất tác phẩm của Ngài. Khởi đi từ số Một, sáng tạo bằng số Ba
và tồn tại với số Bảy. Nhưng ở thời đại bây giờ, không còn mấy ai hiểu ý nghĩa
huyền nhiệm trong huyền thoại đản sinh của Phật Thích Ca.
Đây là một chuyện kể về sinh mệnh con người trên
bình diện siêu hình. Nó ẩn dụ rằng tất cả nhân loại đều là con cháu từ một bà
mẹ duy nhất - "Vô Minh Lớn." Phật Thích Ca, với bảy bước của Ngài khi
chào đời, hiện thân cho sự vượt thắng Vô minh để trở về cái chân Ngã nguyên
thuỷ. Kẻ vượt thắng Vô minh là bậc Đại giác (Buddha). Phật Thích Ca Mâu Ni là
hiện thân cho khả thể chuyển hoá của cá nhân từ Vô minh đến Tỉnh thức.
Ngài là một con người lịch sử mang gánh nặng biểu
dấu về nguồn gốc và cứu cánh hiện hữu. Nếu không ý thức được chủ đích cho cuộc
đời, vốn là hiện thân của duyên nghiệp trong một chuỗi dài vô hạn từ Vô minh
(Samsara), thì cá nhân sẽ mãi mãi lạc loài và chìm đắm trong vòng quay bất tận
của Luân hồi, mà bản chất chỉ là Khổ Đau (Duhkha).
Đản sinh của Thích Ca Mâu Ni không đặt biện minh
bằng một bản thể luận từ phía Trên vốn mang tính tuyệt đối, mà là một lý giải
thực nghiệm ở phía Dưới, đến từ trong bằng chứng của bối cảnh nhân sinh. Ở đây,
không có mặc khải, không có ân huệ cứu độ từ một bình diện linh thiêng bên
ngoài cá nhân muốn tỉnh thức. "Nirvana" (Niết Bàn) không phải là một
đối thể cho tư duy, ý niệm hay ngôn ngữ. "Nó" là sự
"không-còn-nữa" trong liên hệ đến cái Ta nhỏ bé và vòng Luân Hồi
nghiệt ngã.
SO VỚI CÁC TÔN GIÁO GỐC ABRAHAM
So sánh với Ấn giáo hay các tôn giáo của truyền
thống Abraham gốc Do thái (Judaism, Christianity và Islam), đạo Phật là con
đường ngược chiều. Hãy nghĩ đến người đang leo vách núi hiện hữu để lên được
đỉnh cao giải thoát, hay Thượng đế.
Các đạo của Ấn giáo hay Do thái cống hiến cho tín
đồ một chiếc dây ân huệ từ cao. Bạn hãy nắm lấy bằng đức tin để được cứu. Còn
Phật giáo là tiếng chuông tỉnh thức, bằng kỷ luật cá nhân, thúc dục hắn bám
chặt lấy vách núi, tận dụng hết sức lực của mình để leo lên. Cứu rỗi là giải
thoát. Và nó chỉ có thể đến từ chính mình - vì bạn không ai khác mà là một khả
thể tỉnh thức, một vị Phật sẽ thành. Động từ "thành Phật" trở thành
mệnh lệnh hiện sinh - đồng thời là nền tảng bản thể, khác với truyền thống Ấn
giáo và Abrahamic vốn căn cứ trên một đối tượng nhân thể, a Being, tức là Chúa
Trời.
Người tu Phật, ở mỗi nấc leo hiểm nghèo, đức tin
của họ được minh chứng bằng trực nghiệm thân xác và tâm thức đã vượt qua. Không
ai khác có thể uống cho con khát của mình. Cây lúa trổ bông và đơm hạt bằng
chính nó. Tôn giáo, đạo học, và ngay cả đức Phật lúc còn tại thế cũng đã nhấn
mạnh đến tính ngụ ngôn rằng, "Ta có thể dắt con lừa đến dòng suối, nhưng
chính con lừa phải uống nước cho nó." Khi lên được đỉnh núi giải thoát, cá
nhân sẽ thấy giá trị cuộc đời nằm trong năng ý vật lộn với khổ đau trong tỉnh
thức.
Câu chuyện Đản sinh còn nhắc nhở thêm lý do và
hoàn cảnh cho sự ra đời của Phật. Ngài sinh ra thế gian giữa mùa hè cháy lửa ái
dục, vô minh của một Á châu nheo nhóc; Chúa Jesus giáng sinh giữa đêm đông sa
mạc Trung Đông lạnh giá trống vắng đời sống tinh thần. Cả hai Bậc đã hiện thân
để hoàn tất cơ trình Tạo hoá.
Khi bước chân vào đời, Thích Ca Mâu Ni không
"từ chính mình mang vào hữu thể (being) bằng hình ảnh biểu hiện qua cảm
giác của chúng ta; mà khác hơn, Ngài hiện thân tất cả sự thể của vũ trụ cho
chúng ta qua những hình ảnh đó."
Tôi diễn ý của Hermes M. Trismegistus, một huyền
nhân Ai Cập, trích bởi Coomaraswamy trong The Door in the Sky, 1977. Theo
Coomaraswamy, dẫn từ một văn bản Hoa ngữ:
"Khi ta cảm nghiệm được những thể tướng
tuyệt vời và tính chất diệu vợi của đức Phật thì ta sẽ thấy như chính Ngài hiện
ra cho ta một tính thể huyền nhiệm siêu thoát. Núi Hy Mã tuyết trắng phủ, các
chư thần xuất hiện trong các tầng mây; hoa bay ngập cả khung trời; nhạc thinh
không rung tiếng. Khi ta thấy được vẻ huy hoàng của ngôi Lời (Body of the Word)
trong Chuyển Pháp Luân, ta tránh được tám đường lạc lối. Khi nghe được lời Ngài
qua kinh từ bậc Đại Trí, ta đến được thiên đường thứ Bảy." Thích Ca Mâu Ni
là một nhân thể mang sử tính biểu trưng cho những bản ngã đang bị vướng vào
võng lưới hiện thân - của cái hiện tượng trùng trùng mà ta gọi là "con
người."
Cái Ta này, do đó, là một hình ảnh, một chiếc
bóng, một phương tiện cho cái không- còn-là-Ta. "Hễ kẻ nào thấy Pháp thì
sẽ thấy Ta" (Yo kho Dhammam passati mam passati). Lạ thay, thánh Thomas
Aquinas cũng đã nói, "He who sees the Word sees Me" (Ai thấy được Lời
sẽ thấy Ta) khi ông giảng về ngôn từ của Tân Ước. Khi ta thấy được Lời, tức là
trực nhận được ý niệm giải thoát qua con mắt trí tuệ, thì ta sẽ vượt qua ảnh
tượng cái Ta. Lúc đó, lẽ huyền bí và nhiệm màu của Ta sẽ hiện ra đẹp tuyệt vời.
Giá trị và cảm nhận mỹ thuật, vì vậy, không nằm trong hình ảnh được trình bày -
mà là một gợi ý, một tỉnh thức về một cái đẹp cao hơn. Và cái đẹp cao khác
không thể là thực nếu nó không được hiện thân qua hình ảnh của cái đẹp giác
quan.
Tuy nhiên, hãy cẩn thận ở đây: Không có một tính
liên hệ nhân quả nối liền thẩm mỹ chân thực với nghệ thuật biểu dấu. Cũng như
thế cho ngôi Lời của đạo Pháp. Không có một chân lý nằm đằng sau ngôn từ. Ngôn
ngữ kinh sách tự chúng là chánh Pháp - không về ý nghĩa liên đới, cũng không vì
nhân quả, hoặc là sự vận hành của văn phạm hay logic - mà mỗi lời kinh là một
tiếng chuông cho năng lực tỉnh thức. Bởi vậy, nhà Phật có truyền thống tụng
kinh rất dài, tức là đọc to những câu chuyện về đức Phật, với những câu vấn đáp
với các đệ tử, để từ trong ngôn từ, giữa âm vọng lễ nghi, người đọc kinh thấy
được cái Ta hiện ra. Hạnh phúc thay cho những ai biết đọc kinh vì kẻ đó sẽ nhìn
thấy được chính mình.
Ý NGHĨA CÁC VỊ PHẬT
Trong lịch sử Phật giáo, và trong ý nghĩa của đạo
Phật, chỉ có Thích Ca Mâu Ni là vị Phật hiện thân. Nhưng phải chờ đến năm trăm
năm sau Phật qua đời, tức là cho đến đầu thế kỷ thứ nhất của Tây lịch, thì Phật
Thích ca mới được trình bày qua nhân dạng con người. Cũng theo Coomaraswamy thì
cho đến thời đó, các tôn giáo Ấn Độ mới bắt đầu sử dụng thánh tượng nhân thể
(anthropomorphic iconography).
Trước đó, muốn trình bày một hình ảnh về đức
Phật, các hoạ sĩ chỉ vẽ lên những dấu chân, hay là cây Bồ đề, hoặc là vòng bánh
xe chuyển Pháp. Phật Thích Ca là tổng hợp của tất cả những khả năng tĩnh thức
mà trong đó bao gồm Phật của tiếng gọi (âm) tình yêu, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí
của ý lực tỉnh tấn, A Di Đà của ánh sáng trị kiến. Còn bao nhiêu vị Phật khác, từ
Phật y tế (Dược sư), Phật hỉ xả (Di lặc), Phật địa lý/nơi chốn (Địa tạng).
Sau khi Phật Thích Ca được trình bày qua hình ảnh
con người thì các vị Phật khác cũng dần dần xuất hiện qua hình ảnh và nhân dạng
khác nhau. Nói khác đi, các vị Phật trong truyền thống Phật giáo là của một
nghệ thuật biểu trưng cho cái đẹp thể tướng - khi mà con người thấy và hiện
thực hoá được khả thể linh thiêng, tức là giải thoát, của chính mình bằng những
hình tượng nhân thể khác nhau.
Mỗi lần một hình ảnh của một vị Phật được biểu
trưng là mỗi lần từng vị Phật tương ứng đản sinh. Từ trong từng hạt bụi, cành
hoa, thớ thịt của muôn loài, trong mỗi ý tưởng của cá nhân, mỗi sát na chuyển
hoá là một thời khắc mà Phật tính ra đời, nâng độ tiến hoá chung cho tạo hoá ra
khỏi mùa hè giữa biển lửa khổ đau luân hồi.
VÒNG NHÂN QUẢ LUÂN HỒI VÀ NAN ĐỀ VÔ NGÃ
Mỗi đản sinh là một nấc chuyển tiếp từ nhân sang
quả mà trong đó thể tướng của quả đã được quyết định từ bản tính của nhân.
Nhưng khi được sinh ra là lúc cái nhẫn được tiêu thụ, đã được giải hoá khỏi
tiềm năng nội tại - đồng thời cái quả đã bị rơi vào vòng hữu hạn để phải chấm
dứt bằng cái chết.
Cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni cũng phải trải qua
những khó khăn trong vòng sinh tử với thân người. Huống chi như chúng ta, sự
sinh ra làm người là một hiện tượng nghiệp thân đã ghi chép sẵn từ muôn kiếp.
Mỗi cá thể tự trong nó dung chứa cả nhân lẫn quả.
Ngươi là nguyên nhân và cũng là hậu quả cho chính ngươi. Nói như thế, bỏ qua âm
hưởng bị ai, không có nghĩa là con người không thể thoát khỏi hiện tượng làm
người chính hắn. Làm sao mà một hư tưởng, cái gọi là tự-ngã cá nhân, lại có thể
giải phóng được chính mình ra khỏi sinh tử luân hồi?
Điều khó khăn trong bản thể luận của Phật giáo là
ở điểm này.
Đâu là nền tảng cho cái hư tưởng về ta? Nếu câu
trả lời là vô minh, thì giác ngộ chính là bản thể cho tự-ngã. Trong hình ảnh
phác hoạ bởi Hermes M. Trismegistus, và sau đó bởi Jacob Boehme, một triết gia
Đức ở đầu thế kỷ 17, thì hư tưởng này tương tự như một người đứng soi gương để
thấy bóng mình trong đó. Ảnh tượng về mình chỉ là sự phản chiếu, và nó được duy
trì bởi ý thức và sự thấy của người soi gương.
Hình ảnh trong gương soi không có thực tính,
nhưng nó hiện hữu. Vấn đề bắt đầu khi cá nhân soi say đắm với bóng mình trong
gương. Từ ái dục với bóng hình, Tánh Giác (Intelligence) đánh mất chính Nó vào
trong ảnh tượng, và ban cho ảnh tượng một thực tính, một hãnh tiến tự túc, độc
lập với người soi gương. Chiếc bóng trong gương đó là hiện tượng "con
người" - nó là ảnh tượng, "image", của Thượng Đế, như trong Cựu
Ước đã nói.
Nếu ta thay Chân Tâm cho Thượng Đế thì bản thể
luận Phật giáo đã có câu trả lời. Khởi đi từ ái dục, hiện tượng "con
người" là một ảo tưởng tự túc mà bản chất của nó là số không. Khi ảo tưởng
này không còn, thì tự tánh chân Tâm được sáng tỏ, và tự ngã cá nhân sẽ không về
đâu cả. Do đó, "linh hồn" là một ý niệm sai lầm cơ bản của các tôn
giáo, và thiên đường hay địa ngục cũng chỉ là những con áo ngộp cám dỗ hay đe
doạ cho vọng tưởng về cái Ta này mà thôi.
QUÝ HIẾM THAY ĐƯỢC LÀM NGƯỜI
Hai mươi lăm thế kỷ trước, đức Phật ra đời. Ngài
hoá thân mình vào trong hiện tượng con người, trong cõi ảnh tượng của hư tưởng
để nhắc nhở chúng sinh bước ra khỏi màn vô minh bao trùm đầy bóng tối và mê
vọng của trần thế. Những chúng sanh đi theo bước chân Ngài, "trông thấy
Đạo huy hoàng" đã đem ánh sáng đến cho bao "sinh linh vô số điêu tàn,
sống u hoài trong kiếp lầm than." (Kinh Khánh Đản). Ngài nói, "Ta đến
không đem gì mới, không sáng tạo chủ thuyết, mà chỉ hoàn tất ngôi Lời của đạo
Pháp. Ta đã thấy, đã hiểu những con đường đi qua bởi thánh nhân, những người đã
tỉnh thức. Đó là con đường mà ta cũng sẽ đi theo."
Trên bình diện biểu tượng và huyền thoại, Phật
Thích Ca hoàn tất quy trình của đạo Pháp trong sự dấn thân của Ngài vào và hoàn
tất vòng sinh tử trong cơ sự làm người. Từ đó, đạo Phật không thể là một hệ
thống tín điều đã toàn mãn; nó mãi mãi vẫn là sự bắt đầu.
Mừng Phật đản 2567 năm nay, tôi xin nhắc lại câu
kinh: "Hiếm thay ta được làm người. Lành thay, đức Phật ra đời."
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
TÊN THẦY CHÙA PHẢN QUỐC THÍCH CHÂN QUANG:
*.
Định cư tại: thành phố San Jose,
Tiểu bang California, Hoa
Kỳ.
Email: liemesq@yahoo.com
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email nguyenhung967812@gmail.com ngày 04.06.2023.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
bài viết rất hay
Trả lờiXóa