LỊCH SỬ VIỆT NAM
*
Tôi luôn suy nghĩ về
một số chủ đề mà tôi đã viết trước đây trên blog này: việc thúc đẩy quá trình
hội nhập của Việt Nam vào thế giới toàn cầu về học thuật; tình trạng thiếu vắng
các cam kết với học thuật lịch sử và / hoặc lý thuyết từ bên ngoài Việt Nam về
phía các sử gia tại Việt Nam trong vài thập kỷ qua; và học thuật lịch sử của
các học giả miền Nam Việt Nam - Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Phương và Lương Kim
Định.
Trong nửa sau thế kỷ XX
có bốn học giả [dù tác giả Le Minh Khai không ghi tên, nhưng ai cũng biết đó là
các Giáo sư Đinh Xuân Lâm - Phan Huy Lê - Hà Văn Tấn - Trần Quốc Vượng, gọi tắt
là Lâm Lê Tấn Vượng] được tập thể tin là đã kiến lập lĩnh vực nghiên cứu lịch
sử ở Việt Nam, vì vậy mà họ được gọi là “tứ trụ” của học thuật lịch sử. Bốn con
người ấy đều khởi nghiệp học thuật ở Bắc Việt Nam, và sau đó vẫn tiếp tục sự
nghiệp của mình sau khi Bắc Nam thống nhất.
Trong khi các thành tựu
của họ thực sự xứng đáng với lời khen ngợi, thì càng đọc các tác phẩm của các
nhà sử học khác thời Việt Nam còn bị chia cắt, tôi càng nhận ra rằng còn có
những sử gia khác, cũng xứng đáng được ngợi ca.
Trong thực tế, ngoài
“tứ trụ” hiện thời, tôi có thể nghĩ ra thêm ít nhất một tứ trụ nữa: Tạ Chí Đại
Trường, Nguyễn Phương, Lương Kim Định, Đào Duy Anh. Ba người đầu tiên đã từng
sống và làm việc tại Nam Việt Nam, còn Đào Duy Anh thì sống và làm việc ở miền
Bắc.
Tứ trụ này đã không làm
việc cùng nhau, và theo tôi được biết, vài người trong số đó chắc chắn không
phải là bạn bè của nhau. Tuy nhiên khi tôi đọc các công trình của họ, tôi không
thể không băn khoăn tự hỏi tình trạng học thuật lịch sử, đặc biệt là học thuật
lịch sử sớm liệu có như ngày hôm nay nếu bộ tứ này đặt được nền móng cho thế hệ
các sử gia tương lai.
Khi chế độ cai trị thực
dân ở Việt Nam dần dần đi vào hồi kết trong những năm sau Thế chiến II, các nhà
sử học trên cả nước bắt tay vào nhiệm vụ viết một lịch sử mới cho dân tộc. Khi
thực hiện công việc đó, họ đã có hơn một nửa thế kỷ học thuật được tạo ra trong
thời kỳ thuộc địa để có thể tạo dựng bộ lịch sử mới trên cơ sở đó. Tuy nhiên,
không phải tất cả đã làm như vậy.
Nói chung, các học giả
ở miền Bắc đã quay lưng lại với nền học thuật của thời kỳ thuộc địa và tìm
nguồn cảm hứng trong các mô hình lịch sử của chủ nghĩa Mác mà họ chấp nhận từ
Trung Quốc và Liên Xô. Do đó họ đã cố gắng luận đoán thời điểm Việt Nam trở
thành một quốc gia theo định nghĩa dân tộc của Stalin, và họ đã tìm cách xác
định thời điểm tồn tại một xã hội nô lệ ở Việt Nam, một giai đoạn mà môn chép
sử Maxist đã mặc định cho tất cả các xã hội đã qua.
Tuy nhiên, những thí
nghiệm này đã chết yểu, và vào những năm 1960 cuộc đính hôn với lý thuyết này
đã bị bỏ rơi.
Còn về phần tứ trụ khác
của lịch sử Việt Nam, họ vẫn tiếp tục cam kết với học thuật từ thời kỳ thuộc
địa. Thật vậy, sự nghiệp của Đào Duy Anh với tư cách một học giả bắt đầu vào
cuối những năm 1930, do đó về phương diện lý thuyết có thể coi ông là một học
giả thời thuộc địa, nhưng các công trình của ông trong những năm 1940 và 1950
đã đưa ông đi theo những hướng mới, đặc biệt là khi ông tìm cách “đọc qua” các
nguồn sử liệu sớm để phát hiện ra các biểu tượng của ý nghĩa mà các học giả
trước đó đã không xem xét. Hơn nữa, Đào Duy Anh đã có thể tiếp tục với những ý
tưởng mà ông đã thực hiện vì ông có thể đọc không chỉ các nguồn sử liệu bằng chữ
Hán, mà ông còn đọc được các ý tưởng về nhiều chủ đề khác nhau của các học giả
bên ngoài Việt Nam viết bằng tiếng Pháp.
Tạ Chí Đại Trường,
Nguyễn Phương và Lương Kim Định, tất cả đều là các học giả tại Nam Việt Nam, và
tác phẩm của họ, tương tự như vậy, được xây dựng trên các nghiên cứu trước đây
của các học giả thời thuộc địa. Tuy nhiên, tất cả các ý tưởng của họ đều là
nguyên bản.
Trong một số ý tưởng
gần đây của tôi, Lương Kim Định là một học giả cam kết nhiều nhất về lý thuyết
với nền học thuật phương Tây. Ông thiếu sức mạnh của Tạ Chí Đại Trường trong
việc đọc một cách chính xác và có phê phán các nguồn tư liệu gốc, nhưng ông lại
truyền đạt ở một cấp độ rộng lớn hơn, khiến cho các công trình của ông dễ hiểu
hơn đối với độc giả quốc tế.
Các tác phẩm của Nguyễn
Phương về lịch sử sớm Việt Nam được công bố trong những năm 1960 là những công
trình cấp tiến nhất trong đó ông đi đến kết luận rằng về cơ bản cho đến thế kỷ
thứ mười vẫn chưa có Việt Nam. Và trong khi ông gán cho sự xuất hiện của Việt
Nam với cuộc di cư dần dần về phương nam của các tộc người từ Trung Quốc, thì
trong vài thập kỷ qua các tác phẩm của Tạ Chí Đại Trường lại đề cập đến việc
sáng tạo ra những tích truyện về giai đoạn sớm của Việt Nam vào khoảng thế kỷ
thứ mười bốn, đã chứng tỏ rằng Việt Nam non trẻ như Nguyễn Phương đã lập luận
trong những năm 1960. Chỉ có điều là sự hình thành của Việt Nam không dựa trên
di cư, như Nguyễn Phương tin tưởng, mà dựa trên các phát triển văn hóa và xã
hội.
Kết luận của Tạ Chí Đại
Trường về sự hình thành dân tộc trong tấm gương lịch sử Việt Nam, là cái mà các
học giả phương Tây bắt đầu nói về nhiều xã hội trong những năm 1980 và 1990 với
tư cách là các chủ đề như bản sắc dân tộc và sự hình thành các dân tộc đã trở
thành phổ biến. Trong khi đó, trước thuật của Lương Kim Định cam kết sâu sắc
với một tuyến lý thuyết học thuật rộng dài ở châu Âu, kể từ các lĩnh vực xã hội
học, nhân chủng học, ngôn ngữ học đến Trung Quốc học.
Trước thuật của Đào Duy
Anh là sản phẩm của một thời đại trước đó, và ít lý thuyết, nhưng nó lại dễ
dàng đứng cùng các trước thuật hàng đầu tại thời điểm đó, vượt khỏi những khu
vực như Hồng Kông và Đài Loan, nơi mà các học giả cũng đã khai thác các nguồn
tư liệu gốc theo cách tương tự. Và cuối cùng Nguyễn Phương đã phát triển một
cách duy lý các trước thuật hiện có để đi đến các kết luận logic (tại thời điểm
đó).
Trong khi bốn học giả
này đều rất khác nhau, thì lại có một điều đã thống nhất họ với nhau, đó là tất
cả đều cam kết với các ý tưởng hiện có và sau đó đã đưa ra những ý tưởng mới về
quá khứ. Quá khứ, trong học thuật của họ, “đang sống”, vì họ đem quá khứ đến
cho độc giả của họ theo những cách mới và khiến cho độc giả của họ suy nghĩ về
quá khứ từ những viễn cảnh khác nhau.
Một cách thành thật, có
vô số “thế giới” học thuật trong thế giới ngày nay. Mục đích của học thuật ở
khắp mọi nơi không hề giống nhau. Tuy nhiên, trong một số thế giới học thuật,
mục tiêu là tìm ra những cách thức mới để suy nghĩ về một chủ đề sao cho chúng
ta có thể hiểu được nó tốt hơn, và khi làm như vậy, sự cam kết với lý thuyết và
nền học thuật hiện có từ khắp nơi trên thế giới là có tính chuẩn mực.
Đó chính là cái thế
giới mà nền học thuật của Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Phương, Lương Kim Định và
Đào Duy Anh tích hợp vào. Trong thế giới đó, chắc chắn họ cũng có thể được coi
là “Tứ trụ”.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm
của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc
bài thơ HỒN QUÊ:
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến
đọc bài thơ QUÊ TÔI:
Ngô
Thanh Tuấn giới thiệu
Tác giả: Lê Minh
Khai - nguồn: VietLuan
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét