NGUYỄN NGỌC SAN - MIỀN LỤC BÁT SÔNG BẦU - Tác giả: Đặng Văn Sinh (Hải Dương)

Leave a Comment

 


NGUYỄN NGỌC SAN -

MIỀN LỤC BÁT SÔNG BẦU

*

(Tác giả Đặng Văn Sinh)

Chẳng biết tự bao giờ, giới văn chương xem lục bát như hồn vía dân tộc, bởi đó là sản phẩm tinh thần của cộng đồng cư dân thuộc nền văn minh Sông Hồng từ cả ngàn năm trước. Nói cách khác, thể loại thơ trên sáu dưới tám âm tiết này hình thành từ đặc trưng ngôn ngữ bản địa, là một thành tố trong cấu trúc văn hóa phản ánh trạng thái tâm lý, tư tưởng, tình cảm của người Việt. Lục bát đã tạo nên cả một kho tàng ca dao tục ngữ phong phú chẳng kém gì Kinh Thi của người Hán thời tiền sử. Từ những trầm tích phi vật thể ấy, qua mỗi thế hệ, lớp phủ văn hóa lại dày thêm, cuối cùng hình thành hẳn một dòng văn học thành văn phát triển và hoàn thiện trên nền tảng lục bát mà đỉnh cao là “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du.

Như vậy, lục bát được xem như tấm căn cước công dân ở một vùng địa văn hóa hội đủ các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa khiến cho tính cách người Việt phân biệt hẳn với các dân tộc khác trong khu vực Đông Nam Á. Về hiện tượng này, cách đây năm trăm năm, Ức Trai tiên sinh đã từng khẳng định: “Duy, ngã Đại Việt chi quốc/ thực vi văn hiến chi bang/ sơn xuyên chi phong vực ký thù/ Nam Bắc chi phong tục diệc dị”(1). Với tư cách loại hình văn học độc nhất vô nhị, lục bát còn là chiếc cầu nối trong quan hệ bang giao quốc tế. Không phải ngẫu nhiên mà, mỗi lần viếng thăm Việt Nam, hay nguyên thủ Việt Nam thăm Hoa Kỳ, các tổng thống Mỹ đều có nhã ý vận Kiều trong diễn văn của mình. Bill Clinton mở đầu sự kiện bình thường hóa quan hệ bằng câu: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”. Còn năm 2015, phó tổng thống Joseph Biden tìm được hai câu 3121 và 3122 rất phù hợp với hoàn cảnh: “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”. Đến Barack Obama khi mà mối quan hệ giữa hai quốc gia đã khá nồng ấm thì: “Rằng trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi”.

Không còn nghi ngờ gì nữa, lục bát có sức sống trường cửu bởi đó là quốc hồn quốc túy, lại có khả năng tạo ra hệ miễn dịch đủ sức cạnh tranh với các thể loại khác nếu ta biết biết tự làm mới nó mà vẫn bảo lưu hình thức biểu đạt của hệ hình thẩm mỹ cũ. Vấn đề cần bàn là ở chỗ, lục bát dễ làm nhưng khó hay, từ thơ đến vè chỉ cách nhau trong gang tấc. Vì thế, kiếm được tập lục bát đúng nghĩa không dễ. Thật đáng trách, ngoài những tên tuổi mà tôi từng đọc như Phạm Xuân Trường, Nguyễn Lâm Cẩn, Maria Hoàn Nguyễn, Nguyễn Tân Quảng, Lê Thị Kim Thu, Đồng Thị Chúc…, giờ mới chợt nhớ ra, mình đã quên đi một Nguyễn Ngọc San từng có những vần lục bát để đời “Sông Bầu tầm tã”, “Mẹ”, “Khóc người”, “Nhớ đò” và nhất là “Cổ Thành Quảng Trị”…

Khác với Nguyễn Lâm Cẩn, Nguyễn Tân Quảng hay Phạm Xuân Trường, không gian lục bát Nguyễn Ngọc San gần như một thế giới khép kín. Ở đó, tứ thơ luôn song hành với chủ thể trữ tình. Cặp đôi này lúc tách ra lúc lại đồng nhất với nhau hình thành loại diễn ngôn kiến tạo thế giới hình tượng có khả năng bao quát cả vần điệu, nhịp điệu và các biện pháp tu từ. Lục bát Nguyễn Ngọc San không chỉ mạnh ở tứ còn hấp dẫn người đọc ở năng lực sử dụng từ ngữ và cấu trúc nhịp điệu. Cũng như Đồng Thị Chúc hay Lê Thị Kim Thu, nhịp điệu của Nguyễn Ngọc San là nhịp tâm hồn, loại nhịp không bao giờ ổn định mà luôn trong tình trạng lúc thăng lúc trầm phụ thuộc vào ẩn ức tâm lý. Từ trạng thái ẩn ức tâm lý, không hiếm trường hợp, bản thể vô thức hoặc tiềm thức bất chợt lóe lên những ý tưởng độc đáo ngoài ý muốn. “Cỏ xanh”, “Cổ Thành Quảng Trị”, “Tôi đi” là những bài rất đáng đọc thuộc phong cách này. Chỉ với hai cặp lục bát trong bài “Cỏ xanh” viếng hương hồn nhà văn Lê Ngung, chúng ta không khó nhận ra tầm tư tưởng và ngôn ngữ nghệ thuật của người viết: “Những gì tưởng vững như thành/ Rồi như mây khói tan tành tro than/ Cõi người hợp hợp tan tan/ Nỗi đời đen bạc biết làm sao đây”. Tự sự mà lại trữ tình, với lớp từ nhẹ bẫng như không mà tiềm tàng sức nặng kiếp phù sinh. Thế mới biết lục bát luôn hàm chứa năng lực thẩm mỹ vô tận, vấn đề còn lại là làm thế nào để nó hiển thị mà thôi.

Về mặt nội dung, lục bát Nguyễn Ngọc San luôn đi đến tận cùng nỗi khổ đau của kiếp người bởi ông chính là chứng nhân của hoàn cảnh, từng nếm trải sự bạo hành cả tinh thần lẫn thể xác đến mức phải cay đắng thốt lên những lời ai oán: “Mẹ đi bước nữa về đâu/ Cơn mưa đổ dọc sông Bầu mưa rơi/ Cho tôi sang với đò ơi/ Cầu cha tôi bắc nước trôi hôm nào”.

Tư duy lục bát của Nguyễn Ngọc San là tư duy trực cảm. Thơ ông thiên về ý nhiều hơn về lời cho nên mỗi bài đều có giới hạn câu chữ mà hàm lượng thông tin nghệ thuật lại phong phú. Sở dĩ như vậy là bởi, ông có điểm nhìn nghệ thuật khác người, từ đó thiết kế riêng một khung văn bản phù hợp với cái tạng của mình. Cũng vì thế, trong mọi diễn ngôn lục bát, tác giả không lên giọng dạy đời, không đao to búa lớn, nghĩa là tránh cái vĩ mô mà miêu tả cái tế vi từ chiều sâu bản thể, nhưng chính cái thế giới vi mô ấy lại phản ánh quy luật sinh tồn vũ trụ. “Cổ Thành Quảng Trị” chính là minh chứng cho bút pháp của ông. Chỉ với bốn cặp lục bát nhưng từ lâu đã nó đã trở thành bài thơ nổi tiếng của một người lính nhìn nhận cuộc chiến huynh đệ tương tàn sau khi đã có độ lùi một phần tư thế kỷ. Nhìn tổng thể, “Cổ Thành Quảng Trị” chẳng khác gì bài ca dao với giọng điệu hết sức bình thản giống người ngoài cuộc nhìn cuộc chiến bằng con mắt “khách quan” qua lớp từ trung tính. Nhưng phía sau nó là thái độ khác hẳn về thời cuộc như một cách đối thoại với lịch sử trong sự tương quan giữa lương tâm, trách nhiệm, danh dự. Cán cân quyền lực nghiêng lệch vô hình trung tạo nên bi kịch thời đại, nó thủ tiêu các giá trị nhân văn và cái còn lại chỉ là một đống phế tích:

Cổ Thành nào thấy thành đâu

Một vuông đất hẹp vùi sâu vạn người

Bát hương cháy đỏ giữa giời

Khôn thiêng một nén cho nguôi ngoai lòng

Cổ Thành máu chảy thành sông

Xương gom thành núi thành không còn gì

Bên ni, ừ cả bên tê

Thành hoang gạch vụn gửi về mai sau”.

Đọc Nguyễn Ngọc San, người ta còn thức nhận một điều, ở thơ ông, tư tưởng chủ đạo không ít bài bắt nguồn từ cảm hứng hoài cổ. Những dòng hồi ức về quá khứ đắng cay có khi lại là một chiều kích đáng kể để hồn thơ cất cánh. Đặc điểm này được thể hiện khá rõ ở bài “Đồng môn” về hiện tượng phân hóa giàu nghèo sau mấy chục năm xã hội vận hành theo học thuyết không tưởng bất chấp quy luật khách quan:

Đứa thì thừa thãi vàng mười

Nhà cao xe đẹp mặt người phấn son

Đứa giờ nằm ở Trường Sơn

Thịt xương bón đất mỏi mòn vong linh”.

Cũng bởi cấu trúc nhịp điệu Nguyễn Ngọc San là cấu trúc hướng nội hình thành một dạng lục bát tâm trạng nên cả ý và lời đều thoát khỏi kiểu diễn dịch tự sự. Là bởi ông kết hợp được cả hai phương pháp biểu đạt trên cùng một trục thời gian phi tuyến tính giống với thi pháp ca dao, vì thế, nó luôn tạo ra sự bùng nổ hiệu ứng năng lượng cao phía sau những con chữ tưởng như rất đỗi hiền lành. Vẫn với tâm thức cô đơn, buồn vì nhân tình thế thái, một mình dạo bước dọc sông Bầu, tác giả đối thoại với chính mình:

Đời người là mấy giấc mơ

Bao nhiêu huyền hoặc bây giờ bỗng không

Tôi đi về phía con sông

Bao nhiêu bèo bọt theo dòng đổ xuôi

(Tôi đi)

Với Nguyễn Ngọc san, lục bát từ lâu đã định hình phong cách. Đó là bản mệnh trời cho nhưng cũng là sự trớ trêu của số phận, là nhân cách văn hóa của ông sau khi đã nếm trải đủ cay đắng ngọt bùi. Và cũng chính sự trải nghiệm bằng chính cuộc đời bảy nổi ba chìm ấy, ông đã vượt lên số phận để lại cho đời những câu thơ mà mỗi khi đọc lên không ít người thổn thức:

Lời em theo gió chòng chành

Câu đau ướt đất câu xanh lên trời

Ngoài kia chợ đất chợ người

Bán mua thua được khóc cười như không

(Bồng bềnh điệu lý)

Làng” với Nguyễn Ngọc San không chỉ giới hạn ở khái niệm. “Làng” còn là khởi nguồn của những đam mê, khát vọng thuộc về tâm linh nên nó trở thành thiêng liêng hơn bao giờ hết. Nói không ngoa, ở Xứ Đông này, du khách khó tìm được ngôi làng cổ vừa có đình vừa có ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính lại được dòng sông bao quanh, hai bên bờ bốn mùa đầy hoa thơm trái ngọt như đất Phù Tinh. Có lẽ vì thế, trong thơ ông, từ lâu đã hình thành phong cách “văn hóa làng”, và những “Sông Bầu tầm tã”, “Nhớ đò”, “Dì Hiền”, “Mẹ”, “Với cỏ”, “Ru làng” đương nhiên trở thành “lục bát làng”. Đó là những vần lục bát thấm đẫm mồ hôi nước mắt, lấp lánh trí tuệ bởi sự hòa quyện giữa yếu tố bác học và yếu tố dân gian, hình thành một hệ thẩm mỹ mà mỗi khi đọc khiến người ta phải trăn trở suy ngẫm. Và đây, một dì Hiền trong mắt đứa cháu mồ côi cha:

Ngõ nhà cỏ ngợp lối đi

Ngô đồng đỏ lá đợi dì trổ hoa

Mắt buồn mở những mùa na

Mỗi người thêm một xót xa một người

Mười lăm năm ấy dì ơi

Núi nghiêng đá đổ cát vùi đáy sông…”

Nếu hiểu thơ như là một loại diễn ngôn kiến tạo thế giới tâm hồn mà Michel Foucault đã chỉ ra, thì Sara Mills lại có ý tưởng khái quát hơn: “Diễn ngôn không đơn giản là sự truyền dẫn hiện thực vào trong ngôn ngữ, diễn ngôn cần được nhìn nhận như một hệ thống cấu trúc nên cái cách thức chúng ta nhận biết về hiện thực”(2). Như vậy, đối với thơ, một trong những chức năng của diễn ngôn là kiến tạo thế giới hình tượng, và cùng với nó là cấu trúc nhịp điệu cũng như các hình thái biểu đạt tạo nên văn bản nghệ thuật. Nếu dùng lý thuyết này quy chiếu vào lục bát, cụ thể hơn là lục bát Nguyễn Ngọc San, ta sẽ nhận ra hai đặc điểm phong cách. Đó là không gian lục bát và cấu trúc ngôn ngữ.

Có một sự tương đồng về không gian lục bát Nguyễn Ngọc San và không gian làng quê cả trong hiện thực lẫn hoài niệm. Hai khái niệm này chuyển hóa vào nhau, tương tác với nhau như chiều kích bản thể cho dòng cảm xúc thăng hoa. Không gian ấy là không gian tâm trạng, là điểm giao thoa giữa cảnh vật, tình người và vô thức cộng đồng làm nảy sinh trường liên tưởng không giới hạn. Chính vì thế, hầu hết cảnh vật trong lục bát Nguyễn Ngọc san như dòng sông, con đò, bãi cỏ, đường làng thường nhuốm màu thê lương trong cảnh hoàng hôn hay mưa bụi: “Tôi đi về phía con sông/ Bao nhiêu bèo bọt theo dòng đổ xuôi” (Tôi đi); “Nửa mơ nửa tỉnh nửa say/ Vầng trăng bến nước thấm đầy nỗi quê” (Viết cho em); “Cỏ mềm nên cỏ bình yên/ Cỏ xanh khỏa lấp những miền thương đau” (Với cỏ); “Ngày đi mưa gió sập sùi/ Những năm bom đạn không nguôi nhớ nhà” (Nhớ đò); “Ngõ nhà cỏ ngập lối đi/ Ngô đồng đỏ lá đợi dì trổ hoa” (Dì Hiền); “Cổ Thành nào thấy thành đâu/ Một vuông đất hẹp vùi sâu vạn người” (Cổ Thành Quảng Trị); “Khóc người cả lúc khi nằm/ Mây bay về núi mưa dầm đất đai” (Khóc người); “Lối vòng đường chẳng nên gần/ Lối xa lạc bước mây vần vụ mây” (Đi hội Vua Bà); “Cổng chùa lối lút cỏ may/ Thắp hương cúng Phật khói bay lên giời” (Mẹ)…

Điều đáng chú ý trong thơ Nguyễn Ngọc San là ông có tài biến ngôn ngữ bình dân thành ngôn ngữ nghệ thuật. Hệ thống từ ngữ hiển thị trên văn bản của ông hầu hết là từ ngữ thông tục, lại thuần Việt vốn được chắt lọc từ kinh nghiệm dân gian. Lớp từ ngữ này, nếu đứng riêng, tự thân nó chỉ mang giá trị công cụ, nhưng một khi được cấu trúc thành tổ hợp lập tức phát sáng qua sự tương tác lẫn nhau. Cái giỏi của người viết lục bát là, ngoài loạt hình ảnh sinh động còn tạo ra những câu thơ đa nghĩa trong khuôn khổ chật hẹp 14 tiếng mà lại thỏa mãn yêu cầu về luật bằng trắc trong kỹ thuật gieo vần.

Cũng bởi năng lực sử dụng lớp từ thuần Việt một cách thành thạo, Nguyễn Ngọc San thường có những câu lục bát đột khởi, nếu tách riêng ra, chúng vẫn có sức ám ảnh người đọc như một triết lý sống: “Nửa vầng trăng nửa cánh diều/ Nửa chờ may rủi nửa yêu phập phồng” (Nửa); “Mẹ đi bước nữa về đâu/ Cơn mưa đổ dọc sông Bầu mưa rơi” (Mẹ); “Nén này cháy vội niềm đau/ Nén này xin hẹn kiếp sau dưới mồ” (Cỏ xanh); “Vườn chùa ai mới trồng si/ Sư lần tràng hạt vãi thì lặng câm” (Dì Hiền); “Cổ Thành máu chảy thành sông/ Xương gom thành núi thành không còn gì” (Cổ Thành Quảng Trị); “Sân si về lại sân si/ Bồng bềnh điệu lý có khi lại còn” (Bồng bềnh điệu lý); “Khóc người ngừng gió thôi mưa/ Quan tài nhẹ bẫng xe đưa về giời” (Khóc người).

Nhịp điệu lục bát Nguyễn Ngọc San cũng là nhịp điệu buồn gắn liền với cách ngắt câu 2/4, 4/4 hoặc 4/2. Đó là nỗi buồn thuộc phạm trù thẩm mỹ như Hegel đã từng chỉ ra trong hệ thống mỹ học của ông. Cho nên, đọc Nguyễn Ngọc San, bất cứ ai cũng có cảm giác ở bài lục bát nào cũng phảng phất nỗi buồn. Có những nỗi buồn đau đến xé lòng như “Sông Bầu tầm tã”, “Mẹ”, “Bà tôi” nhưng cũng có nỗi buồn man mác của kẻ sĩ trước một thực tại phong hóa suy đồi làm tha hóa phẩm chất con người mà hoàn toàn bất lực: “Văn chương lặn ngụp giữa đời/ Đắng cay tôi viết cho người tôi yêu/ Mai này chiều đổ bóng chiều/ Thơ tôi biết có đỡ nghèo cho em” (Viết cho em); “Nửa mình oan ức cho người/ Nửa mơ nửa tỉnh thức vời vợi đêm/ Nửa ta nửa bạn nửa em/ Nửa khan khát nhớ nửa êm êm chiều” (Nửa). Đó là nỗi buồn thế sự của những nhân cách lớn sinh ra bất phùng thời bị mưa gió dập vùi nhưng vẫn gắng gượng sống theo minh triết của loài cỏ. Rất có thể, đây là lý do mà ông có những câu thơ viết về cỏ luôn ám ảnh người đọc: “Cỏ mềm nên cỏ bình yên/ Cỏ xanh khỏa lấp những miền thương đau” (Với cỏ); “Khóc anh nước mắt thành thơ/ Cỏ xanh kín đất người giờ nằm đâu” (Cỏ xanh).

Tạo hóa cũng công bằng lắm, không lấy hết của ai cái gì. Tuy mất mát nhiều nhưng bù lại, ông trời dành riêng cho Nguyễn Ngọc San một tài sản vô giá. Ấy là Miền "Lục Bát Sông Bầu" như một thương hiệu của xứ vải Thanh Hà không phải ai cũng có được của một đời cầm bút.

----------------

CHÚ THÍCH:

(1) “Bình Ngô đại cáo”, nguyên tác:

惟,我大越之國,

實為文獻之邦。

山川之封域既殊,

南北之風俗亦異

nếu dịch sát nghĩa sẽ là:

"Như nước Đại Việt ta/ thực là một nước văn hiến/ sông núi đã khác biệt nhau/ phong tục Bắc Nam cũng khác"

Cụ Ngô Tất Tố dịch:

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác"

(2) Trích dẫn theo Trần Văn Toàn “Dẫn nhập về lý thuyết diễn ngôn của M. Foucault và nghiên cứu văn học”, tr. 335 cuốn “Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài, kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015)

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Chuyện làng văn0

- Kho sách0

- Các bài viết của (về) tác giả Đặng Văn Sinh0

- Bạn đọc cảm nhận về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

 

Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn

"CÔ" SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:

*

Bến Tắm, những ngày đông ấm áp

ĐẶNG VĂN SINH

Địa chỉ: Khu Dân cư 3, phường Bến Tằm,

thành phố Chí Linh, Hải Dương.

Điện thoại: 098 765 35 60

 

 

 

 

  ........................................................................................

- Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com.vn ngày 14.12.2023.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét