(Nguồn ảnh: Internet) |
TRUYỆN CỔ TÍCH VỀ CÁC LOÀI VẬT
- Công ty VĂN HÓA BẢO THẮNG & Nhà xuất bản THANH HÓA
liên kết xuất bản ;
2006 -
...............................................................................................................................................................
LỜI TỰA
Các em
thân mến, trong chúng ta chắc có lẽ ai cũng đã từng một thời say mê các cuốn
truyện cổ tích. Truyện cổ tích đã đem đến cho tuổi thơ chúng mình một thế giới
lung linh huyền ảo, thế giới của những con vật biết nói, của những công chúa,
hoàng tử, của những ông vua, bà hoàng hậu, những mụ phù thuỷ, thế giới của
những điều THIỆN, điều ÁC luôn được phân định rạch ròi. Nhưng với tuổi thơ
chúng ta, thế giới loài vật lại luôn gần gũi và dễ hiểu hơn cả. Chúng ta thường
tiếp xúc với những chú chim, chú gà, chú chó, chú cóc... trong vườn, nhà, những
chú hổ, thỏ, sóc, khỉ, voi, rùa... trong công viên trong những lần dạo chơi
cùng bố mẹ, gia đình. Chúng ta luôn tò mò với những con thú đáng yêu này, luôn
bận hỏi: tại sao con gà trống lại có mào đỏ, tại sao con khỉ đỏ đít, tại sao
con hươu có đuôi cộc... Và thế là những con vật đáng yêu này bước vào những câu
truyện cổ tích, trở thành những nhân vật chính để giải thích cho các em về
những băn khoăn đáng yêu đó.
Các em
thân mến, thế giới loài vật trong truyện cổ tích cũng giống như thế giới loài
người vậy. Chúng cũng biết yêu thương, đùm bọc, che chở cho nhau, cũng biết đấu
tranh với cái ác để bảo về cái thiện, đấu tranh với kẻ mạnh để bảo vệ kẻ yếu...
Cũng tinh nghịch, dí dỏm, thông minh như con người vậy. Với cuốn sách
"TRUYỆN CỔ VỀ CÁC LOÀI VẬT" hy vọng rằng các em sẽ học được những bài
học đầu tiên của cuộc sống. Đó là những bài học biết yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, biết phân biệt cái đúng cái sai, biết kính trên nhường dưới, biết sống
cho mình, cho mọi người. Đây là những bài học đơn giản đầu đời nhưng vô cùng
cần thiết cho chúng mình trong cuộc sống đấy các em ạ!.
*
Công ty Văn Hóa Bảo Thắng
1. SỰ TÍCH CON DẾ
-
Truyện cổ tích Việt Nam
-
Ngày
xưa, ở một làng nọ có một người đàn ông có hai vợ. Vợ cả sinh cho ông một người
con trai tên là Văn Linh, còn vợ lẽ sinh một người con trai tên là Văn Lang.
Hai anh em tuy khác mẹ nhưng rất yêu thương nhau. Chẳng may, người vợ cả đổ
bệnh, mất sớm, từ đó hai anh em càng yêu thương nhau hơn, còn người vợ lẽ thì
rất thù ghét Văn Linh. Hai anh em lớn lên bên nhau, Văn Linh theo nghiệp đèn
sách còn Văn Lang theo nghiệp cấy cầy. Gia đình họ tuy không giàu có lắm nhưng
cũng tích góp được một chút của ăn của để.
Thế
rồi, đột nhiên người cha ốm nặng qua đời. Từ đấy mụ dì ghẻ càng tỏ ra căm ghét
Văn Linh. Mụ thường xuyên tìm cách mắng chửi, xỉa xói Văn Linh. Vốn bản chất là
người hiền lành, không hay chấp vặt Văn Linh cố gắng sống và bỏ qua những hành
động của mụ dì ghẻ. Còn Văn Lang, hiểu rõ những hành động của mẹ mình chàng
càng yêu quí Văn Linh hơn. Nhưng mụ dì ghẻ không những căm ghét Văn Linh, mụ
còn loá mắt trước gia sản người chồng để lại, mụ muốn cướp phần của Văn Linh
cho mình nên đã nảy dã tâm muốn giết chết Văn Linh.
Một
hôm, mụ sai hai anh em vào rừng đốn gỗ. Trước khi đi, mụ gọi con đẻ của mình
vào buồng riêng dặn dò:
- Con ơi, vào đến rừng sâu, con hãy giết chết
Văn Linh đi, sẽ không ai nghi ngờ con cả. Mẹ con ta sẽ có tất cả cơ ngơi này mà
không phải chia sẻ cho bất cứ ai.
Vì
không muốn làm phật ý mẹ, Văn Lang giả tảng vâng lời rồi khăn gói cùng Văn Linh
đi vào rừng. Thực chất trong bụng Văn Lang không muốn giết Văn Linh vì hai anh
em rất yêu thương nhau. Vì thế đến cửa rừng, Văn Lang đưa hết toàn bộ số tiền
mua gỗ cho Văn Linh rồi kể cho Văn Linh nghe hết toàn bộ câu chuyện, khuyên Văn
Linh trốn đi, đừng bao giờ trở về nữa. Sau này, hai anh em sẽ tìm gặp nhau sau.
Hai anh em buồn bã chia tay nhau. Đợi cho Văn Linh đi khuất, Văn Lang giết một
con thú rừng rồi lấy máu bôi khắp nơi. Sau đó chàng trở về và nói với mẹ mình
rằng đã giết chết Văn Linh trong rừng sâu rồi quẳng cho thú dữ ăn thịt rồi. Mặt
khác, chàng nói với mọi người trong làng là Văn Linh bị hổ vồ mất tích. Làng
xóm chẳng ai nghi ngờ gì vì từ trước đến giờ họ thấy hai anh em rất yêu thương
nhau, sống đầm ấm thuận hoà. Còn mụ dì ghẻ thì rất vui mừng vì cho rằng kế
hoạch của mình đã thành công. Mụ không còn phải nhìn thấy cái gai trong mắt mà
lại còn được hưởng toàn bộ tài sản của người chồng.
Về
phần Văn Linh, sau khi chia tay Văn Lang, chàng chẳng biết sẽ phải đi đâu trong
cái thế giới xa lạ này. Từ trước đến giờ chàng chỉ quen với bút nghiên, đèn
sách, đã phải sống một mình bao giờ đâu. Trời mỗi ngày mỗi tối, chàng chẳng
biết phải đi đâu. Lo lắng và buồn khổ chàng tìm đường về mộ của mẹ mình than
khóc, rồi chàng thiếp đi lúc nào không biết. Mẹ chàng dưới mộ thấy tình cảnh
của con mình như thế thì thương con khôn xiết. Bà hiện lên, hồn bà biến thành
con chim phượng hoàng lớn ấp con mình vào đôi cánh để ủ ấm. Trời tảng sáng,
phượng hoàng quắp Văn Linh bay đến một hòn núi cao, đặt chàng xuống một chỗ đất
bằng rồi hoá phép ra nhà cửa và mọi đồ ăn thức uống. Một lúc sau, Văn Linh tỉnh
dậy, chàng sửng sốt nhìn quanh và không biết mình đang ở đâu, tại sao bên chàng
lại có con chim phượng hoàng rất lớn. Đang toan bỏ chạy chợt chàng nghe thấy
con chim cất tiếng nói:
- Đừng sợ Văn Linh, ta là mẹ của con đây. Con
chớ nên tìm đường về mà nguy hiểm. Mụ dì ghẻ sẽ không tha cho con đâu. Hãy ở
lại đây chuyên tâm vào việc học hành, thi cử. Hàng ngày mẹ sẽ đến đây chăm sóc
cho con.
Rồi cứ
thế, ban ngày phượng hoàng biến đi, cứ đêm đêm nó lại bay trở về chỗ Văn Linh
để chăm sóc và bảo vệ chàng. Được gần gũi mẹ như thời gian mẹ còn sống, Văn
Linh rất vui và yên tâm học hành. Chàng học càng ngày càng tiến bộ.
Bấy
giờ, ở dưới chân núi có một xóm nhỏ thưa thớt, dân cư sống rải rác. Trong xóm
có một người con gái đẹp như hoa tên là Ngọc Châu sống cùng với người hầu gái.
Cha mẹ Ngọc Châu mất sớm, nàng cùng người hầu gái sống nương tựa vào nhau và
lấy nghề dệt vải kiếm tiền nuôi thân. Từ khi Văn Linh đến sống trên núi hai cô
gái rất lấy làm lạ bởi vì từ trước đến giờ chẳng có ai sinh sống trên đó. Vậy
mà bây giờ ngày nào hai cô cũng nghe thấy tiếng học trò đọc sách suốt ngày.
Một
hôm, Ngọc Châu cố tình làm tắt lửa để có cớ sai nàng hầu xin lửa anh học trò.
Văn Linh đang ngồi học bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa, cửa mở chàng thấy một cô
gái đến xin lửa. Sau khi cho lửa, chàng hỏi xin cô gái một ít dầu thắp đèn vì
dầu nhà chàng sắp cạn. Cô hầu gái chỉ nhà cho anh xuống lấy, nhờ đó anh quen
với Ngọc Châu. Từ chỗ quen biết, hai người đã trở nên thân thiết tới mức không
thể sống xa nhau. Họ nên nghĩa vợ chồng và từ đó người chồng lo việc đèn sách
còn người vợ chăm lo việc khung cửi. Cuộc sống của hai vợ chồng đầm ấm, hạnh
phúc.
Sau
bao năm dùi mài kinh sử, đến khoa thi năm đó, Văn Linh lều chõng đi thi và
chàng đã đỗ Trạng nguyên để không phụ lòng mong mỏi của người mẹ đã mất và vợ.
Hôm vinh quy bái tổ về làng, cờ quạt chiêng trống rầm rộ. Nghe tin Văn Linh
vinh hiển trở về, Văn Lang mừng rỡ ra đón còn mụ dì ghẻ thì không tin vào tai
mình nữa. Phần vì tức tối, phần vì sợ Văn Linh trả thù, mụ vỡ mật lăn ra chết
và hoá thành con dế. Mụ chết đúng vào tháng tám nên hàng năm cứ vào tháng này,
người ta lại nghe thấy tiếng dế kêu. Đó là tiếng kêu của mụ dì ghẻ đang tức tối
phát ra những âm thanh vô vọng. Đáng đời cho những người có tâm địa độc ác./.
2. CÓC KIỆN TRỜI
-
Truyện cổ tích Việt Nam
-
Ngày
xửa ngày xưa, không ai nhớ rõ là năm nào, trời làm hạn hán rất lâu, ruộng đồng
khô nứt nẻ, cây cỏ trụi lá, chết héo rũ, các loài vật không thể tìm đâu ra nước
uống. Cóc thấy nguy quá, quyết lên thiên đình kiện trời. Đi được một quãng, gặp
Cua, Cua hỏi đi đâu, Cóc kể rõ sự tình, Cua xin đi theo. Đến một khu rừng, Cóc
lại gặp Gấu và Cọp, Gấu và Cọp đang khát khô cuống họng nằm dài chờ chết. Thấy
Cóc và Cua dắt nhau đi, Gấu và Cọp hỏi nguyên do. Cóc đáp:
- Chúng ta đang sắp chết khát cả. Phen này
phải lên hỏi trời xem sao. Các anh có cùng đi không?
Gấu và
Cọp đồng thanh nói:
- Thế thì cho chúng tôi đi với! Anh em chúng
ta sống chết có nhau.
Một
lúc lại gặp Ong và Cáo, Ong và Cáo cũng năn nỉ xin đi theo. Thế là cả bọn kéo
nhau lên thiên đình.
Đến
cửa thiên đình, thấy có một cái trống đặt cạnh, Cóc nói:
- Anh Cua, anh vào trong chum nước này! Anh
Ong, anh núp sau cánh cửa này! Còn anh Cáo, anh Gấu, anh Cọp thì ra phía sau
chờ đấy.
Sắp
đặt xong, Cóc một mình bước tới, lấy dùi đánh trống. Ngọc Hoàng rất đỗi ngạc
nhiên, sai Thiên Lôi ra xem. Nhìn quanh quất không thấy ai, chỉ nhìn thấy một
chú Cóc xù xì, thân hình bé nhỏ. Thiên Lôi trở vào tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc
Hoàng tức giận truyền lệnh thả gà ra mổ con Cóc hỗn xược. Gà vừa bay đến, Cóc
ra hiệu cho Cáo ở đằng sau nhảy tới, cắn vào cổ quắp đi. Ngọc Hoàng càng tức
giận sai Chó ra cắn Cáo. Chó vừa xông ra sủa, Cóc làm hiệu cho Gấu tiến lên
quật Chó chết tươi.
Tin
đến Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng phải sai Thiên Lôi ra trị Gấu. Thiên Lôi hùng hổ cầm
lưỡi tầm sét xông ra. Chưa kịp trở tay, Thiên Lôi đã bị Ong bay ra đốt. Thiên
Lôi vội cho tay vào chum nước tránh khỏi cho Ong đốt thì bị Cua ở trong chum
kẹp, la tru tréo, lại phải nhảy ra. Thiên Lôi đang luống cuống chưa biết tính
sao thì Hổ nhảy đến xé xác.
Ngọc
Hoàng tù túng thế, bèn hoà giải, mời Cóc vào. Cóc tâu:
- Muôn tâu Thượng Đế, đã ba bốn năm rồi, dưới
trần gian không hề có giọt mưa nào. Vạn vật đang chết héo hết cả. Nếu kéo dài
mãi, e rằng không còn một sinh vật nào sống sót.
Ngọc
Hoàng sợ trần gian nổi loạn, dịu giọng nói:
- Thôi cậu về đi! Ta sẽ ra lệnh cho mưa xuống.
Hễ khi nào dưới trần nắng hạn lâu ngày thì cậu cứ nghiến răng báo hiệu nhắc ta.
Dứt
lời Ngọc Hoàng sai rồng phun mưa xuống. Cóc về đến trần thì nước đã ngập cả
đồng ruộng.
Từ đó,
hễ Cóc nghiến răng, một lúc sau, y như rằng trời mưa. Trong nhân gian có câu
hát:
Con Cóc là cậu ông trời
Ai mà đánh nó thì trời đánh cho.
3. CHIM ÉN CÓ PHÉP MÀU
-
Truyện cổ tích Triều Tiên -
Ngày
xưa, ở một tỉnh phía Nam
của Triều Tiên, có một ông già sinh được hai người con trai, đứa lớn là Nonbu,
đứa nhỏ là Hungbu. Hai anh em hoàn toàn khác nhau về tính cách. Người anh Nonbu
thì tính tình độc ác, bần tiện và ích kỷ không ai bằng, gã đối xử tàn tệ với
xóm giềng, độc ác với tôi tớ và tàn bạo với gia súc. Ngoài ra, gã còn cưới một
bà vợ cũng độc ác chẳng kém gì mình. Ngược lại với người anh, người em Hungbu
rất tốt, chàng hết lòng giúp đỡ mọi người và không làm hại ai bao giờ. Chàng
sống có đạo đức và rất hiếu thảo với cha mẹ.
Khi
người cha còn sống thì người anh Nonbu còn tạm được, nhưng đến khi cha mất thì
hắn sống đúng với bản chất độc ác của mình. Hắn chiếm hết ruộng vườn, nhà cửa,
gia súc và một số tiền lớn mà người cha để lại cho hai anh em mà không chia cho
em trai mình bất cứ thứ gì. Ngoài ra hắn sợ người em và gia đình của em mình
sống trong cùng nhà với hắn thì sẽ ăn bám vào mình nên ngay lập tức đuổi họ ra
khỏi nhà, không hề động lòng trước lời than khóc của Hungbu và vợ con. Vợ của
Nonbu còn giả giọng nhân từ khuyên họ cố gắng làm ăn để đạt được vận may nào
đấy.
Người
em Hungbu khốn khổ không còn sự lựa chọn nào khác là dắt díu vợ con mình ra đi,
họ thuê một thửa ruộng nhỏ, cả nhà lao động quần quật để không bị chết đói. Vì
không có trâu bò, người anh trai lại không cho mượn nên cả vợ và các con của
chàng phải tự kéo cày thay trâu. Họ cũng cố gắng dựng được một túp lều che mưa
che nắng nhưng so với trang trại mà cha chàng để lại thì nó chỉ là một cái lều
vịt xiêu vẹo.
Một
ngày tháng giêng đói kém, khi những hạt thóc cuối cùng đã hết sạch chả còn gì
để ăn mà ngày mùa còn lâu mới đến, Hungbu quyết định đến nhà anh trai để mong
một sự giúp đỡ. Trái với sự mong mỏi của chàng, người anh trai Nonbu từ chối
thẳng thừng và đuổi Hungbu ra khỏi nhà, không hề nghĩ đến tình nghĩa anh em như
máu mủ ruột già. Cực chẳng đã, Hungbu thử thuyết phục bà chị dâu nhưng thật rủi
ro cho anh, bà chị dâu keo kiệt đang cầm cái muôi trên tay đã đập vào mặt anh.
Người anh trai Nonbu thấy vậy mồm thì đuổi Hungbu, tay thì tới tấp dùng gậy
quật chàng thật đau. Hungbu đau khổ rời nhà người anh, càng thương vợ và con
nhỏ đang kêu khóc vì đói ở nhà.
Mùa
xuân đến có một đôi chim én đến lán của Hungbu, chúng kêu ríu rít và làm tổ
trên mái nhà. Những con én cần cù chăm chỉ vài hôm đã xây xong tổ, chẳng bao
lâu sau chúng đã có được năm con chim non. Những con chim én non không ngừng há
mỏ đòi ăn và bố mẹ chúng phải luân phiên thay nhau đi kiếm mồi về đút cho
chúng. Một hôm, Hungbu nghe thấy những con chim én kêu nháo nhác, chàng chạy
đến chỗ tổ chim thì thấy một con rắn lớn bò sát nóc nhà dọc theo một cái xà.
Chàng cầm gậy giết chết con rắn. Nhưng đã quá muộn, con vật đã ăn thịt mất bốn
con chim non, còn một con rơi khỏi tổ, giãy dụa trên cỏ, kêu thảm thiết.
- Mày đừng sợ, tao không làm mày đau đâu.
Hungbu
nhẹ nhàng cầm con chim lên, thấy con chim bị gãy một chân, chàng đem nó vào
nhà. Vợ chàng bôi thuốc băng bó cho chim, các con chàng đi bắt ruồi cho chim
non ăn và chăm sóc cho đến lúc nó khỏi hẳn. Mùa thu năm ấy, con chim non đã có
thể bay đi gặp đồng loại đang bay về phương Nam . Gặp vua chim én, con chim én
đã kể lại tất cả những nỗi không may của nó và gia đình, Hungbu đã cứu sống nó,
săn sóc nó như thế nào.
- Lòng tốt của người đàn ông ấy đáng được đền
đáp - Vua chim én nói. Và khi mùa xuân đến khi cây cối sau ngôi lán của Hungbu
nảy lộc ra hoa thì con chim én bay về. Cả nhà Hungbu vui mừng khi nhìn thấy con
chim én bay trở về. Nó lượn tròn một lúc trên nóc nhà rồi xà xuống, đặt một hạt
bí ngô gần chân của Hungbu. Hungbu ươm hạt bí, hạt bí ngô nảy mầm, lớn dần, lớn
dần. Một thời gian sau các thân cây bò lên mái lán, ba cái hoa lớn nở thành ba
quả bí ngô, chúng lớn nhanh như thổi. Hungbu rất vui nghĩ rằng đã có cái ăn cho
các con.
Khi
những quả bí lớn đã chín, Hungbu gọi vợ con đến và bổ quả bí đầu tiên. Kì lạ
thay, quả bí tách làm đôi một nửa quả chứa toàn gạo trắng, còn nửa kia thì chứa
đỗ, đậu nành, kê. Họ dùng những thứ đó để ăn, nhưng ăn hết lại đầy. Vợ chồng
Hungbu vui sướng vì từ nay không còn lo bị đói nữa. Bổ quả bí thứ hai, Hungbu
thấy bao nhiêu vàng bạc, ngọc ngà châu báu tuôn ra. Họ rất vui sướng và thầm
cảm ơn chim én. Khi họ bổ quả bí thứ ba thì từ trong quả bí một nàng tiên bước
ra mỉm cười và nói với Hungbu rằng:
- Tôi là sứ giả của vua chim én. Ngọc Hoàng đã
quyết định thưởng cho anh vì lòng nhân từ và cao thượng của anh. Anh hãy nhân
món quà này, từ nay gia đình anh sẽ không còn phải chịu cảnh cơ hàn.
Rồi
nàng tiên ra hiệu, một đoàn người lùn từ trong quả bí bước ra mang theo cưa,
rìu, gỗ, ngói... Chỉ một lát sau họ đã dựng lên được một căn nhà rộng rãi,
khang trang thay cho cái lan tồi tàn của Hungbu trước đây. Hungbu chưa kịp cảm
ơn thì nàng tiên và những người lùn biến mất.
Người
anh cả Nonbu nghe tin em mình trở nên giàu có thì vô cùng nghen tức. Hắn tức
tốc tới nhà Hungbu để xem tại sao Hungbu lại giàu lên nhanh chóng thế. Hungbu
cũng thật thà kể lại toàn bộ câu chuyện cho người anh nghe. Thế là gã Nonbu
tham lam tìm mọi cách để có được nhiều châu báu hơn.
Mùa
xuân đến, Nonbu xếp đặt dưới mái nhà của gã một lớp gỗ để cho chim én về làm tổ
được dễ dàng. Hắn sốt ruột chờ. May mắn cho hắn, không phải đợi lâu, chỉ một
thời gian ngắn có một đôi chim én về làm tổ dưới mái nhà của gã. Chim én cũng
có một đàn con, chúng luôn ấp ủ và cho con ăn đều đặn nhưng không có một con
rắn nào đến tổ của chúng. Không thể chờ đợi thêm được nữa, gã leo lên mái nhà
tự mình bóp chết và ném bốn con chim non xuống rồi gã tự tay bẻ gãy chân con
còn lại. Gã đem con chim tội nghiệp xuống bôi thuốc và băng bó cẩn thận. Mỗi
khi cho chim ăn gã lại nói:
- Tao mong rằng rồi mày phải cám ơn tao về
việc chạy chữa cho mày. Mày chỉ cần mang đến cho tao một hạt bí để tao trở nên
giàu có.
Cuối
cùng, mùa thu đến, con chim én cũng qua khỏi và cùng các bạn bay về phương Nam.
Gặp vua chim én, nó kể lại toàn bộ sự rủi ro mà nó gặp. Vua chim én giận giữ:
- Gã sẽ được đền bù xứng đáng về sự độc ác và
tham lam của mình.
Mùa
xuân đến, Nonbu ngày đêm chầu chực chờ con chim én bay về. Gã mừng rỡ khi thấy
con chim bay về lượn quanh trên đầu gã và thả xuống một hạt bí ngô. Nonbu nhanh
chóng ươm hạt giống trên bồn hoa, gần nhà, nơi gã làm đất rất kĩ và chăm sóc
cẩn thận. Chẳng bao lâu, hạt bí nảy mầm và lớn rất nhanh. Những bông hoa bí
cũng nở ra ba quả bí lớn, lớn hơn cả của người em. Bí chín. Gã hí hửng cùng vợ
bổ bí ngô. Quả đầu tiên được bổ ra, vàng bạc châu báu chẳng thấy chỉ thấy đầy
côn trùng sâu bọ phá hoại toàn bộ lúa mì của gã. Tiếp theo là những con quỷ chui
ra tay cầm gậy vụt tới tấp vào Nonbu và vợ gã. Bổ quả bí thứ hai, từ trong quả
bí chui ra một con quái vật kinh khủng bắt Nonbu phải đưa hết tiền bạc, của
cải. Sợ quá vợ Nonbu khuyên chồng không nên bổ quả còn lại nữa, nhưng do quá
tham lam, hắn quyết bổ nốt quả cuối cùng. Từ trong quả bí một người khổng lồ
bước ra phá toàn bộ nhà cửa - dinh cơ to đẹp của gã rồi dựng lên một túp lều
tồi tàn như túp lều của Hungbu ngày xưa. Rồi tất cả biến mất chỉ còn trơ lại
mỗi túp lều rách nát. Từ bây giờ trở đi Nonbu phải trải qua cái đói, cái gian
nan vất vả của người lao động chân chính, lương thiện.
Sau
này, người em Hungbu biết anh mình đã thực sự trở thành người tốt đã đến đón
gia đình Nonbu về sống cùng mình. Từ đấy họ sống với nhau hoà thuận trong tình
thương ruột thịt.
4. SỰ THẬT CỦA CON NHỆN
-
Truyện cổ tích Châu á -
Xưa
kia, loài vật cũng sống trong làng giống như người. Một ôm nắng hạn ghê gớm,
mọi người cùng muôn vật gần như chết khát. Con nhện và bầy con của nó cũng gần
chết khát. Nhện bèn quyết định phải làm cái gì đó chứ không thể tiếp tục chờ
như thế này mãi. Không phải suy nghĩ lâu, trong rừng sâu có một cái hố đầy
nước, trong mát nhưng không ai dám đến vì đấy là chỗ ở của những ma quái. Chúng
sẽ xé xác những ai uống nước của chúng.
Nhện
tự hỏi: "Nghe nói ở đấy có nước, có đúng không nhỉ? Và nếu có thì ai chối
cãi được mình tinh khôn hơn tất cả bọn ma quái?". Nghĩ thế Nhện lấy hai
quả bầu được nối với nhau bằng một sợi dây và đục một lỗ trên mỗi quả bầu rồi
đi thẳng đến hồ nước không chậm trễ.
Khi
đến, làng ma quái như làng chết, chỉ có hai đứa trẻ ma quái canh gác. Nhện nói
với chúng:
- Các cậu xem, tôi bẩn quá. Đề nghị cho tôi
tắm rửa một chút.
Hai
đứa trẻ không phản đối nhưng cấm nhện không được mang giọt nước nào về.
Nhện
hứa:
- Các cậu cứ tin tôi đi.
Và rồi
Nhện bơi lội thỏa thích trong hồ, lấy đầy nước vào hai quả bầu, lên bờ ra về
lòng đầy thỏa mãn, thích thú. Nó biết từ giờ nó sẽ lấy nước ở đâu.
Trong
làng, những loài vật khác biết Nhện có nước kéo đến hỏi xem tìm ở đâu. Nhện chỉ
bảo:
- Các bạn phải tự mình tìm lấy sự thật.
Thấy
Nhện dấu chỗ có nước, các loài vật rất tức tối. Chó sói định chơi cho Nhện một
vố. Nó ngậm một quả trứng cho phồng má lên và đến chỗ Nhện nói:
- Bà hàng xóm thân mến, tôi đau răng kinh
khủng. Nhờ bà nhổ hộ tôi chiếc răng đau.
Nhện
vốn tính hay giúp đỡ người khác, nghe sói nói vậy liền đưa tay vào miệng Sói.
Bất thình lình, Sói cắn chặt răng, dữ tợn bảo:
- Nếu bà không nói lấy nước ở đâu thì tôi sẽ
cắn đứt tay bà.
Không
còn cách nào khác, Nhện buộc lòng phải nói sự thật và đề nghị sói đi với mình
đến làng ma quái.
Khác
với Nhện, bản tính của Sói vốn tham lam, thấy Nhện bảo mang đi hai quả bầu để
lấy nước về thì không chịu nghe. Sói thấy chỉ có hai quả bầu thì ít quá nên tìm
hai quả đất nung lớn để lấy nước. Đến gần hồ, Nhện đề nghị hai đứa trẻ ma quái
vẫn đang canh gác cho Nhện và Sói vào tắm. Hai đứa trẻ cũng đồng ý, với điều
kiện Nhện và Sói không được mang giọt nước nào về. Chúng mau chóng xuống bơi
lội trong hồ. Những quả bầu đầy nước, Nhện thôi tắm và nhanh chân về nhà, còn
nhưng quả đất nung đầy nước rất chậm và khi định ra khỏi mặt nước Sói bị vướng
chân vào dây không làm sao lên được. Hai đứa trẻ ma quái thấy có chuyện khác
thường liền báo với bố mẹ chúng.
Sói ở
trong hồ than thở khổ sở và do quá sợ hãi mất khôn, nó thốt ra: "Mình chỉ
muốn lấy nước mang về mà bây giờ bị cầm chân ở đây!". Lũ ma quái nghe
được, đùng đùng nổi giận. Chúng cắt dây, đập vỡ những quả đất nung rồi đánh cho
sói một trận nhừ tử. Sói chỉ may còn giữ được mạng sống chạy vào rừng rậm. Từ
ngày đó, người ta không còn thấy nó xuất hiện ở làng nữa.
Nhện
thì rất tự hào vì chỉ mình biết được sự thật. Khi mùa khô chấm dứt, trời bắt
đầu chuyển mưa, nó quyết định cùng với sự thật của mình đi ngao du thiên hạ. Nó
lấy một trong hai quả bầu, khoét một lỗ to và thét vào đó hai từ "sự
thật". Nó để quả bầu lên đầu như các bà vẫn đội hàng và lên đường. Vừa đi
nó vừa tự nhủ: "Mình đội sự thật lên đầu có nghĩa là nó thuộc về mình và
không ai lấy đi được".
Qua
con suối đầu tiên, Nhện thấy những quả chuối rất ngon phản chiếu trong nước. Nó
lặn ngay xuống suối nhưng chẳng thấy chuối đâu. Nó lội ra khỏi suối lên bờ đứng
thì lại nhìn thấy những quả chuối dưới nước. Nó lại lặn xuống và cứ lặn cho đến
khi mệt đứt hơi. Kiệt sức, nó nằm dài bên bờ suối, bỏ quả bầu trên đầu xuống.
Và nó nhìn thấy những quả chuối, những quả chuối ngay trên đầu nó, treo ở trên
cây nhưng nó không nhìn thấy vì có quả bầu trên đầu.
Lúc
đó, Nhện giận dữ đập quả bầu ra làm trăm mảnh và tự hỏi: "Phải chăng mình
có sự thật trên đầu? Dù đúng thế thì sự thật trên đầu mình có phải là sự thật
duy nhất không? Chắc chắn là không!".
Cuối
cùng Nhện hiểu rằng biết rõ sự thật không phải là đơn giản.
5. SỰ TÍCH CHIM KÊN KÊN
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ở làng
nọ, có hai người sống hai cảnh đời trái ngược. Một người giàu nứt đố đổ vách,
của chìm của nổi không biết bao nhiêu mà kể. Bên cạnh anh nhà giàu này lại có
một người nghèo rớt mùng tơi, đã thế lại còn tàn tật, ít khi được miếng cơm
nóng, khoai sắn ăn không đủ no.
Lão
nhà giàu cạy tiền cạy của, cứ ra khỏi nhà là bắt người khiêng võng, lão ăn chơi
trác táng nên dù còn trẻ, tóc còn xanh, răng chưa rụng nhưng người gày đét như
con mắm, ốm yếu. Còn anh nhà nghèo do mắc bệnh từ nhỏ, nên lúc nào người cũng
dúm dó, đi lại khó khăn, quanh năm suốt tháng chỉ có mỗi mảnh vải che thân.
Một
năm kia hạn hán kéo dài, cây cỏ khó mọc, những đám rau dại quanh làng chết hết.
Chẳng còn gì để ăn, anh tàn tật cố bò ra cây vả giữa quả đồi trọc nhặt quả ăn
thay cơm. Đường từ nhà đến đấy bao ghập ghềnh. Với những người lành lặn thì cũng
đủ mệt bở hơi tai, thế nên anh tàn tật phải khổ sở vất vả bò lết suốt từ sáng
tinh mơ cho đến tận chiều tà mới tới nơi. Đến gốc cây, anh mệt rã rời không còn
đủ sức nhặt quả rụng cho vào mồm. Trời thương, đến chiều tối, khi mặt trời lặn
sau quả núi, một cơn gió thổi qua rất mạnh làm cành cây oằn xuống rụng đầy quả
xuống mặt đất. Anh nhà nghèo cố lê lết vun quả rụng thành một đống ăn dần. Đêm
đó anh ngủ dưới gốc cây.
Sáng
hôm sau tỉnh dậy anh thấy một đàn chim từ phía Đông bay đến, chúng ríu rít đậu
trên ngọn cây. Đàn chim đi tìm quả chín nhưng quả chín đã rụng hết từ hôm qua.
Chúng ngơ ngác rồi bay ào xuống mặt đất. Trông thấy đám quả chín của anh tàn
tật chúng không dám lại gần mà chỉ đứng nhìn từ đằng xa. Anh tàn tật nhặt quả
vãi ra xung quanh bảo chim:
- Có đói thì vào mà ăn.
Nghe
anh nói, một con chim có cái mỏ vàng, lông óng ánh, to như chim đại bàng cất
tiếng nói, rành rọt:
- Chim không có công nhặt sao người cho nhiều
thế?
- Cây trời sinh, quả trời cho, không tưới thì
công nhặt quả có đáng là bao. Chim đói thì cứ vào mà ăn.
Anh
nhà nghèo lại bốc quả vãi ra. Lũ chim không sợ nữa xúm vào ăn. Chim đầu đàn bảo
anh:
- Anh quả là người tốt, quả ăn trừ cơm mà cho
không tiếc. Tôi cho anh một điều ước để trả ơn.
Nói
rồi đàn chim cất cánh bay đi. Anh tàn tật ngồi nghĩ điều ước mà chim vừa cho.
Từ bé đến giờ, anh sống nghèo đói chẳng biết sung sướng là gì để ước. Chợt anh
thấy một đám lính khiêng kiệu một ông quan đi qua. Anh định ước trở thành một
trong hai loại người này nhưng khi bọn họ leo dốc chẳng may một tên lính trượt
chân ngã, kiệu đổ, lính đau, quan cũng đau. Viên quan cau có, bực tức cầm gậy
vụt lấy vụt để vào tên lính vì hắn làm ông đau. Thấy vậy anh tàn tật lẩm bẩm:
- Làm lính thì bị quan đánh chửi, làm quan thì
mặt mũi cau có chẳng ai có thể ưa được.
Anh bỏ
ý định làm lính, làm quan.
Một
lúc, có mấy người thầy mo đi qua. Người nào người nấy quần áo xanh xanh đỏ đỏ,
tay xách rượu thịt, vẻ mặt an nhàn. Anh tàn tật thấy vậy thích lắm, định ước
trở thành thầy mo. Bỗng cái cổ quẹo làm anh đau nhói. Cái cổ này trước đây cha
mẹ anh cũng đã mời thầy mo về yểm bùa cúng bái cho anh khỏi bệnh mà mãi không
khỏi, tiền mất mà tật vẫn mang. Nhớ lại anh tự bảo:
- Thầy mo là người điêu ngoa, hay lừa bịp. Làm
thầy mo chỉ tổ để cho mọi người chửi.
Chợt
anh nhìn thấy lão nhà giàu đi đâu về, anh tàn tật định ước giống lão nhà giàu
ăn sung mặc sướng, an nhàn thảnh thơi. Nhưng khi lão nhà giàu vừa đi khuất anh
thấy một đám người tay xách nách mang nào ngô nào thóc còn khuôn mặt thì ủ rũ
buồn bã. Anh bèn hỏi:
- Tại sao các bác có nhiều ngô nhiều thóc mà
lại buồn thế?
Mấy
người kia chỉ lão nhà giàu nói:
- Sắp đến mùa cày thì lão bắt trâu lúc giáp
hạt thì lão đòi nợ. Thật khổ quá!
Quá
hiểu cảnh nghèo khó như thế nào, anh lắc đầu:
- Làm người giàu sẽ gây khổ cho người nghèo.
Phân
vân một lúc, anh tàn tật nhìn lại mình, thấy lưng còng, cổ quẹo, liền ước:
- Thôi, chim cho ta lành lặn khoẻ mạnh để có
sức khoẻ trồng nương phát rẫy nuôi thân.
Lời
ước vừa dứt, anh tàn tật trở thành một thanh niên to lực lưỡng, cổ hết vẹo,
lưng hết còng. Anh ghé vai ôm lấy cây vải nhổ thử. Cây vải bật gốc, anh liền
vác về trồng ở đầu làng.
Về
làng, tên nhà giàu thấy anh béo tốt, phương phi liền hỏi:
- Mày làm sao mà chóng khỏe, sức lực cường
tráng thế?
Anh
tàn tật thật thà kể lại toàn bộ câu chuyện về việc cho chim ăn quả vải chín như
thế nào và chim trả ơn điều ước ra sao. Chưa kịp để cho anh tàn tật nói gì, lão
nhà giàu đã đề nghị đổi cho anh toàn bộ nhà cửa ruộng vườn của lão để lấy số
quả vải chín mà anh tàn tật mang về. Lão giật vội mấy quả vải rồi tức tốc chạy
thẳng ra đồi, vợ con cùng gia nhân cũng lóc cóc chạy theo lão. Đến bên gốc cây
vải đã bật, chúng thu lu chờ chim đến. Và đàn chim cũng đến. Vợ con lão chẳng
biết sự tình thế nào nên cứ trố mắt ra nhìn. Còn lão nhà giàu đưa quả ra nhử
chim, mồm bảo:
- Cây vải đã bị thằng tàn tật nhổ mất rồi. Bây
giờ muốn ăn quả chín chẳng dễ đâu. Ta còn mấy quả chim có ăn không, nhưng chim
phải cho ta một trăm điều ước. Còn nếu không thì đừng hòng ăn.
Đàn
chim đã đói, nhưng mỗi lần chỉ có một điều ước nên không thể đổi được cho lão
nhà giàu. Khi mặt trời sắp lặn, đàn chim sắp sửa bay đi. Biết không thể đổi nắm
quả vải lấy hơn một điều ước, lão nhà giàu mới đồng ý đổi. Được điều ước, hắn
cười hả hê, giục cả nhà đứng dậy nói lớn:
- Cho ta trẻ lại này, giầu sang này, nhiều
vàng bạc trâu bò này, nhiều...
Chưa
kịp nói hết câu thì cái mồm của cả nhà chúng nhô ra nhọn hoắt, tay biến thành
cánh, móng biến thành vuốt, lông lá mọc khắp người, hôi hám, khét lẹt. Cả nhà
chúng biến thành loài chim, vẫn giữ tính cách như lúc còn là người, hễ cứ thấy
xác chết là bâu lại. Người ta gọi chúng là chim kên kên.
6. TÌNH BẠN GIỮA HỔ VÀ MÈO
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Lúc
nào Hổ cũng vênh váo tự xưng mình là chúa tể sơn lâm. Nó khoe bộ vuốt sắc, bộ
nanh nhọn có thể cào rách và cắn thủng bộ da của con voi già hàng trăm tuổi. Nó
khoe có bàn tay khỏe có thể tát chết tươi bất cứ con vật nào, và có tiếng gầm
rung trời lở đất, làm lở đá rừng, làm bật rễ cây cổ thụ, làm gãy cổ diều hâu,
làm gãy cánh chim đại bàng.
Tính
tình của Hổ thì lại không tốt lắm, nó hung dữ, xảo quyệt hay gây sự, hay lật
lọng và thường rình mò ăn thịt các loài chim thú. Mọi thú vật chim chóc trong
rừng thường xa lánh Hổ. Cứ nghe tin Hổ ở đâu là các loài vật vội trốn chạy. Hổ
sống lủi thủi một mình thấy rất buồn. Nó muốn kết bạn nhưng chẳng loài nào chịu
chơi với Hổ cả.
Một
hôm, trong lúc buồn tủi, Hổ thẫn thờ đi trong rừng ngẫm nghĩ về cuộc đời của
mình thì gặp Mèo. Xưa nay nghe nói mèo tinh thông pháp thuật, võ nghệ cao
cường, Hổ rất mong kết bạn với mèo để học một chút võ nghệ mong dễ bề kiếm ăn.
Mèo đi đứng khoan thai, dịu dàng, chân bước êm như ru, nhảy xa không một tiếng
động. Mèo vồ mồi nhanh và rất nhạy, nó không bao giờ vồ lung tung mà chỉ bắt
những con vật có hại như chuột hoặc chim cắt.
Hổ rất
muốn kết bạn với Mèo. Sau khi nghe Hổ giãi bày tâm sự, Mèo cũng vui lòng làm
bạn với Hổ. Nhưng khi vừa gần gũi được với Mèo, Hổ đã nảy sinh ý định xấu, thừa
lúc Mèo đang vui vẻ trò chuyện không có ý đề phòng, Hổ nhảy đến vồ Mèo định ăn
thịt. Nhưng Mèo tinh ý nhanh nhẹn nhảy tránh được. Mèo trợn đôi mắt sáng quắc
lên nghiêm nghị:
- Anh quả là một người không tốt. Vừa mới xin
kết bạn mà anh đã giở ngay cái thói lật lọng ti tiện đê hèn ra. Nhưng nói
trước, anh không thể làm gì được tôi đâu. Tôi nhỏ bé hơn anh nhưng có thể đạp
gẫy cổ anh đấy. Liệu mà giữ thân!
Biết
mình kém tài Mèo, Hổ hết lời phân trần cho đỡ ngượng:
- Tôi chỉ muốn thử xem võ nghệ của anh có giỏi
không, có giống những gì người ta đồn đại không! Thật lòng, anh bạn Mèo thân
mến ạ, tôi không có ý định ăn thịt anh đâu, tôi rất muốn kết bạn với anh mà.
Rồi
quay ra nịnh nọt:
- Anh quả thật giỏi võ hơn người. Trong thiên
hạ này chẳng ai có thể làm gì được anh. Tôi xin bái phục, bái phục.
Mèo
nghiêm nghị vuốt râu nói:
- Xưa nay anh có tiếng là kẻ luôn lật lọng
tráo trở. Mồm lúc nào cũng nói những lời ngon ngọt tử tế nhưng trong bụng đầy
rẫy những âm mưu. Nếu thật lòng muốn kết bạn với tôi thì anh hãy thề bỏ cái
tính nghĩ một đằng làm một nẻo đi.
Thấy
Mèo lúc nào cũng ôn tồn, nghiêm nghị, Hổ không dám giỡn mà dịu giọng tha thiết
nói:
- Anh Mèo ơi, tôi thật lòng muốn kết bạn lâu
dài với anh. Tôi đã nói với anh rằng trên đời này không ai có thể sống trơ trọi
một mình, anh bắt tôi phải thế nào cho vừa lòng anh đây.
Mèo
thấy Hổ kể ra cũng đáng thương, suốt ngày phải lủi thủi một mình vì không có ai
chơi cùng, Mèo dịu dàng bảo:
- Thôi được, tôi đồng ý kết bạn với anh. Nhưng
anh phải thề không bao giờ được đùa cợt với mèo và không được vồ mèo ăn thịt.
Nếu sai lời thề anh sẽ phải chịu hình phạt nặng nề.
Hổ vội
rối rít:
- Tôi xin thề, xin thề mà!
Thấy
Hổ thề rối rít Mèo cũng vui lòng kết bạn với Hổ, Mèo hứa sẽ dạy Hổ các món võ
nghệ, phép thuật của mình. Hổ mừng lắm.
Mèo
nhiệt tình dạy, Hổ hăm hở học. Nhưng vốn ngu đần cộng với trong đầu còn vướng
nhiều điều đen tối nên Hổ học rất chậm. Mèo kiên nhẫn chỉ bảo từng miếng võ,
từng bước tiến bước lùi. Thế nhưng gần một tháng trôi qua mà Hổ mới thuộc lơ mơ
vài đường cơ bản. Mèo thì vẫn kiên trì dạy còn Hổ thấy học lâu thì sốt ruột
lắm.
Một
hôm Hổ hỏi Mèo:
- Tôi học đến nay đã vừa tròn tuần trăng, bạn
cũng dạy tôi khá nhiều rồi. Vậy xin hỏi bạn Mèo chẳng hay bằng ấy miếng võ tôi
đã đủ vốn để dùng chưa?
Thực
ra Mèo mới truyền cho Hổ được một vài món cơ bản nhưng món nào Hổ cũng lơ mơ.
Thấy Hổ sốt ruột, Mèo cũng cười ôn tồn;
- Bạn học như vậy thì chưa thành tài đâu, đây
mới chỉ là vài bài đầu, bài nào bạn học cũng chưa chọn vẹn. Nhưng nếu bạn thấy
học lâu quá thì với từng ấy món võ bạn có thể đi kiếm ăn được rồi đấy. Sau này
bạn phải luyện tập hàng ngày mới khá được. Khi nào muốn học thêm thì hãy đến
đây.
Hổ
mừng lắm, nó hài lòng với những gì đã học. Nhìn thấy Mèo béo mập, múp míp, Hổ
không thể từ bỏ ý định đen tối. Giả vờ nhờ Mèo giúp ôn lại những thế võ đã học,
lợi dụng thời cơ Mèo đang say sưa chỉ bảo Hổ nhảy bổ đến định vồ lấy Mèo nhưng
vồ hụt. Mèo tinh ý nhanh nhẹn tránh được và đạp một cái thật mạnh vào cổ Hổ rồi
lao thoăn thoắt lên ngọn cây. Mèo mắng Hổ:
- Mày là hạng xấu bụng. May mà tao chưa truyền
hết võ nghệ cho mày. Mày không đáng là bạn của tao.
Bị Mèo
đạp một cái vào cổ đau điếng đến mức không thể ngẩng đầu lên được nhưng Hổ vẫn
giả vờ làm ra vẻ bình thường, cố lấy giọng tự nhiên đáp:
- Tôi đang ôn lại những món võ mà bạn dạy cho
tôi đấy chứ. Tôi đâu có ý xấu như vậy, bạn đừng có vội trách tôi vì tôi giữ
đúng lời thề mà. Mà, bạn dạy thêm món võ trèo cây đi.
Mèo
quắc mắt:
- Đồ dối trá, lừa thầy phản bạn. Tao không cao
tay tỉnh táo thì đã trở thành miếng mồi ngon của mày rồi. Mày hãy cút về rừng
sống cô độc với cái bụng dạ xấu xa của mày đi. Cút ngay đi nếu không tao đạp
cho cái nữa thì toi mạng.
Hổ cụp
đuôi, cúi mặt, lủi thủi bước đi. Từ đó trở đi bao giờ Hổ cũng cúi mặt như thế
mà đi. Và cũng chẳng có một loài vật nào chịu kết bạn với Hổ nữa.
7. SỰ TÍCH CÁ HEO
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa có một nhà sư trẻ rất ngoan đạo. Sau bao năm trời tu hành khổ hạnh mà vẫn
chưa tu thành chính quả. Sư thầm nghĩ: "Ta phải đến đất thánh một phen mới
hòng tu thành chính quả. Nghĩ là làm, nhà sư quyết chí tìm đường sang Tây Trúc.
Đường
sang Tây Phương thật gập ghềnh hiểm trở, núi non trùng điệp, sông sâu, núi cao,
rừng rậm bạt ngàn, thú dữ rình rập ngày đêm. Biết là sẽ gặp nhiều nguy hiểm
nhưng lòng đã quyết nhà sư vẫn khăn gói lên đường. Cuộc hành trình đã được một
mùa trăng, lặn lội, vất vả, đói rét bệnh tật nhưng không có gì ngăn được lòng
quyết tâm của nhà sư. Một hôm, đến một khu rừng thì trời vừa tối, nhà sư cố
bước thật nhanh mong tìm chỗ trú chân. Đi mãi cuối cùng nhà sư cũng tìm được
một ngôi nhà bé nhỏ. Ra mở cửa là một bà cụ. Nhà sư ngỏ lời muốn xin được ngủ
trọ qua đêm nhưng bà cụ xua tay rối rít từ chối:
- Nhà ngươi hãy đi đi, con ta mà về nó sẽ ăn
thịt nhà ngươi mất.
Nhà sư
đáp:
- Tôi bây giờ đã quá mệt không thể cất bước đi
được nữa. Nếu không được vào nhà tôi xin nằm nhờ trước cửa này vậy.
Bà cụ
bảo:
- Con ta vốn là tinh tinh hay ăn thịt người.
Nhà ngươi hãy cố gắng mà đi đi. Nó sắp về rồi đấy.
Nhưng
nhà sư không còn nghe thấy bà cụ nói gì nữa, hai mắt đã dính chặt vào nhau rồi.
Chẳng biết làm thế nào bà cụ đành lôi nhà sư giấu xuống bếp, phủ rơm, lá khô
lên trên.
Vừa
hay xong thì con tinh tinh về nhà tay xách một con thỏ. Nó khịt khịt mũi và bảo
với mẹ rằng:
- Con ngửi thấy có mùi thịt người mẹ ạ!
Bà cụ
bảo:
- Ừ ! Mùi thịt con vừa mang về đấy
- Không phải, rõ ràng con ngửi thấy mùi thịt
người mà.
Không
chờ bà cụ nói thêm, nó đặt con thỏ xuống đất và chạy thẳng vào bếp. Chẳng bao
lâu, nó đã lôi được nhà sư lên. Nhà sư vẫn ngủ mê man. Khi tỉnh dậy, nhà sư
nhìn thấy con tinh tinh tay lăm lăm cầm con dao, hất hàm hỏi:
- Mày đi đâu?
Nhà sư
nhìn thấy con tinh tinh cũng giống như người bình thường nên điềm tĩnh đáp:
- Tôi đi tìm Phật !
- Tìm để làm gì?
Nhà sư
nói rõ mục đích chuyến đi của mình rồi nhân tiện giảng đạo cho tinh tinh nghe,
kể về những ngày tu khổ hạnh của mình những gian nan vất vả trên đường và về
mong muốn duy nhất là được nhìn thấy đức Phật để tu thành chính quả. Nghe nhà
sư nói, hai mẹ con tinh tinh cảm động lắm, người con tỏ vẻ hối lỗi về hành động
thiếu suy nghĩ của mình lúc nãy. Nhà sư khuyên họ sống có đức có tâm, bỏ điều
ác, làm điều thiện thì sẽ có được cuộc sống sung sướng.
Sáng
hôm sau, nhà sư tiếp tục lên đường, hai mẹ con họ chuẩn bị chu đáo lương thực
cho nhà sư ăn đường. Họ tiễn nhà sư qua một cánh rừng. Khi sắp từ biệt tinh
tinh hỏi:
- Tôi biết lấy gì dâng Phật đây?
Sư
đáp:
- "Tâm tức là Phật, Phật tức là
tâm". Chỉ cần dâng tấm lòng của mình là đủ.
Nhà sư
vừa dứt lời thì tinh tinh đã cầm ngay lưỡi dao rạch bụng mình và lôi ra cả mớ
ruột đưa cho nhà sư và nói:
- Nhờ hoà thượng dâng hộ lên đức Phật.
Nhà sư
bối rối quá chẳng biết làm thế nào đành gật đầu nhận lời rồi gói bộ lòng cẩn
thận và quảy hành lý lên đường.
Sau
mấy ngày vượt rừng vượt suối nhà sư đã ra đến biển. Biển mênh mông bao la trước
mặt. Nhà sư chuẩn bị vượt biển để qua bờ bên kia. Lúc này món lễ vật mà con
tinh tinh đáng thương kia gửi nhà sư đã bốc mùi nồng nặc. Nhà sư nghĩ: "Nó
bốc mùi nồng nặc thế này thì ta còn mang theo làm gì nữa". Nghĩ vậy nhà sư
bèn vứt bộ lòng xuống biển sâu.
Nhà sư
đi mãi rồi cũng đến Tây Phương. Nhưng khi phủ phục dưới Phật đài nói lên những
thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì từ trên điện cao có tiếng hỏi
vọng xuống:
- Trên đường nhà ngươi đi đến đây, có ai gửi
nhà ngươi vật gì để dâng Phật không?
Nhà sư
bèn thuật lại câu chuyện gặp hai mẹ con nhà nọ trong rừng và về bộ lòng người
con gửi. Trên đường đi đến đây do nó bốc mùi hôi thối nồng nặc nên nhà sư đã
quẳng bộ lòng xuống biển.
Đức
Phật trách nhà sư và bảo quay về đấy tìm lại bộ lòng vì nó là tấm chân thành
của người mộ đạo. Nhà sư thất thểu quay về nơi cũ, biển mênh mông và sâu thẳm,
nhà sư cố lặn hụp để mong lấy lại món quà đấy. Hụp lặn suốt ngày này sang ngày
khác mà chẳng tìm thấy bộ lòng đâu. Nhà sư biến thành loài cá heo. Có nơi người
ta còn gọi là cá ông sư vì loài cá đó con nào cũng có cái đầu trọc như nhà sư
và vẫn làm công việc của nhà sư, cứ lặn xuống, nổi lên tìm bộ lòng không chịu
nghỉ.
8. THỎ NÂU XỬ KIỆN
- Truyện cổ tích Xianm -
Ngày
ấy, ở một làng nọ có một anh nhà giàu sống sung sướng trong lụa là gấm vóc.
Cạnh nhà anh ta là túp lều của hai vợ chồng nông dân nghèo. Hai nhà tuy có hoàn
cảnh khác nhau nhưng lại xây dựng được tình xóm giềng rất tốt. Họ thường qua
lại nói chuyện với nhau.
Một
hôm có anh thương gia là bạn của anh nhà giàu sang nhà anh nhà nghèo chơi. Ngồi
nói chuyện một lúc thì mọi người ngửi thấy mùi xào nấu từ bếp anh nhà giàu bay
sang. Vợ anh nhà nghèo nói
- Vợ chồng nhà tôi ăn cơm đúng vào lúc bếp nhà
anh nhà giàu xào rau, rán cá thơm phức. Ngửi mùi xào nấu đó chúng tôi chẳng cần
ăn cũng thấy no rồi. Anh thấy đấy, cả hai vợ chồng tôi đều béo tốt thế này cơ
mà.
Người
đấy nghe xong liền kể lại cho anh nhà giàu nghe. Nghe xong anh nhà giàu mới
hiểu là tại sao nhà mình ăn toàn những món ngon mà chẳng bao giờ thấy có mùi
vị, cả nhà ăn đều không thấy ngon và ngày càng gầy đi. Thế là anh nhà giàu giận
anh nhà nghèo ra mặt. Còn anh nhà nghèo thì không hiểu tại sao ông bạn láng
giềng giàu có của mình tự dưng lại ghét mình đến thế.
Anh
nhà giàu nghĩ: "Phải làm cho ra nhẽ vụ này" vì thế tức tốc vào kinh
thành kính cẩn tâu vua câu chuyện trên. Vua cho gọi anh nhà nghèo đến hỏi:
- Chuyện anh nhà giàu nói thế có đúng không?
- Đúng ạ - Anh nhà nghèo trả lời: Chúng con
ngửi mùi thịt, cá nấu nướng ở bếp nhà hàng xóm bay sang và ăn cơm nhà mình ạ.
Nhà
vua nghĩ mãi không biết xử trí thế nào bèn nổi trống triệu tập triều đình và
dân chúng lại tuyên bố:
- Ai xử được vụ kiện giữa anh nhà giàu và anh
nhà nghèo ta sẽ phong cho làm tể tướng.
Cả
nước lan truyền lệnh vua nhưng chưa thấy ai nhận xử vụ này. Sứ giả nhà vua đi
mãi, cuối cùng gặp được thỏ nâu. Thỏ nâu hỏi:
- Bác sứ giả ơi, có chuyện gì xảy ra vậy?
- Nhà vua đang rất bối rối vì có anh nhà giàu
và anh nhà nghèo kiện nhau. Vua sai tìm người tài giỏi xử giúp. Nếu ai xử được
sẽ được phong làm tể tướng - Sứ giả trả lời.
- Hãy về thưa với nhà vua rằng tôi sẽ xử được
vụ này - Thỏ vừa nhai rau ráu cà rốt vừa trả lời.
- Vậy thì đi ngay thôi.
Thỏ
nâu theo sứ giả vào cung. Nghe sứ giả tâu là có một con thỏ muốn nhận xử vụ
này, nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng rồi nhà vua cũng đồng ý và ra lệnh cho thỏ:
- Nhà ngươi phải xử cho công bằng để dân chúng
được thấy. Nếu xử không công bằng ra sẽ chém đầu nhà ngươi.
- Cái đó tuỳ ngài - Thỏ nâu trả lời.
Thỏ
nâu ngồi lên ghế quan toà và bắt đầu xét xử. Thỏ cho gọi anh nhà giàu và vợ
chồng anh nhà nghèo đến. Thỏ hỏi anh nhà giàu trước:
- Theo anh mùi vị thức ăn mà anh nhà nghèo
ngửi phải trả với giá bao nhiêu?
Anh
nhà giàu ngãi tai, mãi mới ấp úng trả lời:
- Tôi nghĩ phải đáng trăm đồng bạc, không kém.
Thỏ
quay sang anh nhà nghèo hỏi:
- Có phải vợ chồng anh ăn cơm vào lúc bếp nhà
hàng xóm bốc mùi xào rán thức ăn không?
- Đúng đấy ạ - anh nhà nghèo trả lời - Chúng
tôi ăn cơm vào lúc đó. Ông biết không mùi thức ăn của họ bay lên ngào ngạt.
- Thế anh có vào nhà hàng xóm khi họ xào nấu
thức ăn không?
- Không bao giờ.
Thỏ quay
ra chất vấn anh nhà giàu:
- Anh nhà nghèo nói không sai chứ.
- Không sai. Anh ta không đến bao giờ - Anh
nhà giàu trả lời.
Thỏ
nâu quay lại chỗ nhà vua, xin cho mượn trăm đồng bạc và ra lệnh lấy rèm vải
ngăn phòng xử ra làm đôi, một bên anh nhà nghèo ngồi, một bên anh nhà giàu
ngồi, sau đó Thỏ đưa tiền cho anh nhà nghèo:
- Hãy đếm đi, đếm to vào. Thỏ bảo: Còn anh nhà
giàu, hãy chú ý nghe tiếng đếm.
Anh
nhà nghèo đếm: "Một, hai, ba,..., một trăm".
Khi
đấy Thỏ nói với anh nhà giàu:
- Thế nào, ông nhận đủ một trăm rồi chứ.
Rồi
Thỏ quay ra nói lớn:
- Anh nhà nghèo chỉ ngửi mùi thức ăn mà không
được ăn nên đã trả tiếng đếm tiền cho anh nhà giàu. Như vậy là công bằng. Phiên
toà kết thúc.
Lúc
chuẩn bị ra về, Thỏ nâu bảo:
- Những chuyện lặt vặt như thế này các ngươi
phải tự giải quyết lấy, không phải chuyện gì cũng đưa nhau ra tòa xét xử mất
thời gian công sức mà lại mất cả tình hàng xóm láng giềng nữa.
Hai
người gật đầu xin hứa sẽ sống tốt hơn để không làm phiền ai và giữ được tình
người.
9. CHUYỆN RÙA VÀ KHỈ
- Truyện cổ tích Trung Quốc -
Ngày
xưa, có một bác rùa già sống cùng vợ và gia đình trong một cái hồ lớn, bao
quanh hồ là một khu rừng rộng lớn, trong rừng có rất nhiều thú hoang. Đặc biệt
là loài khỉ, chúng di chuyển thành đàn với số lượng lớn theo bờ hồ.
Vào
một ngày nọ, bác rùa ra khỏi hồ nước và đi dạo giữa những tán cây mọc gần mép
nước. Chợt bác thấy đói và tìm thấy có một cây dừa sai quả gần đấy. Bằng mọi sự
cố gắng một cách vụng về, bác rùa cũng không thể trèo lên trên cây dừa hái quả
được. Rất thất vọng, định bỏ cuộc, chợt bác trông thấy có một con khỉ to đang
ngồi giữa những đám lá của cây dừa. Con khỉ quan sát sự nỗ lực leo lên cây dừa
của bác rùa. Thương tình nó bẻ hai trái dừa ném xuống cho bác rùa. Bác rùa vui
vẻ ăn với lòng biết ơn.
Bấy
giờ hai con vật bắt chuyện với nhau và chẳng mấy chốc trở nên thân thiết. Khỉ
dẫn bác rùa vào sâu trong rừng và chỉ cho bác thấy cái hang ấm áp mà nó vừa tìm
được. Bác rùa thích thú với những gì nhìn thấy, bác hài lòng vứi người bạn khỉ
đến mức ở lại trong rừng vài ngày, ban ngày đi dạo, tối về ngủ cùng khỉ trong
hang.
Ở nhà
vợ bác rùa càng ngày càng lo lắng về sự vắng mặt lâu ngày của chồng. Thím rùa
sai một đứa con của mình đi tìm xem cha nó đang ở đâu và ông ấy sống ra sao.
Thế là chú rùa con bơi vào bờ, sau một hồi tìm kiếm chú thấy cha mình ở gần một
cái hang.
- Cha ơi, mẹ sai con đi tìm cha xem cha sống
như thế nào - Chú nói.
- Ồ, cha vẫn ổn, con trai ạ - Rùa cha đáp -
Nói với mẹ là đừng lo lắng gì cho cha, cha đang sống rất vui vẻ, vài ngày nữa cha
sẽ về.
Rùa
con quay trở lại hồ nước và kể cho mẹ nghe những gì đang xảy ra. Thím rùa nghe
xong cảm thấy không hài lòng trước cách cư xử của chồng mình. Thím rùa muốn
chồng mình quay trở về nhà với vợ con ngay lập tức. Vì thế thím rùa lại sai cậu
con trai mình quay trở lại chỗ cha cậu với lời nhắn: Mẹ đang bị bệnh nặng và
thầy thuốc nói rằng chỉ có trái tim một con khỉ mới có thể chữa khỏi bệnh được.
Do đó, bác rùa phải trở về ngay lập tức và mang theo một con khỉ.
Rùa
con lại đi tìm cha một lần nữa. Gặp cha chú nhắn lại lời của mẹ. Nghe tin giữ,
bác rùa rất lo lắng và tự trách mình bỏ nhà đi lâu quá, không để ý chăm sóc vợ
con để bây giờ vợ mình bị bệnh nặng. Bác báo cho người bạn khỉ là mình phải
quay về nhà ngay lập tức và mời chú khỉ về nhà chơi vài ngày. Chú khỉ không
nghi ngờ gì và vui vẻ nhận lời. Thế nhưng khi biết là mình phải xuống hồ nước
thì khỉ ta e ngại, chú rất sợ nước và cũng chả biết bơi.
- Đừng lo về điều ấy - Bác rùa nói - Bạn cứ
trèo lên lưng tôi, tôi sẽ trở anh qua hồ.
Thế là
khỉ trèo lên lưng rùa và bác rùa bơi về nhà. Trên đường đi bác rùa vui vẻ kể
chuyện cho khỉ nghe, kể về bệnh tình của vợ. Trong lúc cao hứng, bác dại dột
buột miệng rằng phương thức duy nhất để cứu vợ mình khỏi bệnh đấy chính là một
trái tim của một con khỉ. Nghe vậy, chú khỉ rất sợ hãi và nhận thấy rằng mình
đang bị dẫn vào một cái bẫy. Nhưng rất nhanh chóng lấy lại được bình tĩnh, chú
khỉ nghĩ ra cách giải nguy. Chú khỉ nói với bác rùa:
- Anh rùa thân mến, tôi rất đau lòng nghe tin
về bệnh tình của vợ anh, nhưng nếu bệnh tình của chị nhà tệ như thế thì tôi
nghĩ rằng một trái tim khỉ sẽ không đủ. Theo tôi phải có thêm hai, ba trái tim
khỉ thì việc chạy chữa mới có hiệu quả. Nếu anh muốn, tôi có thể dễ dàng gọi
vài chú khỉ nữa trong số bạn bè của tôi để cùng theo về nhà anh.
Bác
rùa nghĩ thế thì còn gì bằng nên đồng ý. Cả hai bơi trở lại bờ. Ngay khi lên
được bờ khô ráo, chú khỉ nhảy khỏi lưng rùa thật nhanh và trong nháy mắt đã
trèo lên ngọn cây cao nhất mà chú có thể tìm thấy. Từ trên cao chú khỉ nói vọng
xuống:
- Ông là loại bạn bè tử tế quá nhỉ. Ông mời
tôi đến nhà ông chơi để giết tôi và lấy trái tim tôi để chữa bệnh cho mụ vợ độc
ác của ông. Ông trả ơn tôi cho tất cả những gì tôi làm cho ông trong khu rừng
này như vậy phải không? Nhưng ông đã không thể làm được điều ông muốn bởi vì
ông chỉ là một con rùa vô ơn bạc nghĩa và ngu ngốc, đần độn. Đừng có mơ quay về
với trái tim của tôi và của những người bạn tôi. Hãy thử xem ông sẽ làm được gì
để cứu mụ vợ xấu xa của ông.
Nghe
những lời chửi rủa này, bác rùa nổi giận đùng đùng và vài lần cố gắng trèo lên
cây để chừng trị chú khỉ, nhưng không thể trèo được. Bác đành bỏ cuộc nhưng
trong bụng vẫn quyết tâm bắt được một con khỉ để đem về chữa bệnh cho vợ.
Thế là
bác rùa nấp mình dưới hồ nước chờ đến tối, bác bơi nhẹ nhàng và bờ và tiến về
phía cái hang nơi mà bác và khỉ đã chung sống. Bác dấu mình trong một góc tối
chờ cho chú khỉ vào hang.
Tuy
nhiên chú khỉ thừa thông minh để không bị mắc vào cái bẫy đơn giản như thế. Như
thường lệ, đến giờ ngủ, chú trở về hang nhìn vào trong kêu lớn:
- Ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt!
Sau
vài phút im lặng, chú khỉ lại la lớn một lần nữa:
- Ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt!
Bác
rùa vẫn nằm im trong hang, không có biểu hiện gì.
Chú
khỉ giả vờ nói với mình nhưng chủ yếu là cho bác rùa nghe thấy:
- Lạ nhỉ, lạ nhỉ! Mọi khi luôn có tiếng vọng
lại ở trong hang kia mà, sao tối nay mình lại không nghe thấy một tiếng vọng
nhỏ nào nhỉ.Chắc có điều không ổn đây.
Và chú
khỉ giả vờ lại la lớn hơn: ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt!
Ở
trong hang, bác rùa nghe rõ những điều khỉ nói. Bác xuẩn ngốc nghĩ rằng nếu bác
giả vờ làm tiếng vọng lại thì chú khỉ sẽ tin và vào hang như thường lệ. Do vậy
từ trong góc hang tối bác nói vọng ra:
- Ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt!
Nghe
thấy thế, chú khỉ tủm tỉm cười một mình vì tính ngốc nghếch của bác rùa và đi
tìm chỗ ngủ khác ở trong rừng.
10. CÔNG CHÚA ẾCH
- Truyện cổ tích Pháp -
Ngày
xửa ngày xưa, ở một đất nước xa xôi nọ, có một cặp vợ chồng già có tới bảy người
con. Các cô con gái đều xinh đẹp duy chỉ có cô thứ bảy lại là một con ếch. Cha
mẹ cho cô út ở một gian phòng nhỏ và chăm sóc như những người con khác. Nàng
Ếch cũng nói được tiếng người, và cùng lớn lên với các chị của mình.
Một
hôm, trong hoàng cung nhà vua mở hội kén vợ cho hoàng tử. Theo phong tục từ xưa
để lại, tất cả những cô gái chưa có chồng tại xứ sở này được mời đến hoàng cung
hai ngày để dự tiệc. Cô nào lọt vào mắt xanh của hoàng tử thì sẽ được chọn làm
vợ. Trên cả đất nước, các cô gái nô nức chuẩn bị đi dự tiệc tại triều đình. Sáu
cô con gái của vợ chồng già nọ cũng sắm sửa bộ hành đi dự hội. Nàng Ếch cũng
muốn đi nên thẽ thọt hỏi các chị mình:
- Các chị có thể cho em theo cùng được không?
Nhưng
các cô chị đã không đồng ý. Họ nói với nhau:
- Nếu để con ếch đi theo thì thật là xấu mặt!
Thiên hạ sẽ cười vào mặt chúng ta mất.
Thế
rồi họ diện những bộ quần áo đẹp nhất và lên đường. Nàng Ếch nghe các chị nói
vậy cũng không lấy làm buồn phiền. Chờ các chị đi khỏi, Ếch lặng lẽ đi theo.
Dọc đường, nàng chui vào một bụi rậm, trút bỏ bộ da ếch, lập tức biến thành một
cô gái đẹp tuyệt vời. Rồi nàng vội vã đến hoàng cung.
Hoàng
cung được trang hoàng lộng lẫy, mọi người vui vẻ dự tiệc nhưng ai cũng rất chú
ý đến vị hoàng tử đẹp trai ngồi phía trên. Còn hoàng tử lại chẳng để ý đến ai.
Nhưng khi nhìn thấy nàng Ếch bước vào chàng thấy đây là cô gái xinh đẹp nhất và
chàng đem lòng thương nhớ, quyết định coi nàng là vợ mà không cần biết gốc gác
của nàng ra sao và từ đâu đến.
Ngày
đầu tiên của lễ hội kén vợ qua đi, hoàng tử vẫn chưa công khai tuyên bố sự lựa
chọn của mình. Chàng vẫn niềm nở tiếp đón các cô gái và các vị khách quí.
Nàng
Ếch, sau bữa tiệc lại bí mật trở về theo con đường rừng. Đến chỗ bụi rậm, nàng
lấy bộ da ếch khoác lên người và lại biến thành con ếch. Nàng trở về nhà trước
khi sáu cô chị về nhà.
Hôm
sau, sáu cô chị lại lên đường, nàng Ếch lại đòi đi theo nhưng các cô chị vẫn từ
chối. Chờ cho các chị đi khỏi, nàng Ếch lại đi theo. Nàng lột bộ da ếch dấu
trong bụi rậm và biến thành nàng tiên xinh đẹp bước vào hoàng cung.
Lúc
này, hoàng tử đã nhìn thấy nàng Ếch xinh đẹp và vẫn quyết định lấy nàng làm vợ.
Tuy nhiên, ngày thứ hai của lễ hội kén vợ qua đi mà hoàng tử vẫn chưa công khai
lấy ai làm vợ mình. Các cô gái lần lượt ra về và vẫn nuôi niềm hy vọng. Nàng
Ếch vội vã theo con đường rừng trở lại chỗ bụi rậm, lấy bộ da ếch khoác lên
người và kịp về nhà trước các cô chị của mình. Nàng yên tâm đi ngủ vì nghĩ rằng
không ai biết những gì nàng đã làm. Xong có một người đã biết rõ tất cả. Người
đó chính là hoàng tử. Chàng đã bí mật đi theo nàng kể từ khi nàng rời khỏi
hoàng cung và đã chứng kiến tất cả.
Một
thời gian ngắn sau, người ta thấy văn võ bá quan triều đình cùng binh lính rầm
rập kéo đến nhà của cặp vợ chồng già nọ. Sáu cô chị vui mừng khấp khởi, ai cũng
hy vọng hoàng tử sẽ chọn mình. Nhưng không ai để mắt đến họ. Các quan đến phòng
nàng Ếch và mời nàng lên kiệu. Trước sự lựa chọn đấy, ai cũng buồn cười và nhạo
báng hoàng tử. Còn nhà vua thì nổi giận đuổi chàng ra khỏi hoàng cung và truất
quyền thừa kế ngôi vị của hoàng tử.
Hoàng
tử vâng lệnh vua cha rời khỏi hoàng cung và đưa nàng Ếch ra vùng ngoại thành
sinh sống, chàng yêu thương nàng Ếch hết mực.
Nàng
Ếch kể từ khi lấy hoàng tử thì chưa một lần nào hiện trở lại thành người. Đêm
đêm khi hoàng tử ngủ say, nàng lại lột bỏ lớp vỏ ếch trở lại thành người đẹp và
đến bên chồng âu yếm.
Thế là
hoàng tử và nàng Ếch mỗi người một thế giới nhưng sống với nhau rất hạnh phúc,
yêu thương và gắn bó với nhau.
Nhưng
cứ phải sống mãi với cảnh người và ếch như thế này, hoàng tử không thể nào chịu
nổi. Rồi một hôm, chàng giả vờ ngủ thật say. Nàng Ếch không nghi ngờ gì, trút
bỏ bộ da ếch trở thành người đẹp và đến bên chồng. Hoàng tử nhìn thấy tất cả
cảnh đó, chợt chàng vùng dậy vồ lấy bộ da ếch và ném vào bếp lò. Vậy là nàng
Ếch không làm sao trở lại lốt ếch được nữa. Từ đó hai vợ chồng sống với nhau
rất hạnh phúc.
Chuyện
lạ đến tai vua cha, người vui mừng khôn xiết cho gọi hai vợ chồng hoàng tử trở
về cung và truyền ngôi báu cho chàng.
11. CON THỎ KHÔN NGOAN
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa, trong khu rừng cổ thụ bạt ngàn, có một con sư tử tự xưng mình là chúa tể
sơn lâm. Nó cho mình là to nhất, khoẻ nhất và hàng ngày nó ra lệnh cho các loài
thú phải lần lượt đến nộp mạng cho nó. Chẳng có loài vật nào trong rừng đấu lại
được với sư tử nên mỗi lần đến lượt con thú nào phải đi nạp mạng cho sư tử thì
cả rừng đều rủ nhau đến chia buồn và tìm lời an ủi.
Hôm
ấy, Thỏ đến lượt phải đi nạp mạng. Các loài thú trong rừng rủ nhau kéo tới ngôi
nhà của thỏ để chia buồn. Trong lúc các loài thú như cọp xám, voi, nai, hươu,
cáo, cầy... khóc lóc, than vãn, tiếc thương cho Thỏ thì Thỏ lại ung dung nhai
cỏ, lâu lâu nó lại ghé mắt nhìn các bạn mình và cười tủm tỉm một mình. Khỉ già
thấy vậy lạ lắm, bèn hỏi Thỏ:
- Này Thỏ ơi, cái chết đang cận kề bạn rồi,
sao bạn lại ung dung và thản nhiên vậy? Bạn không xót thương cho mình sao?
Thỏ
ngừng nhai cỏ và trả lời:
- Này các bạn thân mến của tôi ơi, tôi rất cảm
động trước sự thương tiếc mà các bạn dành cho tôi. Nhưng lần này tôi đi, tôi sẽ
kết liễu tên chúa sơn lâm độc ác đó để cho tất cả loài vật trong rừng già này
được yên ổn sống. Chỉ hơi tiếc là phiên của tôi đến muộn, nếu đến lượt tôi sớm
hơn thì nhiều bạn khác đã không phải uổng mạng rồi. Các bạn đừng buồn khóc, tôi
sẽ không sao đâu.
Nghe
vậy, các loài thú trong rừng nhao nhao lên:
- Thỏ ơi, Lão sư tử đã làm hại chúng ta rất
nhiều rồi, ai cũng căm thù nó và mong có người trừng trị nó. Nhưng chẳng hay
chú có làm được điều đó không? Nếu làm được chúng tôi sẽ tôn chú lên làm chúa
tể sơn lâm thay nó.
Thỏ
nhếch mép trả lời:
- Các bạn ơi, tôi nhất định sẽ làm được điều
đó. Chỉ trong ngày hôm nay thôi, tôi sẽ đem tin mừng đến cho mọi người.
Nói
rồi Thỏ chia tay các bạn rồi lên đường đến hang sư tử. Nó đã có kế hoạch sẵn
trong đầu nên đi chậm rãi, lúc dừng lại bên gốc cây nhai cỏ, nghe chim hót, lúc
dừng bên khe suối soi mình. Thấy bóng mình dưới nước, Thỏ chợt nảy ra ý định
mới. Thỏ liền rảo chân đi một mạch đến hang sư tử.
Vì mải
chơi dọc đường, Thỏ đến muộn. Vừa nhìn thấy Thỏ ló đầu vào sư tử đã gầm vang
lên:
- Này, thằng nhãi! Tại sao mày đến muộn thế
hả? Mà ai cắt cử mày đến đây, Mày nhỏ bé thế này ta ăn làm sao đủ. Hãy quay về
bảo con khác to lớn hơn đến đây nộp mạng.
Thỏ
đủng đỉnh trả lời :
- Ông chúa tể sơn lâm ơi! Tôi đến đây không phải
để nộp mạng cho ông đâu mà chưa chi ông đã chê bé, chê gầy. Tôi đến đây để dẫn
ông đi đến một nơi có con thú to gấp đôi, gấp ba lần ông đấy. Nếu ông bằng lòng
thì phải đi ngay nếu không con thú ấy đi mất.
Lâu
nay, sư tử coi mình là to nhất rừng già, vậy mà giờ đây lại có con thú to gấp
đôi, gấp ba lần nó thì vô cùng tức giận.
- Này, cái thằng lẻo mép kia, mày đừng có nói
láo. Tao được trời phong làm chúa tể sơn lâm, to khoẻ nhất khu rừng già này thì
làm gì có con vật nào to hơn được nữa. Nếu quả đúng có con vật to như lời mày
nói thì hãy dẫn tao tới ngay chỗ đó để tao thử sức với nó xem sao.
Thỏ
cười thầm trong bụng, lẩm bẩm:
- Cái con sư tử già khọm tham lam mà ngu dốt
kia, hôm nay là ngày tận thế của mày rồi đấy.
Thế
rồi nhanh thoăn thoắt Thỏ dẫn đường cho sư tử đến bờ suối nước trong leo lẻo
lúc nãy Thỏ đứng soi mình. Đến nơi Thỏ bảo:
- Kia kìa, con thú mà tôi nói lúc nãy đang bơi
lội dưới vực sâu. Nó vừa to, vừa béo, nếu ông tóm cổ được nó thì ông sẽ được
một bữa no nê đấy.
Sư tử
vừa già vừa yếu, lại phải cố chạy cho kịp Thỏ nên đã mệt nhoài, mồm thở hồng
hộc, mắt hoa. Nghe Thỏ nói vậy liền ra đứng cạnh Thỏ nhìn xuống suối. Quả thật,
sư tử nhìn thấy bóng một con vật lồng lộn dưới suối sâu, nó vừa to, vừa béo. Sư
tử gầm vang một tiếng định doạ con thú dưới suối sâu kia thì lại nghe con thú
gầm trở lại to hơn. Tức mình, nó lao xuống nước định tóm cổ cho bằng được con
thú dám to gan doạ lại nó.
Sư tử
già yếu lại không biết bơi nên bị dòng suối chảy xiết cuốn đi. Nó cố ngoi lên,
ngụp xuống vài lần rồi mất hút trong dòng nước.
Thấy
sư tử trôi theo dòng nước, Thỏ rất mừng vui, nó nhanh chân chạy về báo tin cho
bạn bè của mình biết. Được tin vui, muôn thú hân hoan nhảy múa chúc mừng chiến
công của Thỏ. Thỏ thông minh nhanh trí được các loài thú suy tôn là chúa tể
rừng xanh. Từ đó muôn loài được sống bình yên trong khu rừng già đó.
12. SỰ TÍCH CON CHẪU CHUỘC
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Truyện
xưa kể rằng, ở xứ Thanh có một lão nhà giàu có nhưng rất keo kiệt, bủn xỉn. Lão
nuôi trong nhà một anh cố nông nghèo hèn nhưng hiền lành, khoẻ mạnh. Cha mẹ anh
mất sớm chẳng để lại cho anh cái gì ngoài một túp lều rách và một cái chõng
tre.
Vào
một ngày cuối năm, anh xin lão nhà giàu về nhà đẻ hương khói cho cha mẹ cho
vong linh họ đỡ tủi. Lão nhà giàu đong cho anh năm bát gạo rồi để anh về. Về
đến nhà ngoài năm bát gạo ra anh chẳng có gì để nấu. Anh phải sang nhà hàng xóm
xin ít củi. Rồi anh thấy thắp hương cho cha mẹ mà chỉ có mỗi bát cơm cúng không
thôi thì hẳn cha mẹ anh buồn tủi lắm. Anh liền cầm cái gầu sòng ra suối tát cá.
Lúc
bấy giờ cũng đã gần nửa đêm ba mươi Tết, các quan trên trời được Ngọc Hoàng sai
xuống trần gian xem xét mọi việc. Gặp anh cố nông đang tát cá, các quan hạ mây
xuống đất, và hỏi:
- Này
anh kia, năm hết tết đến rồi, sao giờ này anh vẫn ở đây tát cá. Về nhà mà ăn
tết với gia đình đi thôi chứ.
Thấy
có người, hỏi anh dừng tay:
- Thế các người là ai?
- Ta là các quan trên trời được Ngọc Hoàng sai
xuống xem dưới hạ giới ăn tết ra sao.
Nghe
nói đến các quan trên trời, anh vô cùng giận giữ. Sẵn có cái gàu sòng tát cá
anh nện túi bụi vào các quan, vừa đánh vừa nói:
- Trời
bảo "ai giàu ba họ, ai khó ba đời". Vậy mà nhà tôi khổ suốt bốn, năm
đời rồi mà vẫn chưa hết khổ.
Các
quan bị đánh đau quá vội quay về tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng vội vàng mở sổ
Nam Tào ra tra xét thì thấy có điều bất công đấy thật. Anh chàng kia đã khổ quá
ba đời, còn lão hà tiện thì sống sung sướng quá ba đời rồi. Thật là một sai sót
cần phải sửa ngay.
Anh cố
nông sau khi tát được ít cá thì trở về nhà. Lúc này sang năm mới. Vừa về đến
nhà một lát thì có một cô gái đi qua nói là lỡ độ đường xin được ngủ nhờ một
đêm. Lúc đầu anh không chịu, xong nhìn thấy cô mệt mỏi, lại đã sang năm mới rồi
nên anh thương tình cho ngủ nhờ. Anh nhường chiếc chõng tre cho cô còn anh ôm
bó rơm ra nằm xó lều.
Sáng
hôm sau, tỉnh dậy, anh không thể tin vào mắt mình. Túp lều của anh đã biến
thành một toà lâu đài nguy nga, rực rỡ, đầy người hầu kẻ hạ. Chợt cô gái đêm
qua xin ngủ nhờ nói:
- Anh hãy sang mời phú ông đến ăn tết đi.
Nghe
lời cô, anh sang nhà phú ông mời lão sang. Lúc đầu nghe anh nói xong, lão phì
ra cười nhưng sau thấy anh nài nỉ quá lão đành trả lời cộc lốc:
- Mày có thể trải chiếu hoa suốt từ ngõ nhà
mày đến đây không? Nếu được tao sẽ sang.
Anh
thất vọng về nói với cô gái. Cô gái an ủi anh rồi đoạn cô ra nhà sau mang đến
không biết bao nhiêu chiếu hoa rực rỡ. Anh cố nông chỉ việc đem trải từ ngõ đến
nhà lão hà tiện.
Về
phần lão hà tiện, sau khi làm anh cố nông bẽ mặt thì lấy làm hả hê lắm. Một lúc
sau, thấy người nhà bảo anh cố nông đã trải chiếu hoa từ ngõ nhà anh đến nhà
lão thì lão ngạc nhiên lắm. Lão hối hả đi ngay. Sang đến nơi, lão bị choáng
ngợp trước tòa lâu đài nguy nga rực rỡ, to gấp mấy trăm lần dinh cơ của lão.
Bữa
cơm ở nhà anh cố nông thật ngon. Về nhà rồi lão vẫn thòm thèm và dạ đầy luyến
tiếc. Máu tham đùng đùng trỗi dậy. Lão bàn với vợ:
- Hay là ta đổi nhà mình cho nó đi.
- Ông có bị làm sao không đấy, nhà nó to đẹp
như vậy đời nào nó chịu đổi lấy nhà mình - Vợ lão nói.
- Ta phải có cách chứ - Lão trầm tư suy nghĩ -
à, phải rồi, con gái, ta có đứa con gái. Gả con gái cho nó, đã là con rể mình
rồi, thì bảo gì mà nó chẳng nghe.
Mụ vợ
cũng cho là phải. Hai vợ chồng lão hý hửng gọi anh cố nông đến bàn về việc gả
con gái cho anh rồi sau đó đổi nhà. Anh đồng ý. Hai bên làm giấy tờ thoả thuận
với nhau.
Sau
đám cưới linh đình, đôi vợ chồng trẻ về ở nhà lão hà tiện, còn vợ chồng lão thì
về toà lâu đài của anh cố nông. Vợ chồng lão hý hửng ra mặt. Đêm hôm đấy hai vợ
chồng lão ngủ trong sự sung sướng tột đỉnh.
Sáng
hôm sau, khi tỉnh dậy, ôi thôi, toà lâu đài nguy nga tráng lệ cùng với những
gia nhân đông vui tấp nập biến đâu mất. Chỉ còn lại mỗi túp lều tranh rách nát
cùng với cái gàu sòng và rổ xúc tép của anh cố nông. Còn hai vợ chồng lão thì
đang nằm ôm nhau ngủ trên chiếc chõng tre tồi tàn. Quá đau đớn xót xa, hai vợ
chồng lão quay ra cãi nhau. Chồng bảo "chuộc" lại, vợ giận chồng
khăng khăng cãi "chả chuộc". Cứ thế cãi nhau một hồi lâu, "chuộc
- chả chuộc" tức quá lão hà tiện túm lấy vợ đánh cho một trận, vợ lão cũng
không vừa, túm chồng đánh lại miệng luôn luôn nói "chuộc - chả
chuộc". Quá mải mê đánh nhau, cả hai rơi tòm xuống giếng trước cửa nhà.
Sau khi chết chúng hoá thành hai con chẫu chuộc cứ suốt ngày ôm nhau
"chuộc - chả chuộc". Đáng đời kẻ tham lam.
13. TẠI SAO GÀ TRỐNG CÓ MÀO ĐỎ
- Truyện cổ tích Trung Quốc -
Ngày
xửa ngày xưa, cách đây lâu lắm rồi, khi trời đất vừa hình thành, thay vì có một
mặt trời toả ánh nắng ấm áp xuống trần gian như bây giờ thì có sáu mặt trời
chiếu sáng trên bầu trời. Vào một ngày mùa xuân nọ, khi những người nông dân
mất bao nhiêu thời gian vất vả cho việc gieo hạt giống cho vụ mùa thì trời
không có lấy một giọt mưa. Sáu mặt trời cùng nhau chiếu những ánh sáng chói
chang xuống mặt đất làm cho cây cối khô héo, đất đi nứt nẻ.
Lúc
bấy giờ, hoàng đế Trung Hoa nhìn thấy cảnh tượng đó thì vô cùng đau lòng. Ông
nói với các triều thần:
- Nếu mặt trời cứ tiếp tục chiếu sáng như thế
này thì thần dân của ta sẽ chết hết thôi.
Nhà
vua cho mời mười vị thông thái nhất đất nước đến hoàng cung cùng bàn bạc phương
thức giải quyết cứu lấy vụ mùa của họ. Bàn bạc rất lâu mà không ai đưa ra được
một phương án khả thi nào. Bỗng một vị trưởng lão nói:
- Cách duy nhất là bắn mặt trời.
Những
nhà thông thái khác đều đồng ý. Nhà vua rất mừng vì sau cùng đã có cách cứu mùa
màng. Người cho các cận thần đi khắp nơi để tìm kiếm những tay cung thiện xạ và
triệu họ về cung. Những người bắn cung thiện xạ đều rất khoẻ mạnh, mỗi người
đều mang theo cây cung thật lớn trên vai, hãnh diện đến phụng sự đức vua vĩ
đại.
Thế
nhưng dù những tay cung này có khỏe đến mấy, giỏi đến mấy thì những mũi tên bắn
ra chỉ đi được nửa đoạn đường đén chỗ mặt trời chiếu sáng. Những mặt trời tiếp
tục chiếu xuống mặt đất nóng bỏng.
Sau
đó, có những người ở phương xa đến mách rằng:
- Hoàng tử Hậu Nghệ ở vương quốc láng giềng là
một tay cung thiện xạ. Hãy mời anh ta đến.
Nhà
vua sai các sứ giả sang nước láng giềng mời hoàng tử Hậu Nghệ đến hoàng cung.
Hậu Nghệ vui vẻ nhận lời.
Dân
chúng tụ họp thật đông dưới bầu trời để xem những mũi tên của Hậu Nghệ có bay đến
mặt trời được không. Khi mọi người tụ họp lại vua ra lệnh:
- Hãy bắn rơi sáu mặt trời và cứu lấy thần dân
của ta.
Hậu
Nghệ nhìn sáu mặt trời rồi nâng cung lên, nhưng chàng buồn bã lắc đầu, hạ cung
xuống, tâu với nhà vua:
- Sáu mặt trời ở xa quá, những mũi tên yếu ớt
của thần không thể bay đến được.
Thế
rồi Hậu Nghệ nhìn thấy sáu mặt trời chói chang phản chiến trong hồ nước và
chàng nghĩ: "Bắn chúng ở đó thì cũng vậy thôi".
Chàng
giương cung lên và mũi tên của chàng xuyên thủng mặt trời thứ nhất, nó biến mất
trong đáy hồ. Chàng bắn tiếp mặt trời thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư, thứ năm.
Mặt
trời thứ sáu nhìn thấy những gì đang xảy ra, nó hoảng sợ đến nỗi biến mất sau
quả đồi. Mười vị trưởng lão rất hài lòng vì cả sáu mặt trời đều đã bị tống khứ
đi.
Ngày
hôm sau, khi mọi người thức dậy sau giấc ngủ dài thì không thấy ngày mới nữa,
vị mặt trời thứ sáu không chịu ra khỏi chỗ nấp để chiếu sáng trở lại. Tất cả
đều chìm trong bóng tối. Mười vị trưởng lão lại họp với nhau trong bóng tối,
bàn bạc xem có thể làm gì. Họ quyết định tìm một người nào đó gọi mặt trời thứ
sáu ra để có ngày mới.
Đầu
tiên họ mang đến một con cọp, nó gầm rống để cho mặt trời thứ sáu ra ngoài
nhưng mặt trời thứ sáu chỉ thêm sợ hãi vì tiếng gầm của nó và nói:
- Ta sẽ không ra đâu.
Sau đó
họ mang đến một con bò, nghĩ rằng với tiếng rống êm ái của bò chắc sẽ dụ được
mặt trời thứ sáu ra. Nhưng mặt trời vẫn còn giận lắm, nó hờn dỗi nói:
- Ta sẽ không ra đâu, thế đó!
Cuối
cùng họ mang đến một con gà trống to khỏe đến gáy thì mặt trời thứ sáu lắng nghe
và nói:
- Âm thanh này mới hay làm sao.
Nó lén
nhìn qua chân trời để xem cái gì tạo ra âm thanh đó. Khi nó nhìn xuống thì mọi
người hô vang những tiếng reo mừng, chào đón. Mặt trời thứ sáu thấy vui quá, nó
bước hẳn ra ngoài và rồi tạo một cái mào màu đỏ, nhỏ nhỏ trên đầu chú gà trống
to khỏe.
Từ đó
trở đi vào mỗi buổi sáng, chú gà trống đều mang cái mào đỏ của mình khi gáy gọi
mặt trời thức dậy.
14. HỔ CON XIN LỬA
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa, có hai chị em hổ đói bụng dẫn nhau đi kiếm ăn. Lúc này đang là mùa đông
gió rét, sương gió lạnh cắt da, cắt thịt. Rét đến mức chẳng có con thú nào chịu
ra khỏi tổ nên hai chị em hổ không thể kiếm được thức ăn. Phải chịu đói nhiều
ngày hai chị em hổ mệt lử, chân tay run lẩy bẩy.
Một
đêm mưa gió, rét mướt, hai chị em hổ cùng vượt rừng đi kiếm cái ăn. Từ xa hai
chị em trông thấy một ngôi nhà sàn gần đấy đang bập bùng ánh lửa. Một bà cụ già
đang đun nấu gì đó, lửa than cháy hồng rực. Hai chị em cảm thấy ấm áp hẳn lên.
Nằm sát bên nhau Hổ em thủ thỉ:
- Chị ơi, ước gì hai chị em mình có được ít
lửa đỏ để sưởi ấm như cậu bé kia thì thích nhỉ.
Hổ chị
chăm chú nhìn bà cụ bóc bánh nóng cho cháu ăn. Nghe hổ em nói hợp với ý mình
liền bàn với em:
- Em nói phải đấy, người ra đang đun nấu gì
đó, có nhiều lửa lắm, em vào xin đi.
Nhìn
thấy cái thang bắc lên nhà quá cao, hổ em e ngại nói:
- Chị ơi, chị khỏe mạnh cứng cáp, hay chị đi
xin lửa đi. Em yếu thế này chắc không trèo lên được cái thang kia đâu. Chị vào
xin lửa, nếu xin được chút bánh ăn thì tuyệt quá.
Hai
chị em cứ bàn đi, bàn lại, đùn đẩy nhau. Mãi tới canh khuya, khi lũ chó canh
nhà đã ngủ, cả nhà im lặng chỉ còn ánh lửa bập bùng, Hổ em quyết định xuống xin
lửa. Trời khuya, sương lạnh, Hổ em dò dẫm từ trên núi đá xuống, mò được lên đến
nhà thì đã ướt sũng, lông bết vào nhau, thân hình nhỏ xín, tiều tuỵ. Bà cụ chợt
tỉnh giấc, nhìn thấy con thú con tội nghiệp lạc vào nhà lấy làm lạ. Bà bế nó
đến bên bếp lửa sưởi ấm, lấy ít bánh cho nó ăn. Nghỉ ngơi hong khô mình, Hổ con
ra dáng là một chú Hổ xinh đẹp. Chú xin bà cụ một ít lửa mang về cho chị.
Lúc
đó, chợt thấy tiếng chó sủa vang, các con chó thi nhau sủa, Hổ chị sợ quá vội
vàng ba chân bốn cẳng phóng một mạch vào rừng. Một lúc sau, tiếng chó sủa đã
im, Hổ em xin được lửa quay trở lại thì không thấy chị mình đâu nữa. Chờ mãi
chẳng thấy chị mình trở lại, nó đành đem lửa trả bà cụ. Hổ em xin ở lại nhà bà
cụ sưởi ấm chờ hôm sau đem lửa về cho chị.
Từ
ngày sống ở nhà bà cụ, Hổ em luôn tỏ ra ngoan ngoãn hiền lành, suốt ngày nó nằm
bên bếp lửa để tránh bị những con chó bắt nạt. Trông thấy con vật nhỏ bé lông
vàng, xinh đẹp, ngoan ngoãn, những đứa cháu bà cụ yêu thích lắm. Chúng luôn cho
chú Hổ con ăn lúc thì mẩu thịt, lúc thì khúc cá, Hổ con lúc nào cũng được no
nê, khò khè nằm cạnh bếp. Có đôi lúc nó nhớ chị, nhớ rừng nó cất tiếng kêu
"meo meo" nho nhỏ khiến cho lũ cháu bà cụ càng yêu nó hơn. Vì thế
chẳng bao giờ Hổ em được tự do để trở về rừng tìm chị. Nhiều đêm Hổ chị qua
làng tìm em nhưng những con chó quanh nhà cắn dữ quá, nó sợ không dám vào.
Một
hôm, thấy nhà bà cụ yên ắng quá, Hổ chị mạnh dạn mò vào thì thấy Hổ em đang ngủ
ngon lành bên bếp lửa hồng. Hổ chị khe khàng cất tiếng gọi em:" Miao,
miao". Hổ em tỉnh giấc, chưa kịp đáp lại thì lũ chó đã ngửi thấy mùi của
Hổ chị sủa ầm lên và định vồ hổ chị. Sợ quá Hổ chị co chân chạy thẳng một mạch
về rừng.
Từ đó
hai chị em Hổ không còn có dịp nào gặp nhau nữa. Hổ chị sống hẳn ở trong rừng
không còn về làng nữa vì nó yên tâm em mình đã có được một nơi ấm áp tử tế. Còn
nó sống trong rừng ngày đêm đi săn mồi, ngủ hang, sống thui thủi một mình. Hổ
em dù được no bụng nhưng suốt ngày ăn cơm gạo, không có thịt sống nên không thể
lớn được. Nó trở thành mèo nhà chỉ còn bắt chuột và suốt ngày nằm khò khè bên
bếp lửa. Người ta bảo, ngày nay, Hổ không bao giờ vồ Mèo vì Mèo là em út của Hổ.
15. SỰ TÍCH CHIM ĐA ĐA
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa, ở một làng nọ, có một nhà mẹ goá con côi. Bà mẹ quần quật suốt ngày, làm
lụng vất vả tần tảo sớm hôm để nuôi con. Bà chỉ có mỗi một cô con gái nên cưng
chiều lắm. Có của ngon, vật lạ, đồ đẹp bà đều dành cho con. Người con càng lớn
càng xinh đẹp nhưng tính tình càng ngày càng ích kỉ xấu xa. Cô ta chỉ quen với
việc được mẹ quan tâm, chăm sóc và cho đó là điều tất nhiên cô phải được hưởng.
Còn việc giúp đỡ mẹ, động viên an ủi mẹ thì cô chẳng nghĩ đến bao giờ. Cô ta
trở nên hư hỏng lúc nào không biết, luôn luôn chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Đến
tuổi lấy chồng, nhờ khá xinh đẹp nên cô ta có khá nhiều người để ý. Bà mẹ
thương con gả cô cho một anh khỏe mạnh, đứng đắn, hay làm, biết yêu thương vợ
con. Rồi bà có cháu, cuộc sống vui vẻ hẳn lên. Bà càng thương con quí cháu hơn.
Ngày
tháng trôi qua, bà mẹ ngày một già đi, sống thui thủi một mình. Anh con rể
thương mẹ bèn bàn với vợ đón mẹ về ở chung để mẹ được sống cùng con cháu. Chị
vợ không chịu. Chị ta sợ tốn thêm cơm, thêm gạo để nuôi mẹ. Anh con rể ngạc
nhiên lắm nhưng chiều vợ nên thôi.
Chị vợ
nhận ruộng của mẹ về để cày cấy, cứ hết mùa lại đem cho mẹ mấy thúng thóc, còn
đâu giữ cả cho mình. Bà mẹ ở một mình, ăn chẳng mấy nên cũng không thắc mắc gì
vì bà nghĩ của bà nhưng cũng để cho con cháu chứ giữ làm gì. Tuy nhiên bà mỗi
ngày một còm cõi thêm.
Thế
rồi, năm ấy mất mùa, thu hoạch được ít thóc quá mà lại toàn thóc lép. Phải đong
cho mẹ lúa, chị vợ xót lắm. Nghĩ mẹ mắt kém, chị xúc thóc lép đổ xuống dưới còn
đổ một ít thóc chắc lên trên. Chị ta cho rằng mẹ già yếu, ăn là mấy mà mang
sang nhiều, như vậy chắc bà đủ sống rồi.
Bà mẹ
thấy con gái đội thúng thóc sang thì mừng lắm, muốn con ở lại một lúc để trò
chuyện nhưng cô con gái vừa đặt thúng thóc xuống đã tất tưởi đi ngay. Bà mẹ
buồn lắm. Khi xục tay xuống thúng thóc thấy toàn thóc lép bà tủi thân và khóc,
thương cho cái phận goá bụa của mình, trách đứa con sống không có tình có
nghĩa.
Chàng
rể sang thăm mẹ, biết rõ sự tình thì giận vợ lắm. Anh giảng giải hết lẽ với vợ
nhưng không những không nghe, chị ta còn cãi cố:
- Tôi giữ lại có phải để ăn một mình đâu.
Chẳng nhẽ bố con anh không ăn chắc?
- Thế còn mẹ, sao cô nỡ đối xử với mẹ đẻ mình
như vậy?
- Mẹ ăn thế là đủ rồi - Chị ta sẵng giọng.
Anh
chồng giận quá, đánh cho vợ một trận, vừa đánh anh ta vừa mắng:"Xúc thóc
lép cho bà, này! Xúc thóc lép cho bà, này"
Chị vợ
đau quá, bỏ chạy ra ngoài. Vừa ra đến giữa sân, trời bỗng nổi sấm sét đùng đùng
đánh thẳng vào đầu chị vợ - đứa con bất hiếu. Sau khi chết chị ta biến thành
loài chim, con chim tự kêu lên tội lỗi truyền kiếp của mình "Xúc thóc lép
cho bà". Người ta gọi loài chim đó là chim đa đa.
16. CHUYỆN KHỈ ĂN TRỘM NGÔ
- Truyện cổ tích Campuchia -
Ngày
xưa, có một năm trời làm hạn hán nặng, đất đai khô nứt nẻ, suối khô kiệt nước,
cây cối héo rũ ra vì thiếu nước. Con người và muông thú có nguy cơ chết đói,
đâu đâu cũng nhìn thấy cảnh muôn loài nháo nhác đi kiếm cái ăn. Đàn khỉ trong
rừng già phải chia nhau đi thật xa mới tìm được mấy hạt ngô. Chúng chí choé, giằng
co mấy hạt ngô. Thấy vậy, người liền bảo:
- Có mấy hạt ngô, các ngươi ăn bây giờ chẳng
đủ no, mùa sau lại vẫn đói. Chi bằng hãy cho chúng tôi vay để giống mùa sau, cứ
một hạt chúng tôi sẽ trả một bắp.
Đàn
khỉ nghe thấy rất có lý, bèn đưa số hạt ngô ít ỏi cho người rồi chúng bảo nhau
đi tìm cái ăn khác.
Có
được hạt giống trong tay, con người bắt đầu công việc gieo trồng. Họ đốt nương
làm rẫy, chọc lỗ bỏ hạt, rồi vun gốc. Con người vất vả cõng nước từ dưới vực
sâu lên tưới cho cây, bao công chăm bón gìn giữ để khỏi bị các loài khác phá.
Đến mùa thu hoạch, chẳng phụ công người, mỗi cây ngô đều cho hai, ba bắp to
tướng, hạt chắc mẩy, đều đặn. Bẻ ngô về nhà, người gọi khỉ đến để trả nợ. Khỉ
chọn những bắp to nhất, mảy nhất và lấy đúng số bắp bằng số hạt ngày trước khỉ
cho vay.
Số bắp
lấy được, khỉ giằng co nhau ăn ngấu nghiến và hết ngay lập tức. Còn người, phần
thì để ăn dè dặt, phần thì để làm giống cho vụ sau. Thế là từ một hạt, con
người có một bắp, từ một bắp con người có cả một nương ngô. Mùa sau, mùa sau
nữa, người lại thu hoạch ngô, lũ khỉ quen hơi lại đến đòi ngô nữa. Nhưng người
không trả mà nói:
- Chúng tôi đã trả đủ cho khỉ từ mùa ngô trước
còn gì. Một hạt đổi cả một bắp đấy thôi. Sao khỉ lại muốn đòi nhiều thế?
Nhưng
khỉ không chịu, chúng đòi năm nào cũng được đếm cây lấy bắp như mùa trước. Con
người thấy khỉ vô lý quá bèn đuổi khỉ đi.
Từ
ngày người trồng được ngô trên nương rẫy, đàn khỉ bỗng trở nên lười biếng chẳng
chịu đi kiếm ăn xa như ngày xưa. Chúng cứ rình rập ở bìa rừng chờ con người sơ hở
thì rủ nhau voà bẻ trộm ngô ăn, bất kể non hay già. Con người rất bực mình vì
phải bao công lao động vất vả nặng nhọc, phải mất bao nhiêu thời gian ngô mới
cho con người bắp vậy mà khỉ không những bẻ trộm bắp mà còn phá hoại cây ngô
làm cho con người không có gì để ăn. Thế là họ quyết tâm bảo vệ nương ngô của
mình. Con người đặt cạm bẫy, tên, nỏ, hố chông quanh nương ngô. Khỉ ngu ngốc
không biết cách tránh nên mắc bẫy chết rất nhiều, gần như tuyệt giống nòi.
Một
lần, người lên thăm nương ngô, thấy một con khỉ cái đang chửa mắc bẫy. Nghĩ đến
cảnh loài khỉ sắp tuyệt giống nòi, người động lòng thương xót, tháo bẫy thả con
khỉ đó trở lại rừng. Con khỉ chửa còn lại từ ngày ấy cứ sinh sôi nảy nở con đàn
cháu đống mãi đến tận hôm nay. Thế nhưng khỉ vẫn không bỏ được thói quen bẻ
trộm ngô của con người.
17. CHÚ CÚN CON
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa, trong làng nọ, có một bà cụ già nuôi một đàn chó con, con nào con nấy bụ
bẫm, xinh xắn và rất đáng yêu. Bà cụ rất yêu bầy chó của mình. Nhìn chúng đùa
nghịch trong sân trông thật vui mắt. Trong đàn, có con cún vàng là nghịch ngợm
hơn cả. Nó trêu bất cứ con vật nào mà nó gặp trong sân, trong vườn. Một hôm,
chú cún vàng đang chọc ghẹo một con cóc thì cóc lủi vào bụi cỏ biến mất. Nháo
nhác nhìn quanh, cún nhìn thấy có hai con khỉ đang mon men lại gần. Trong đầu
thoáng nghĩ ra một trò nghịch mới, cún con giả vờ nhìn mãi lên cái tổ ong vò vẽ
đang treo lơ lửng trên ngọn cây cao.
Tò mò,
hai con khỉ cũng nhìn lên và hỏi cún:
- Anh cún ơi, trên cây có gì mà anh nhìn chăm
chú thế?
Cún
con chỉ tổ ong và nói:
- Các anh nhìn kìa, đấy là cái trống của ông
nội tôi đấy. Cái trống đấy mà đánh thì nó kêu to lắm.
Nghe
cún vàng nói, hai con khỉ tỏ ý tò mò muốn đánh thử xem nó kêu to cỡ nào. Cún
vàng giả vờ giật mình và chối đây đẩy:
- Chết, không được đâu. Bây giờ các anh mà gõ
trống, ông nội tôi biết tôi sẽ bị nhừ đòn đấy.
Cún
con càng từ chối, khỉ càng tò mò. Thấy khỉ bị mắc lừa, cún giả vờ dần dần xiêu
lòng đồng ý.
- Thôi được, nể các anh lắm đấy. Nhưng các anh
phải chờ tôi đi trốn thì mới được đánh đấy nhé. Nếu không ông tôi nhìn thấy thì
tôi chết nhừ đòn.
Khi
không nhìn thấy cún vàng đâu nữa, hai con khỉ trèo lên cây cao, cầm gậy nhằm
thẳng tổ ong mà đánh. Tổ ong rơi bịch xuống đất. Lũ ong vò vẽ bay vụt ra tìm kẻ
phá hoại. Chúng nhằm hai chú khỉ còn đang ngơ ngác trên cây đốt túi bụi. Đau
quá, hai chú khỉ vội vã tụt xuống đất, cắm đầu cắm cổ chạy. Bầy ong bay vù vù
đuổi theo thi nhau đốt vào mặt, vào lưng, vào chân tay con khỉ. Cùng đường, nó
nhảy tùm xuống suối, lặn một hồi lâu. Chờ bầy ong bay đi xa chúng mới dám ngoi
lên.
Bị cún
vàng lừa một vố hú hồn, khỉ bực tức rủ nhau quay trở lại tìm cún trả thù. Tìm
mãi, chúng mới thấy cún con đang loay hoay bên cạnh một bụi cây đầy quả chín đỏ
rực. Tính tò mò nổi lên, quên hết cơn giận, chúng muốn biết Cún đang làm gì.
- Các anh không thấy sao, tôi đang canh vườn
cho ông kẻo có con thú nào đi qua nó lại vặt hết những quả ngọt chín đỏ này.
Nghe
đến quả ngọt chín đỏ, hai con khỉ thèm rỏ rãi. Bụng đói cồn cào, chúng gạ gẫm
- Anh cún ơi, hay là anh cho chúng tôi nếm mỗi
người một quả đi. Ông anh sẽ không biết được đâu.
- Các anh mỗi người chỉ được ăn một quả thôi
nhé!
- Đồng ý - Hai con khỉ đồng thanh trả lời.
- Phải chờ tôi đi khỏi đã nhé!
- Đồng ý - Hai con khỉ mừng rơn.
Đợi
cún vàng đi khuất, hai con khỉ tranh nhau hái một nắm quả chín đỏ rồi cho tất
cả vào miệng nhai ngấu nghiến. Chúng hoảng hốt nhè ra, khạc nhổ nhưng đã muộn.
Những quả chín đỏ đó là những quả ớt chín, chúng làm cho mồm miệng khỉ bỏng
rát, nước mắt nước mũi giàn dụa, bụng dạ nóng như có ai cào. Mặt khỉ nhăn lại
vì cay, và chúng vẫn cứ nhăn mặt đến tận bây giờ. Vì thế các cụ thường có câu
rằng "Nhăn như khỉ" là vì thế.
18. SỰ TÍCH CON TU HÚ
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xửa ngày xưa, trên một đỉnh núi cao có hai nhà sư là Năng Nhẫn và Bất Nhẫn cùng
tu hành từ nhỏ. Sau một thời gian rất dài tu hành khổ hạnh, một hôm Năng Nhẫn
tu thành chính quả thành Phật bay về trời.
Bất
Nhẫn ở lại, thấy mình tu hành khổ hạnh không kém gì bạn nhưng chưa thành chính
quả thì lấy làm buồn. Bất Nhẫn bèn đến gặp Phật Tổ bày tỏ nỗi lòng của mình.
Nghe xong, Phật bảo:
- Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo, tâm hồn trong
sạch, rất đáng khen. Nhưng tính tình nhà ngươi chưa thuần nên chưa thể đắc đạo
được. Hãy cố gắng tu hành rồi theo bạn vẫn chưa muộn.
Nghe
lời Phật rặn, Bất Nhẫn lên núi chọn một gốc cây to ngồi xếp bằng tu theo lối
trường định. Chàng quyết ngồi ba năm để mong thành chính quả. Từ hôm ấy Bất
Nhẫn như vô tri vô giác. Những con sâu bò lên người, những con kiến đốt, những
con chim đậu trên đầu chàng, chàng cũng chẳng bận lòng. Cứ vậy hai mùa hè đã
trôi qua, sắp sửa kết thúc mùa hè thứ ba, chàng sắp tu thành chính quả. Một hôm
có đôi vợ chồng chim sâu ở đâu bay đến đậu trên vành tai nhà sư, chúng thấy hay
bèn làm tổ luôn ở đó. Chúng đẻ trứng ấp nở thành những chú chim non kêu léo
nhéo suốt ngày bên tai nhà sư.
Lũ
chim non đang ở trong giai đoạn lớn, chúng đòi ăn suốt ngày vì thế chim bố và
chim mẹ phải thay phiên nhau, liên tục phải đi tìm thức ăn cho chúng. Một lần
chim bố ở nhà, chim mẹ bay đi kiếm thức ăn. Bay qua hồ sen, nó thấy một con sâu
rất to nằm trong đài sen của một bông sen nở. Nó bèn đậu xuống mổ con sâu định
mang về cho con. Lúc đấy trời tối, sen cụp cánh vào, vì quá bất ngờ chim mẹ
không bay ra được và bị nhốt cho đến sáng hôm sau sen nở ra mới bay về. ở nhà
chim bố rất sốt ruột, đàn con kêu nheo nhéo nên thấy chim mẹ về đã mắng vợ. Một
cuộc cãi nhau nổ ra. Quá bực vì bị làm phiền đến đinh tai nhức óc, Bất Nhẫn
giật mạnh cái tổ chim ném xuống đất nói:
- Chúng bay là đồ khốn! Chỉ có mỗi việc vặt ấy
mà các ngươi làm tao điếc óc suốt từ hôm qua đến giờ.
Thế là
bao công tu luyện của Bất Nhẫn sắp đến ngày thành chính quả đã thành công cốc.
Không nản chí, Bất Nhẫn hứa tìm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình.
Chàng
đến một khúc sông vắng vẻ, nước chảy xiết tình nguyện làm người lái đò không
công chở khách qua sông. Chàng quyết chở đủ một trăm người mới thôi. Lần này
chàng tỏ ra rất chịu khó. Bến rất vắng khách nên hơn hai năm trời qua chàng trở
được chín mươi tám người qua sông mà không vấn đề gì xảy ra.
Vào
một hôm cuối hè, nước sông chảy xiết, mưa to, gió lớn, sấm chớp ầm ầm. Có một
người phụ nữ dắt tay một em bé đòi qua sông. Chưa bước xuống thuyền bà ta đã
hống hách doạ:
- Nhà ngươi phải chèo cho cẩn thận, che mui
cho kín. Nếu ta mà bị ướt thì nhà ngươi nhừ đòn.
Tuy
rất giận nhưng Bất Nhẫn đã kìm lại được, ôn tồn cười và đáp:
- Xin bà cứ yên tâm.
Rồi
Bất Nhẫn trổ hết tài khéo léo của mình đưa con thuyền sang bờ bên kia an toàn
mà hai mẹ con bà kia không bị mảy may ướt. Lúc sang đến bờ bên kia, chợt người
đàn bà kêu:
- Thôi chết, ta quên gói hành lý bên kia rồi.
Ngươi quay lại lấy rồi mang sang bên này cho ta.
Dùng
hết sức bình tĩnh để kìm cơn giận, Bất Nhẫn quay thuyền sang bờ bên kia, chật
vật lắm mới đem được gói hành lý sang cho người đàn bà kia. Soạn lại hành lý,
bà ta lại kêu lên:
- Ta lại quên đôi dép của đứa bé ở bên bờ bên
kia rồi. Ngươi phải sang lấy cho ta lần nữa. Nhanh lên!
Đến
nước này thì không thể chịu được nữa. Không đợi cho người đàn bà kia nói thêm,
Bất Nhẫn quẳng mái chèo chỉ thẳng vào mặt:
- Cút đi, đồ súc sinh. Tao sinh ra đâu phải để
hầu hạ mãi hai mẹ con mày.
Ngay
lúc đấy người đàn bà đứng trước mặt Bất Nhẫn hiện nguyên hình là Phật Bà Quan
Âm xuống thử tâm tính người đệ tử khổ tu đó. Ngài cất tiếng:
- Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như
thế tu gì mà tu, tu hú thì có.
Sau đó
Phật Bà hóa phép biến Bất Nhẫn thành loài chim mồm kêu "Tu hú, tu
hú". Người ta gọi loài này là chim tu hú. Nó chỉ xuất hiện vào quãng thời
gian cuối hè sang thu, kêu lên "Tu hú, tu hú " như để nhắc lại câu
chuyện trên cho người đời sau nhớ.
19. CÁ BỐNG THẦN
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xửa, ngày xưa, có hai anh em mồ côi, tính tình trái ngược hoàn toàn. Người em
chăm chỉ, hiền lành, thật thà còn người anh gian ngoan lại tham lam độc ác. Anh
ta vơ vét hết tất cả những gì bố mẹ để lại, chẳng cho người em bất cứ thứ gì.
Hàng ngày, người em cứ phải vào rừng dùng que để đào củ mài, củ nâu, xuống khe
bắt tôm, bắt tép để ăn. Đêm , anh lại trở về nhà người anh ngủ cùng với trâu
với lợn.
Một
hôm, người anh rủ người em ra sông tát cá. Người anh bắt người em be bờ, đắp
đập, tát nước, còn mình thì bắt hết cá, chẳng để xót lại một con nào. Người em
vừa mệt, vừa buồn. Bỗng có một con cá bống nhỏ, bơi dưới chân nười em và cất
tiếng nói:
- Anh hãy bắt tôi đem về nuôi đi.
Người
em mừng rỡ vớt con cá bống lên, đem về nhà bỏ vào bát nuôi, nâng niu như trẻ
nhỏ. Cá bống lớn rất nhanh. Qua ngày đầu tiên nó đã to chật cả cái bát, người
em phải thả nó và chậu. Ngày hôm sau nó đã lớn chật chậu. Người em phải đắp cái
vũng to bằng nửa cái sân nhà cho cá vùng vẫy. Hai ngày sau cá lớn chật vũng.
Người em đắp luôn một đoạn khe ở chỗ khuất và thả cá xuống. Chỉ vài ngày sau,
cá lớn chật khe, to như một con trâu đực. Lúc này nó nói:
- Tôi đã lớn rồi, tôi với anh hãy kết tình anh
em đi. Chúng ta đi xuôi dòng kênh này một chuyến cho vui.
Người
em bằng lòng, thịt gà, thổi cơm trắng mang đi. Cứ đến bữa ăn, người em xé thịt
và cơm trắng cho cá ăn, còn mình thì chỉ ăn xương gà với cơm cháy.
Trời
nổi mây to gió lớn, người em vô cùng lo sợ. Cá nói:
- Không sao đâu, trời sẽ không mưa. Anh hãy
leo lên cây cao. Nếu thấy mây kéo ùn phía dưới, anh quay mặt về phía đó giả
buồn rầu. Nếu mây ùn về phía trên nước, anh cười thật to là được.
Người
em nghe theo, trèo mãi lên ngọn cây cao. Khi mây ùn ùn phía dưới ngọn nước
người em mặt ủ rũ buồn rầu. Lúc sau, thấy mây ùn ùn phía trên, anh cười vang.
Tiếng cười dội vào vách núi vang như sấm. Bỗng anh nghe thấy tiếng gầm rú dưới
khe. Quay lại anh nhìn thấy cá bống đã giết chết con thuồng luồng khổng lồ. Cá
gọi:
- Người anh em ơi, hãy xuống mổ bụng con
thuồng luồng mà lấy của cải đem về.
Người
em làm theo và lấy được rất nhiều vàng bạc của cải. Cá bống và người em trở về.
Về đến nhà người em kể lại câu chuyện cho anh nghe và chia đôi số của cải lấy
được cho anh.
Lòng
tham nổi lên, người anh không chịu nhận số của cải mà người em cho, hắn đòi đi
một chuyến cùng với cá. Người em miễn cưỡng cho anh mượn cá và dặn không được
để cho cá chết.
Thế là
người anh tham lam ra đi. Anh ta cũng được cá bống cho đi dọc khe chơi. Nhưng
anh ta tham lam quá, anh ta ăn hết thịt gà và cho cá ăn xương, ăn lòng.
Đến
một khúc khe, trời cũng nổi cơn giông. Anh tham lam mừng quá, hỏi cá nên làm
gì. Cá dặn anh ta như dặn người em. Nhưng vì mừng quá nghe vội nghe vàng nên
anh ta không nhớ rõ lời cá dặn. Đáng lẽ hắn phải buồn ủ rũ thì hắn lại cười to,
khi cần cười to thì hắn lại buồn ủ rũ. Con thuồng luồng vùng lên mà cá chưa kịp
chuẩn bị. Thế là nó cắn chết cá bống. Người anh vô cùng tức giận đập vào đầu
cá, trở về nhà.
Về đến
nhà, người em mừng rỡ chạy ra hỏi anh có lấy được nhiều của cải không, người
anh cau mặt quát:
- Mày nói láo. Cá của mày chết ngoài khe kia
kìa.
Người
em nghe tin cá chết vội chạy một mạch ra ngoài khe. Đến nơi thấy xác cá cứng
đờ, người em than khóc mãi. Hồn cá bống hiện về nói thoảng qua tai anh:
- Người anh em đừng khóc nữa. Hãy chặt đầu tôi
mang về chôn giữa sân, tôi sẽ có cách giúp được anh.
Người
em liền chặt đầu cá đem về chôn ở sân như lời cá dặn. Mấy ngày sau ở chỗ đó mọc
lên cây tre rất cao. Người em ra gốc tre nói:
- Tre định giúp ta cái gì thì nói đi.
Cây
tre nói:
- Khi nào nghe gió trên về, hãy nói: "áo
sống ta đâu", sẽ có áo đẹp. Khi nào thấy gió dưới thì kêu: "Bạc nén,
nồi đồng của ta đâu". Lúc đó sẽ có nhiều bạc nén, nồi đồng.
Người
em làm theo lời cá dặn nên được rất nhiều vàng bạc, áo quần. Người anh nổi máu
tham chạy ra gốc tre. Thấy gió trên thổi hắn nói:
- Áo sống của ta đâu?
Tức
thì bao nhiêu rẻ rách trên trời rơi xuống. Thấy gió dưới nổi lên hắn thét:
- Bạc nén, nồi đồng của ta đâu?
Trên
ngọn tre bao nhiêu sọ người, xương bò rơi xuống đầu anh tham lam, làm anh ta
đau điếng. Tức giận, anh ta chặt luôn cây tre và về nhà mắng người em:
- Mày nói láo. Cây tre của mày là ma quỷ, tao
chặt rồi.
Người
em chạy ra chỗ cây tre than khóc. Gốc tre nói với anh:
- Anh hãy đốt tôi đi lấy tro vào rừng. Thấy
vết chân con thú nào anh hãy rải tro lên và đi theo, con thú sẽ chết, anh tha
hồ có thịt ăn.
Người
em làm theo và mang về rất nhiều thịt thú rừng. Người anh tham lam nghe tin,
giật số tro còn lại của người em đem ra rẫy. Hắn rải tro khắp nơi, thấy dấu
chân chuột hắn cũng rải. Thấy dấu chân người hắn cũng rải vì nghi có kẻ trộm
vào rẫy. Rải xong hắn hý hửng về nhà toan quét dọn nhà cửa để đi nhặt cọp, heo
về.
Về đến
nhà, hắn thấy vợ và đàn con lăn ra chết giữa nhà. Hoảng hốt, hắn chạy ra rẫy.
Té ra, những dấu chân hắn nghi là trộm lại chính là dấu chân của vợ con hắn.
Hắn như điên như dại lấy nốt số tro còn lại rải lung tung, rải lên cả dấu chân
của mình. Thế là chưa kịp về đến nhà hắn đã lăn ra chết.
Người
em nghe tin anh chết, vẫn lo lắng ma chay cho anh cho trọn tình trọn nghĩa. Từ
đó người em sống yên ổn làm ăn cùng bà con xóm giềng.
20. CÁO LỪA CỌP
- Truyện cổ Trung Quốc -
Một
ngày đẹp trời nọ, trong lúc đi tìm mồi, Cọp ta phát hiện ra một con Cáo mập mạp
ngon lành. Nhìn thấy Cọp, Cáo hơi hoảng hốt một chút rồi bình tĩnh lại ngay. Nó
cất giọng:
- Lại đây đi, chẳng phải ngươi đang định ăn
thịt ta sao?
- Tại sao không, hãy cầu nguyện đi - Cọp vừa
trả lời vừa tiến đến.
- Ồ, có lý do đó - Cáo trả lời một cách tự
mãn.
- Lý do gì nhỉ, ta có nên biết không?
- À, rõ ràng là ngươi không biết Thiên Đình đã
chỉ định ta là người cai quản vùng này. Chắc ngươi sẽ không dám ăn thịt một
quan chức của Thiên Đình đâu, ta nghĩ thế.
Cọp
lùi lại, nó gầm gừ:
- Dù gì đi nữa ta cũng cần phải có bằng chứng
về vấn đề này!
Con
Cáo ranh mãnh đồng ý:
- Không có gì hợp lý và đơn giản hơn thế.
Chúng ta hãy cùng nhau đi thăm lãnh địa của ta, ta đi trước, ngươi đi sau để
chắc rằng ra không thể bỏ trốn được. Rồi ngươi sẽ thấy muôn thú trong rừng đều
sợ ta như sợ một quan chức trên Thiên Đình.
Cả hai
bắt đầu đi xuống lối mòn, con Cáo nhỏ đi trước, đôi mắt tinh ranh của nó loé
sáng, còn Cọp thì bám sát ngay phía sau.
Khi
chúng đi xuyên qua rừng, nhưng con thú không để ý gì đến Cáo vì chúng không
nhìn ra, chúng chỉ nhìn thấy Cọp đi sau. Chúng bỏ chạy toán loạn vào trong rừng
thật nhanh.
Con
Cáo nhỏ tinh ranh quay về phía Cọp: "Bây giờ tì ngươi đã thấy chuyện gì
xảy ra rồi chứ. Thấy ta đi tuần qua đây, muôn thú sợ hãi quá đã bỏ chạy hết
rồi.
- Ừ, Cọp trả lời - Dường như muôn thú đều sợ
người, đúng như ngươi nói. Ngươi đúng là quan chức của Triều Đình, và ta sẽ
không ăn thịt một người quan trọng như thế.
Thế
rồi Cọp quay lưng, tự lui vào rừng. Bỗng quay trở lại, cúi đầu một cách cung
kính và nói: "Tạm biệt".
21. TRẬN ĐÁ DẾ
- Truyện cổ tích Trung Quốc -
Ngày
xửa ngày xưa, có một chú dế nhỏ được gọi là Dế Chiến. Chú sống cùng với các anh
trai sau những tảng đá trên cánh đồng. Cái tên Dế Chiến của chú không phải do
cha mẹ đặt ra, mà nó có sau khi chú trở thành một chú dế đá nổi tiếng, khi chú
đánh bại gã Đầu Hói Vàng.
Từ hồi
chú dế còn bé, chú đã được ông nội của mình kể về thời ngày xưa, cái ngày ông
mới bắt đầu ra trận và cho đến khi ông chiến thắng, trở thành con dế đại tài,
được mọi người tung hô. Trong đầu chú dế con ấp ủ: "Một ngày nào đó, mình
mong được tài giỏi như ông mình". Chú lập kế hoạch để thực hiện giấc mơ
của mình.
Chú
biết rằng, dế nào gáy to nhất sẽ được chọn khi con người săn tìm những chú dế
vô địch. Vì thế hàng ngày chú cố luyện gáy thật to, chú luyện chăm chỉ đến mức
chú nghĩ rằng đến một ngày nào đó tiếng gáy của chú sẽ lấn át được tiếng ộp oạp
của bác ếch già khó tính.
Dế
chiến cũng cười nhạo những anh em, họ hàng ngu ngốc của chú - những chú dế gáy
- vì chú nghe rằng những học giả Trung Quốc già thường nuôi họ hàng anh em của
chú như những con thú cưng, họ mang chúng đi đây đó, trong những nếp áo choàng
có lót của họ hoặc giữ trên bàn viết. Cuộc sống đó mới vô vị làm sao!
Nhưng
bây giờ không phải là thời gian chế nhạo họ vì đã là tuần trăng thứ chín - thời
điểm các trận đá dế bắt đầu. Một ngày kia, sau khi chén một bữa sáng ngon lành
là một con ấu trùng to béo, Dế Chiến nghe thấy những bước chân thình thịch của
một người khổng lồ. "Đã đến lúc rồi đây" Chú nghĩ thế vì chú biết họ
đến đây để tìm những chiến binh dũng cảm. Thế là chú cất tiếng gáy, tiếng gáy
to nhất từ trước tới giờ. Rất nhanh, một cái lưới chụp lên đầu chú và chú bị
ném vào một cái giỏ. Mới đầu Dế Chiến thấy rất bực mình vì lối xử xự thô bạo đó
của con người. Nhưng nghe con người nói chuyện sẽ có hàng trăm người đến xem
trận đấu dế và họ sẽ trả rất nhiều tiền thì chú quên hết mọi bực tức. Chú cần
phải luyện tập kỹ càng để chuẩn bị cho trận đấu quan trọng đó.
Con
người đặt Dế Chiến vào trong một chậu nhỏ bằng đất nung có trải một lớp đất
mềm, sau đó họ cho Dế Chiến ăn những thứ ngon nhất như cá, những con ấu trùng
to mập, những hạt dẻ luộc và cơm với mật ong để làm cho chú khỏe mạnh hơn.
Ngày
giao đấu đã đến, Dế Chiến thấy dường như mọi người trên thế giới đều tụ về
quanh cái chậu mà họ gọi là "hố dế". Hôm đó, Dế Chiến đã có một trận
đấu tuyệt vời. Dế Chiến và đối thủ là Hói Đầu Vàng nhìn nhau đầy giận dữ cho
đến khi con người cù vào lưng hai đối thủ bằng một cái lông heo. Tức thì, hai
con dế trở nên phấn kích xông vào nhau rồi Dế Chiến lùi lại. Mọi người hò hét
cổ vũ xung quanh:
- Cố lên nào, Dế Chiến! Cố lên!
Dế
Chiến quá phấn khích, hăng tiết đến mức không thể ở yên được. Thật là một cuộc
gay go, Hói Đầu Vàng cũng là một tay không vừa, nó cũng quyết liệt xông vào trả
đòn. Nhưng cuối cùng, Hói Đầu Vàng đã phải nằm lại dưới đáy chậu cũ kỹ, mất
một, hai chân. Dế Chiến đã thắng một cách xứng đáng. Dế Chiến vô cùng hạnh
phúc, chú cảm thấy mình như một chiến binh vĩ đại - giống ông chú ngày xưa.
Kể từ
đó, Dế Chiến không còn được gặp lại anh em họ hàng nữa, chú được giữ lại để đấu
tiếp các trận khác. chú say mê đi hết trận thắng này đến trận thắng khác. Tuy
nhiên, thỉnh thoảng chú nghe những tiếng dế gáy văng vẳng từ cánh đồng lại, chú
tự hỏi: "xét cho cùng là một chiến binh dũng cảm có tốt hơn là chú dế gáy
mua vui cho các học giả Trung Quốc già, hoặc đã được bọc một cách ấm áp trong
những cái nếp gấp của chiếc áo choàng lót bông của họ". Chú cũng không
biết nữa.
22. SỰ HOÁ THÂN CỦA GẤU VÀ LỢN LÒI
- Truyện cổ tích Triều Tiên -
Vào
một ngày mùa xuân ấm áp, trên cuộc hành trình của mình lợn lòi nhìn thấy có một
con gấu nâu đang mệt mỏi nằm nghỉ trên một tảng đá rêu phủ lên êm ái.
- Chào bác gấu! Bác từ đâu đến - lợn hỏi.
- Chào anh lợn lòi. Ta là gấu của miền Bắc xa
xôi . Suốt đời, ta đã sống trên núi Bạc Đầu. Gần đây ta quyết định làm một
chuyến đi xa, ta muốn khám phá những điều kỳ diệu trên xứ sở của chúng ta. Thế
còn chú mày - gấu hất hàm hỏi: đi đâu thế?
- Thế thì tuyệt, ý kiến của bác rất hay. Chúng
ta sẽ cùng nhau đi khám phá thế giới - lợn ủn ỉn reo lên.
Thế
rồi gấu và lợn lòi cùng đi. Chúng vượt qua bao núi non, thung lũng, tai nghe
tiếng ve ca hát, mắt ngắm những đỉnh núi răng cưa lởm chởm và những thác nước
từ trên đổ xuống, ngắm những bông hoa dại, những lạch nước trong veo.
Một
hôm, chúng thấy dưới thung lũng có một xóm người. Lợn rừng rụt rè đề nghị:
- Bác có muốn xuống đấy thăm quan một vòng
không? Tôi rất muốn xem con người sống ra sao đấy.
- Tôi cũng rất muốn nhưng không biết xuống đó
có an toàn không? Tôi nghe nói con người thường rất tàn bạo với thú vật.
Nhưng
cuối cùng chúng bàn với nhau, nếu thái độ của chúng ôn hoà thì chắc không ai
làm gì nó. Thế rồi chúng thong thả đi vào làng. Thế nhưng những con chó ngửi
thấy mùi của Gấu và Lợn thì xông ra sủa nhặng xị, chúng cứ đuổi theo Gấu và Lợn
sủa nhặng lên làm Gấu và Lợn rất bối rối. Còn con người, nhìn thấy một con Gấu
to và một con Lợn lòi có răng nanh sắc nhọn đang tiến gần làng thì họ rất sợ
hãi. Họ cầm liềm, gậy gộc chuẩn bị tấn công con thú.
Gấu và
Lợn lòi sợ quá, vội rút ngay lên núi. Chúng than vãn:
- Con người thật là kỳ lạ, họ không hiểu được
điều: chúng ta không muốn làm điều gì có hại cho họ.
Chợt
Lợn lòi nghĩ ra một cách, nó bàn với Gấu:
- Này bác Gấu, bác đã sống lâu năm trên núi
Bạc Đầu, chắc bác biết được nguyên tắc biến hóa. Hãy hóa chúng ta trở thành
người. Còn tôi, tôi sống lâu năm nơi núi phía Nam - nơi có một thầy già đã dạy
tôi rất nhiều về tập quán con người. Tôi sẽ bảo bác. Chúng ta hoá thành người, xử
xự như người thì sẽ không ai nhận ra đâu.
Gấu
đồng ý và đọc thần chú. Ngay lập tức Gấu biến thành một người đàn ông đứng
tuổi, ăn mặc xuềnh xoàng. Còn Lợn lòi biến thành một thanh niên đẹp trai, đội
mũ vành rơm để cho mọi người biết anh ta đã đến tuổi lấy vợ. Chúng vượt qua vài
chỏm núi xuống thung lũng.
Đến
đầu làng, Gấu rất khát nước, bản chất thú vật nổi lên, nó vục đầu xuống giếng
uống cho đỡ khát.
- Bác không được làm thế, loài người không
uống nước như thế bao giờ - Lợn nhắc nhở
- Hãy chờ có ai đến gánh nước thì nhờ người đó múc cho.
Ngay
lúc đó có một cô gái xinh đẹp quẩy đôi thùng đến giếng gánh nước. Chúng xin cô
gái một ít nước để uống. Cô gái vui vẻ đồng ý múc nước cho uống. Cô không mảy
may nghi ngờ hai người đứng trước mặt cô lại là con thú. Vì thế chúng yên tâm
bước vào làng. Buổi tối chúng xin vào ngủ nhờ một nhà nào đấy, sáng ra lại lên
đường.
Một
buổi tối khi ngồi nói chuyện với một bác chủ nhà, họ nghe thấy tiếng của cô gái
hàng xóm khóc. Hỏi ra mới biết: Sau xóm có một con cua khổng lồ, nó quấy rối
dân làng bao năm. Muốn được sống yên ổn hàng năm cứ phải hy sinh một cô gái trẻ
cho nó. Năm nay đến lượt cô con gái út nhà hàng xóm.
- Một con cua à? Nếu đúng thế thì đừng sợ,
chúng tôi sẽ đến làm việc với nó - Hai người khách lạ nói.
Suốt đêm
hôm đó, dân làng tụ tập cùng hai chàng trai lạ mặt bàn cách triệt hạ con cua
độc ác đó để cứu cô gái khốn khổ và họ đã tìm ra một cách.
Sáng
hôm sau, họ mang đến một cái kiệu, ở trong có một người đầu phủ mảnh vải trắng
ngồi bất động đặt trước cửa hang của con cua cùng với những đồ tế lễ rồi chia
tay người ngồi trong kiệu. Một lát sau con cua bò ra. Nó rất to với hai cái
càng hùng dũng, lông cứng, vỏ dầy. Nó bò tiến lại chỗ cái kiệu. Ngay lúc đấy,
người ngồi trong cái kiệu chính là một trong hai chàng trai kia dũng cảm vung
kiếm lên, chàng nhảy lên mai cua và chém liên tục vào hai cái càng của nó. Cua
chống trả quyết liệt, nhưng nó không đánh lại được với chàng trai nên bị trọng
thương phải bỏ trốn về hang. Nó trốn vào một khe kẹt nên chàng trai không thể
vào được. Không giết được con cua nhưng ít ra cô con gái út kia đã được cứu
thoát chết. Dân làng tổ chức một bữa tiệc linh đình để cám ơn và chia tay hai
chàng trai.
Chúng
chia tay dân làng và đi tiếp. Đến một dòng sông, không có chỗ nào nước cạn để
qua, chúng bèn bàn nhau biến thành ruà để bơi qua. Bơi ngang sông hai con rùa
giả gặp một con rùa thật. Chúng đon đả chào nhau và hỏi thăm nhau đi đâu:
- Tôi
đến thăm ông bạn Cua già của tôi vừa bị loài người độc ác đánh trọng thương.
Rùa thật trả lời
- Cho
chúng tôi đi cùng với - Rùa giả đề nghị.
Rùa
thật dẫn hai con rùa giả theo lối hang ngầm, nơi con cua đang nằm rên la đau
đớn. Ngay khi nhìn thấy con Cua, hai con rùa giả trở về nguyên hình là Gấu và
Lợn lòi rồi xông vào. Gấu dùng tay đập nát mai cua, lợn lòi dùng nanh kết thúc
nhanh chóng cuộc đời của con Cua ác độc.
Gấu và
Lợn lòi biến lại thành hình người quay về báo tin vui cho dân làng biết. Họ
mang theo cái càng cua to đùng về làm chứng. Để cảm ơn cho tấm lòng dũng cảm
của hai chàng trai, người nông dân nghèo quyết định gả con gái út của mình cho
một trong hai người. Điều này thì không thể nào thành hiện thực được. Chúng
liền từ chối:
- Xin
bà con hãy nghe chúng tôi nói và hãy tin những gì chúng tôi sắp nói ra đây.
Thực ra chúng tôi không phải là người mà tôi là một con Gấu đến từ đỉnh núi Bạc
Đầu nơi phương Bắc, còn anh kia là một con Lợn lòi đến từ phương Nam. Chỉ vì
muốn biết được cuộc sống của con người ra sao nên chúng tôi đã hoá thân thành
người. Chúng tôi không thể sống mãi với hình người nên không thể lấy cô út làm
vợ được.
- Đây
quả là một điều ngạc nhiên tuyệt diệu - Những người nông dân thốt lên.
- Nếu
muốn trả ơn chúng tôi thì hãy làm thịt một con bê rồi chuẩn bị một bữa tiệc để
thiết đãi cho một con gấu và một con lợn lòi. Khi đấy chúng tôi sẽ cho bà con
biết chúng tôi là ai.
Những
người nông dân vui vẻ thực hiện. Hai người khách từ biệt rồi lầm rầm đọc câu
thần chú. Trước sự chứng kiến của bao nhiêu người, họ biến thành một con gấu
màu nâu và một con lợn lòi có cặp nanh nhọn hoắt. Hai con vật ăn ngon lành bữa
tiệc được bày ra rồi cúi đầu chào nhưng người nông dân để trở về với núi rừng.
Từ đó
về sau người ta con kể mãi về con gấu và lợn lòi tốt bụng đã giúp con người
giết chết con cua độc ác, đem lại cuộc sống bình an cho con người.
23. SỰ TÍCH CON SAM
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa, ở một làng ven biển nọ, có một đôi vợ chồng đánh cá nghèo nhưng hết mực
yêu thương nhau. Một hôm theo như lệ thường người chồng cùng trai tráng trong
làng ra khơi đánh bắt. Chị vợ cùng những người phụ nữ trong làng ra bãi biển
chờ chồng đem cá về. Không may cho những người đánh cá, họ vừa thả lưới xuống
biển thì một trận bão lớn nổi lên. Không một ai sống sót trở về nữa.
Những
người phụ nữ, người già và trẻ con hay tin dữ chạy hết ra ngoài bãi biển, họ hy
vọng chồng, con họ sẽ may mắn sống sót trở về. Càng chờ càng không thấy, cả
làng than khóc suốt mấy ngày đêm.
Người
vợ hay tin chồng chết rất mực đau khổ, nhưng chị vẫn có một niềm tin mạnh mẽ là
chồng mình còn sống. Thế là chị bỏ làng đi tìm chồng. Chị đi theo dọc bờ biển,
đi mãi, đi mãi mà chẳng biết là sẽ đi đến đâu. Tưởng như vô vọng, chị kiệt sức,
trước mặt chị là một ngọn núi. Dồn hết sức lực, chị trèo lên đỉnh núi, phóng
tầm mắt ra xa hy vọng sẽ tìm thấy dấu hiệu của chồng mình. Cuối cùng, mệt quá,
chị ngủ thiếp đi dưới một gốc cây. Trong giấc mơ chị gặp thần cây. Sau khi nghe
chị kể rõ đầu đuôi chuyện, thần cây rất xúc động và đưa cho chị một viên ngọc:
- Ta
thấy chồng ngươi hãy còn sống và đang ở ngoài đảo. Nay ta cho ngươi một viên
ngọc, ngậm nó vào miệng và nhắm mắt lại. Viên ngọc sẽ giúp nhà ngươi bay qua
biển để đón chồng về. Nhưng tuyệt đối không được há miệng ra, rơi ngọc là nguy
đấy.
Chị
choànng tỉnh dậy và thấy viên ngọc sáng lấp lánh trong tay mình. Biết giấc mơ
kia là hiện thực, chị ngậm viên ngọc vào miệng và nhắm mắt lại như lời thần cây
dặn. Chị thấy gió thổi bên tai ù ù, người chị nhẹ bỗng. Một lúc sau chân chị
chạm đất. Mở mắt ra, chị thấy mình đang đứng trên một hòn đảo hoang vắng lạ
lùng.
Tìm
kiếm một hồi lâu chị mới thấy chồng mình. Hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi
tủi, trò chuyện không dứt. Họ muốn quay về làng cũ nhưng chị vợ chỉ có một viên
ngọc. Suy nghĩ một hồi lâu, hai vợ chồng quyết định, chị vợ sẽ ngậm viên ngọc
còn người chồng sẽ ôm ngang lưng vợ để cùng bay qua biển.
Người
vợ do lâu ngày không được gặp chồng, lại phải chịu bao vất vả mệt nhọc đi tìm
nên gặp lại chồng chị vui mừng lắm nên quên mất lời thần cây dặn. Đang đi đến
giữa biển, chị mở mồm hỏi chuyện chồng. Viên ngọc văng ra giữa không trung rồi
rơi tõm xuống biển. Chị vợ chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng rơi
tõm xuống biển. Họ chết, hoá thành con sam. Ngày nay người ta thấy những con
sam thường đi cặp đôi dưới nước với nhau, lúc nào con sam đực cũng ôm con sam
cái như ngày xưa người chồng ôm vợ bay qua biển.
24. CHIM RI ĐI KIỆN
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Một
lần, do mải mê kiếm ăn nên châu chấu bị lạc lối, không về nhà được. Trời tối,
mưa rét làm cho châu chấu ta lạnh run ướt át không thể cất cánh bay được. Nó
quyết định phải tìm một chỗ ấm áp để qua đêm cho lại sức, chứ tối thế này có cố
gằng thì cũng không thể nào tìm được đường về. Châu chấu cứ lồm cồm bò mãi trên
một cành cây, cuối cùng nó lọt vào được tổ của chim ri. Châu chấu thấy ấm áp và
vô cùng dễ chịu. Toan định nằm xuống ngủ thì bỗng có tiếng nói cất lên:
- Ai đấy, đêm hôm khuya khoắt, vào nhà tôi làm
gì? Cẩn thận không thì lại đạp vào mấy đứa con của tôi.
- Tôi là châu chấu đây. Đêm tối lại mưa lạnh
tôi không thể tìm đường về nhà. Làm ơn cho tôi ngủ nhờ một đêm, sáng mai tôi sẽ
đi ngay.
- Nhà tôi chật chội, mấy mẹ con nằm còn chẳng
đủ. Chú hãy đi tìm chỗ nào rộng rãi hơn mà nghỉ!
Nhưng
châu chấu nài nỉ:
- Chị ơi, cho tôi ghé lưng nằm một tý ở ngoài
này cũng được. Tôi đã lạnh cóng rồi, làm sao có thể đi đâu được nữa.
Chim
ri mẹ thương tình đành cho châu chấu ngủ nhờ và dặn:
- Thôi được, cho chú nằm ghé bên kia, nhưng
cẩn thận không đạp vào mấy đứa con của tôi đấy.
Thế là
châu chấu xếp hai cái càng vào bụng, đặt lưng nằm xuống cạnh mấy chú chim ri
con đang ngủ say. Chỉ một lát, tất cả chìm vào trong giấc ngủ.
Đang
ngủ say sưa bỗng nghe thấy tiếng nai kêu "tác" bên cạnh nhà, tiếng
kêu to quá làm châu chấu ta giật nảy mình giơ cánh lên và đạp thẳng đôi chân
dài thượt của nó vào lũ chim non. Chúng bị dạt sang một phía làm cái tổ chao
nghiêng và rơi bịch xuống đất. Một con chim non ngủ say lăn nghiêng theo cái tổ
và rơi tõm xuống dòng sông. Nước cuốn nó đi mất hút.
Quá
tức giận vì tự dưng có một kẻ xa lạ đem đến tai hoạ cho gia đình mình, chim ri
bèn lên kiện Ngọc Hoàng. Nghe chim ri trình bày đầu đuôi, Ngọc Hoàng cho người
đến tận nơi xem xét rồi Ngài gọi châu chấu đến hỏi:
- Tại sao nhà ngươi đêm tối lại đến hại nhà
người ta.
Châu
chấu cúi đầu nhận lỗi đã vô tình gây tai hoạ cho gia đình chim ri, nhưng nó
cũng nói rõ nó chẳng hề có ác ý:
- Tôi không phải là kẻ vô ơn bạc nghĩa. Chỉ vì
có con nai kêu thét ngay cạnh nhà làm tôi giật mình nên đạp chân mới gây ra
nông nỗi này.
Thấy
châu chấu thực tình khai báo, Ngọc Hoàng thương tình tha cho và cho gọi nai
đến, kể đầu đuôi sự tình cho nai nghe và trách:
- Tất cả là tại nhà ngươi, tại sao đêm hôm
khuya khoắt nhà ngươi lại cất tiếng kêu làm gì?
- Oan cho tôi quá - Nai vội thanh minh - tôi
cũng đang lim dim ngủ, tự dưng có một quả sung xanh rơi trúng mặt tôi làm cho
tôi giật mình phát hoảng và kêu lên đấy chứ. Tại quả sung xanh, không phải tại
tôi.
Nghe
vậy, Ngọc Hoàng quay ra hỏi sung:
- Tại sao nhà người để quả rụng vào mặt nai
làm cho nó hét tướng lên gây tai vạ cho nhà người ta.
Sung
đợi Ngọc Hoàng nói dứt câu lập tức trả lời:
- Bẩm ngài! Tôi đâu muốn quả xanh của tôi rơi,
chỉ vì con kiến nó cắn cuống quả xanh nên quả mới rụng đấy chứ.
- Bẩm Ngọc Hoàng - Kiến thưa - Tôi đang sống
yên ổn trong đám lá khô ở dưới gốc sung, tự dưng mấy hôm nay có con gà ở đâu
đến xục xạo giết họ hàng nhà tôi, tôi cuống cuồng chạy trốn lên cây nên bị va
vào cành sung đau điếng. Bực mình tôi mới cắn quàng, cắn xiên như thế đấy ạ.
Ngọc
Hoàng gọi gà lên đối chất. Gà vốn không phải là dân bản địa của khu rừng, nó có
một đàn con và gà mẹ thường hay dẫn đàn con đi kiếm ăn. Dạo này thức ăn ngày
càng hiếm nên một hôm nó nhờ hàng xóm là vịt chở qua sông và hứa sẽ ấp trứng
hộ. Vì thế mẹ con gà được no bụng. Nghe tin Ngọc Hoàng buộc tội, gà đớ người ra
không biết chống chế thế nào vì nó thấy nó chẳng có tội gì. Không thấy gà nói
gì, Ngọc Hoàng tưởng gà nhận tội bèn ra lệnh nhốt gà vào nhà lao.
Đám gà
con mất mẹ nháo nhác đi tìm. Chúng khẩn khoản nhờ vịt chở qua sông thăm mẹ.
Nghe mẹ kể rõ sự tình, một con gà trống con - anh cả của đàn bèn đi tìm Ngọc
Hoàng kêu oan thay mẹ. Nghe gà con nói, Ngọc Hoàng chau mày:
- Oan cái nỗi gì? Nếu mẹ mày cứ kiếm ăn ở bên
kia sông đừng qua bên này thì làm gì có chuyện kiến cắn đứt cuống quả sung
xanh, để rơi vào mặt nai làm nó kêu thét lên khiến châu chấu giật mình đạp rơi
tổ nhà chim ri xuống đất, khiến chim ri mất con. Thủ phạm chẳng là mẹ mày thì
là ai.
Gà
trống con lễ phép:
- Bẩm ngài, chính vì thế mà con phải kêu oan
cho mẹ con. Ngài thấy đấy tất cả muôn loài Ngài đều ban tặng chúng dòng sữa để
nuôi con. Riêng loài gà chúng tôi thì không có lấy một giọt. Vì vậy gà mẹ phải
tần tảo nuôi con, mẹ con phải cùng nhau vất vả đi kiếm thức ăn là vì thế. Bên
kia người khôn của khó, mẹ tôi phải sang bên này, tình cảnh bắt buộc thế nên
đâu phải lỗi của mẹ tôi.
Ngọc
Hoàng thấy gà con cãi có lý bèn ra lệnh thả cho gà mẹ về. Mọi người khen ngợi
gà trống bé mà khôn ngoan. Từ đấy ai có việc kiện tụng gì thường mang gà trống
theo, hy vọng sẽ thắng kiện. Còn gà mái sau này phải ấp trứng hộ vịt để trả ơn.
25. HAI CON CÒ VÀ CON RÙA
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa, có một người đàn bà đanh đá, kiêu căng. Hễ cứ gặp việc gì không vừa lòng
là bà ta nhiếc móc, chửi bới loạn cả lên. Vì thế hàng xóm láng giềng xa lánh,
chẳng ai muốn tiếp xúc với bà ta cả.
Khi
chết, bị đày xuống địa ngục, Diêm Vương cho bà ta thử thách một thời gian rất
dài hòng sửa đổi tính cách điêu ngoa của mụ. Hết thời gian thử thách, mụ được
đầu thai thành một con rùa nhỏ. Diêm Vương cũng có chủ ý, cố tình sắp đặt cho
con rùa ấy sống một mình ở ao sen. Thế là dù có muốn gây sự, chửi bới, rùa ta
cũng đành bó tay. Hy vọng sẽ dần dần sửa đổi được tính chua ngoa, đanh đá của
nó.
Một
năm kia, trời làm hạn hán to lắm. Nước trong ao sen cứ cạn dần đi cho đến khi
chỉ còn lại vài vũng bùn sắp cạn. Nếu trời cứ tiếp tục làm đại hạn thế này thì
đến lúc sẽ chẳng còn kiếm đâu ra thức ăn. Rùa ta lo lắm.
Một
hôm, có hai con cò ở đâu bay tới ao sen của rùa kiếm ăn. Chúng đang lội bì bõm
để tìm tôm tép thì gặp rùa. Đang lo hết thức ăn, lại gặp kẻ đến ăn trộm, rùa
tức lắm, đứng ở cửa hang chửi ầm lên:
- Đứa nào đấy! Tại sao dám vào kiếm ăn ở chỗ
của bà thế hả? Có xéo ngay đi không, bà ra vặt lông bây giờ.
Lâu
rồi mới có người để chửi, rùa ta lấy làm sảng khoái lắm. Tưởng chừng có thể
chửi một thôi dài không cần lấy hơi ấy chứ.
Hai
chú cò thấy rùa chửi bới trong hang lòng không vui nhưng vì không muốn gây sự
lôi thôi nên dịu giọng bảo:
- Tưởng ai, hoá ra chị rùa. Chị đừng lo, chúng
tôi không đến tranh ăn của chị đâu. Chúng tôi chỉ muốn kết bạn với chị để cùng
nhau qua giai đoạn khó khăn này thôi.
Rùa
xẵng giọng:
- Thôi thôi, khỏi bạn bè. Tôi đây vẫn sống một
thân một mình suốt từ nhỏ đến lớn mà cũng có sao đâu.
- Thôi được, nếu chị không muốn làm bạn với
chúng tôi thì cũng được. Nhưng tôi xin báo cho chị biết là ao này có thể khô
cạn không có gì để mà ăn đâu.
Rùa tỏ
ra lo lắng, song vẫn không có dấu hiệu làm hòa với cò. Hai con cò nhũn nhặn:
- Chúng tôi bay từ xa đến đây, đã qua bao
nhiêu vùng đất, thiếu gì những nơi đầy ắp nước và vô khối thức ăn. Hà tất gì
phải lặn lội ở nơi khô hạn này. Chẳng qua, ngang qua đây, thấy chị chúng tôi
bay xuống báo tin cho chị biết. Trời còn khô hạn lâu lắm đấy. Chị liệu mà lo
đi.
Nghe
đến đây thì rùa ra lo lắng thực sự:
- Thế theo hai anh tôi phải làm thế nào để qua
giai đoạn khó khăn này.
Hai
con cò bèn nói:
- Nếu chị muốn, chúng tôi sẽ dẫn chị đến một
nơi nước trong xanh, cây cối um tùm, thức ăn đầy đủ, không bao giờ lo hết. Nơi
đấy cũng gần đây thôi.
- Nhưng tôi chậm chạp thế này, lại không biết
bay như các anh. Biết đến bao giờ mới đến được nơi đấy.
- Việc đấy có gì khó. Chúng tôi mỗi người sẽ
cắn vào một đầu gậy. Chị chỉ cần cắn chặt vào giữa. Như thế chúng tôi có thể
đưa chị đến nơi chị muốn. Nhưng phải nhớ là dọc đường không được không được
phép mở miệng ra. Nếu không chị sẽ bị rơi xuống đất, chết oan uổng.
Nghe
bùi tai, rùa ta đồng ý và làm theo. Quả nhiên, rùa bay được lên trời cao. Vốn
chậm chạp, nay được bay lượn, rùa ta thích chí lắm.
Lúc
bay qua một cánh đồng, những người làm đồng nhìn thấy cảnh tượng lạ mắt, vội
bảo nhau:
- Xem kìa, hai con cò kia đang tha một cục cứt
trâu.
Rùa ta
giận tím cả mặt, nhưng nhớ lời cò dặn, rùa phải làm thinh, không hé răng câu
gì.
Một
lát sau, cò bay ngang qua chợ. Những người đi chợ thấy cảnh thượng lạ lùng thì
reo ầm lên:
- Trông kìa, lạ chưa, hai con cò đang tha một
con chó chết.
Lần
này, máu nóng bốc lên mặt, rùa không thể bình tĩnh được nữa. Phải chửi cho bọn
ngu ngốc kia một câu thật đau mới được. Nhưng ai ngờ, vừa hé miệng ra, rùa ta
rơi bịch xuống đất. Người đi chợ bắt về làm thịt.
Hai
con có thấy rùa chết bảo nhau:
- Tội
nghiệp chị ta. Chỉ vì không nghe lời nên ra nông nỗi ấy. Đúng là cái miệng làm
hại cái thân, ngoa ngoắt lắm vào. Thôi bây giờ chúng ta có thể quay lại ao sen
kiếm ăn mà không sợ bị ai chửi bới nữa rồi.
26. SỰ TÍCH CON CUA
- Truyện cổ tích Mã Lai -
Ngày
xưa, có một cô gái xinh đẹp, nết na, mồ côi mẹ lúc chưa đầy tháng. Người cha
lấy vợ kế được một thời gian, không hiểu sao ông sinh bệnh chết, để lại cô con
gái bé bỏng. Cô bé phải sống với mẹ kế và con riêng của bà ta. Con riêng của dì
ghẻ suốt ngày ngắm vuốt, chẳng làm được việc gì, mà có làm thì cũng hỏng. Thế
nhưng cô ta lại được mẹ yêu chiều nên lúc nào cũng vênh váo, kênh kiệu, tự coi
mình là lá ngọc cành vàng.
Mọi
việc trong nhà dồn hết vào cô gái mồ côi. Biết phận mình, lại bản tính hiền
lành nên cô chịu đựng hết thảy, nín lặng làm hết mọi việc mà bà dì ghẻ giao
cho. Vậy mà cô vẫn bị mắng chửi, đánh đập một cách thậm tệ. Ai biết chuyện cũng
đều thương cho cô bé mồ côi tội nghiệp.
Một
hôm, thấy cô gái mặc chiếc váy hoa rực rỡ, mụ dì ghẻ nổi cơn tam bành. Cô vốn
đã xinh đẹp, nay mặc áo đẹp vào trông cô lại càng xinh hơn. Con gái mụ dù có
đắp ngọc ngà, châu báu vào thì cũng chỉ như quỷ sa tăng mà t hôi. Chẳng ma nào
ngó đến, các chàng trai chỉ muốn được gặp và kết hôn với cô gái mồ côi. Mụ dì
ghẻ sôi máu, xấn xổ vào cô gái đáng thương:
- Con ranh kia, sao mày cứ luẩn quẩn trước mắt
tao, biết kiếm việc gì cho mày làm bây giờ, đồ lười biếng kia. á à, chiếc váy
đẹp này mày ăn trộm của ai, nói mau!
Vừa la
hét mắng chửi, mụ vừa lao vào đánh cô gái tới tấp.
- Con xin mẹ - Cô gái mếu máo van xin - Con
chẳng ăn cắp của ai cả. Có một bà già cho con đấy.
- Một mụ già ? Làm gì có mụ già nào tốt bụng
đến thế. Nói sự thật đi, tao tha!
- Thưa mẹ, con nói thật đấy. Con chẳng biết bà
ấy là ai. Hôm nọ, con ra sông giặt quần áo, có một bà già đi qua, trông bà ấy
rất rách rưới. Bà ấy xin con nước uống. Con đã lấy bình nước đem theo đưa cho
bà cụ. Uống xong, bà ấy đưa cho con một cái bọc nói rằng thưởng cho lòng tốt
của con. Mở ra con thấy cái váy này, quay lại định trả lại cho bà cụ thì bà đã
đi mất.
- Có lẽ con bé này nói thật - Mụ dì ghẻ thầm
nghĩ. Thảo nào gần đây làng xóm cứ đồn là có một bà tiên nào đó. Vậy ta phải để
con gái ta ra sông để xin bà tiên cho nó xinh đẹp mới được.
Thế là
từ ngày ấy, cô gái mồ côi không phải ra sông giặt nữa mà thay vào đó là con
riêng của mụ dì ghẻ. Vì cũng mong muốn được bà tiên để được xinh hơn nên mặc dù
rất lười và không muốn giặt quần áo, con riêng của mụ ngày nào cũng ra sông đem
theo mấy cái khăn tay nhỏ để giặt.
Một
buổi sáng đẹp trời, cô gái đỏng đảnh õng ẹo ra sông. Cô thấy một bà cụ lạ xuất
hiện. Nhìn thấy bà cụ, cô gái kiêu kì định lấy bầu nước của mình đưa ra thì bà
cụ cất tiếng:
- Này cô gái! Vạt váy của tôi lấm bùn. Cô có
thể lấy nước gột sạch hộ tôi được không?
Cô gái
đỏng đảnh cong môi đáp:
- Cái mụ già bẩn thỉu này. Tại sao tôi phải
làm cái việc ghê tởm ấy. Bà hãy tự làm đi.
- Chà cái con bé hỗn xược này, mày thật không
giống cô gái kia chút nào. Một con người độc ác thì không thể trở thành người
con gái xinh đẹp được. Nhà ngươi phải bị trừng phạt.
Bà cụ
nói xong thì biến mất như chưa từng xuất hiện Cô gái đỏng đảnh kia chưa kịp mở
lời xin lỗi bà cụ và xin bà cụ cho xinh đẹp thì cũng vội biến mất. ở chỗ cô ta
xuất hiện một con vật nho nhỏ, người xám sịt, chân cẳng tua tủa. Hễ cứ thấy
người là con vật đó lủi xuống sông. Người ta gọi đó là con cua.
27. TO ĐẦU MÀ DẠI
- Truyện cổ Philippin -
Ở một
cánh rừng già, có chú hươu sao tinh nghịch nhưng lại rất thông minh. Một hôm,
khi nó đang say sưa gậm cỏ thì bỗng nghe thấy tiếng hổ gầm rung chuyển cả núi
rừng. Hươu định tháo thân chạy nhưng không kịp nữa rồi, hổ đã xuất hiện trước
mặt chú. Hổ ta chắc mẩn phen này được bữa no rồi đây nên cứ ung dung tiến lại
chỗ Hươu đứng. Sau mấy giây suy nghĩ, Hươu vội bẻ một cành cây nhỏ, xua xua đám
ruồi muỗi đang bâu trên đống phân trâu gần đó. Hươu giả vờ làm việc rất chăm
chỉ và chuyên tâm đến mức không nhận thấy hổ đang đến gần. Thấy lạ, Hổ bèn hỏi:
- Này con hươu kia, mày đang làm gì thế?
Hươu
giả vờ không nghe thấy, vẫn huơ huơ cành cây trên đống phân trâu. Hổ tức quá
gầm lên:
- Mày điếc à, sao tao hỏi không trả lời?
Lúc
này Hươu đã lấy lại được sự bình tĩnh nên đáp trơn tru:
- Anh không thấy à, tôi đang đứng canh giữ
chiếc bánh ngọt của vị thần Su - ma tối cao.
- Nói láo, ta đây là chúa tể của rừng xanh,
sao thần không sai bảo mà lại nhờ mày.
- Vì thần sợ anh hôi hám, làm hỏng chiếc bánh
vừa thơm, vừa bùi, vừa béo này nên cắt cử tôi trông.
Nghe
Hươu nói vậy, Hổ thèm rỏ rãi, mon men lại gần và năn nỉ:
- Nhà ngươi hãy cho ta nếm thử một chút nhé.
Biết
Hổ háu ăn, Hươu làm già:
- Không được! Anh chớ động vào. Tôi canh giữ
suốt từ sáng đến giờ mà còn chưa dám ngửi nữa là. Anh động vào thần Su - ma trị
tội thì đừng có trách tôi.
- Mày dọa tao à, mày không cho tao ăn thử, tao
sẽ xé xác mày ra - Hổ gầm lên.
- Ôi, thôi. Từ từ anh sẽ được ăn - Hươu ra vẻ
sợ hãi. Nhưng anh phải chờ tôi đi khỏi thì mới được ăn nhé, nếu không thần sẽ
trừng phạt tôi đấy.
Hổ
đồng ý. Chỉ chờ có thế Hươu ba chân, bốn cẳng chạy một mạch vào rừng thoát
thân. Còn lại một mình, Hổ nhảy bổ đến bãi phân trâu ngoạm ngay một miếng thật
to nuốt mà không kịp nhai. Bánh gì mà hôi thối thế này. Hổ cố sức nôn oẹ ra mà
không được, rất tức giận, tìm Hươu trả thù. Nhưng Hươu đã lẩn xa mất rồi.
Đánh
lừa được con Hổ ngu ngốc, Hươu nhởn nhơ trong rừng. Bỗng ngửi thấy mùi khét lẹt
của Hổ ở gần đấy, Hươu biết bây giờ có chạy cũng chẳng kịp nữa rồi. Nó bèn nghĩ
ra kế thoát thân. Nó thấy ở gần đấy có một con rắn hổ man đang cuộn tròn mình
ngủ say như chết. Hươu chạy vội đến ngồi bên rắn. Lúc đó Hổ từ trong bụi cây
nhảy ra:
- Con Hươu kia, mày đừng có hòng chạy thoát.
Hươu
tỉnh bơ:
- Này anh Hổ, lần trước anh cứ nằng nặc đòi ăn
bánh của thần Su - ma nên thần trừng trị anh, bắt anh phải ăn bãi phân trâu.
Tôi có ép anh đâu. Giờ tôi đang canh giữ cho cái khăn của thần Su - ma tôn kính
đấy. Anh hãy tránh xa ra, đừng để thần nổi giận.
Hổ vốn
tính tham lam, cái gì cũng muốn vơ vào mình nên muốn đội thử cái khăn đẹp đẽ
đó. Nó nài nỉ Hươu cho đội. Hươu không đồng ý. Nó ngọt nhạt dụ dỗ:
- Thần Su - ma ở xa thế chẳng nhìn thấy đâu.
Ta chỉ đội một lát rồi trả ngay mà.
- Đành phải chiều lòng anh vậy. Có làm sao anh
đừng có trách tôi nhé. Nào để tôi tránh đi cho anh đội.
Hươu
nói rồi vội lỉnh mất. Hổ gỡ con rắn hổ mang ra và cuốn lên đầu. Con rắn bị đánh
thức bất ngờ, nó thít chặt lấy đầu Hổ rồi mổ liên tiếp vào mặt Hổ làm nó rất
đau đớn. Mãi sau con rắn mới chịu buông tha nó. Vừa đau vừa mệt, con Hổ nằm vật
ra, thở hồng hộc, máu dính tèm lem khắp mặt.
Một
hôm, Hươu mê mải kiếm ăn nên trời tối không kịp về. Hươu đành tìm chỗ ngủ qua
đêm. Nó tìm thấy cây cổ thụ đổ nghiêng đè lên một bụi nứa có nhiều cây gãy dập.
Thế là nó tìm được một chỗ ngủ vừa kín đáo vừa ấm áp.
Lúc
ấy, Hổ đi qua hốc cây đổ và tìm thấy Hươu ở đó, nó chắc mẩm phen này thì Hươu
có chạy đằng trời. Hươu ngửi thấy mùi hôi của Hổ tỉnh dậy ngay và nghĩ kế đối
phó:
- Thế nào Hổ, anh vẫn khỏe chứ? Lần nào gặp
anh tôi cũng đang phải làm nhiệm vụ mà thần Su - ma giao phó. Lần này tôi đang
trông cây sáo thần của thần Su - ma đấy. Anh mà nghe thấy tiếng sáo này thì
thích phải biết.
Nghe
Hươu tán tỉnh, Hổ quên hết giận, nổi máu tò mò:
- Anh cho ta thổi sáo đi, ta thích thổi sáo
lắm.
- Được thôi, nhưng phải chờ đến nửa đêm mới
được thổi nhé. Anh phải thè lưỡi thật sâu vào cái khe này thì thổi sáo mới hay
được.
Con
Hươu ranh mãnh xui Hổ lách cái lưỡi vào thân nứa bị dập rồi nói:
- Bây giờ tôi xuống gọi gió về để cho anh thổi
sáo nhé. Như vậy thì sáo mới hay được. Nó nhảy vội xuống đất rồi chuồn thẳng.
Hươu
vừa đi khỏi thì gió nổi lên, lúc đầu hiu hiu, sau mạnh lên như bão. Thân cây
lắc lư, vặn vẹo. Mỗi lần như thế mảnh nứa sắc dập lại nhiến vào lưỡi Hổ. Nó đau
quá rống lên mà khôn làm sao rút lưỡi ra được. Nó giãy dụa. Mảnh nứa sắc như
dao đã cắt đứt đôi cái lưỡi Hổ. Nó chết ngay lập tức. Đúng là to đầu mà dại.
28. CON CÒ, CON CÔNG VÀ CON VẸT
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xửa, ngày xưa, trong khu rừng nọ có ba loài chim sống với nhau và yêu thương
nhau hết mực. Đó là con cò, con công và con vẹt.
Một
hôm, có ba anh chàng rủ nhau vào rừng săn thú. Họ đi suốt cả ngày mà chẳng bắt
được con nào, mãi đến chiều mới gặp được ba con chim nhỏ. Mỗi người bắt một con
về nuôi, yêu thương chăm chút cho chúng được khoẻ mạnh. Cả ba thầm nghĩ:
"Ta cố gắng nuôi và dạy nó múa hát rồi đem vào dâng vua lĩnh thưởng".
Người
nuôi công thì dạy công tập múa, tập chào theo hiệu lệnh. Con công vốn kém thông
minh nên người bảo sao nó làm theo vậy.
Người
nuôi vẹt dạy vẹt học nói tiếng người. Con vẹt vốn dễ bảo, thông minh lại hay
bắt chước nên nó học nói rất nhanh.
Người
nuôi cò định dạy cò theo ý mình. Nhưng cò vốn là con chim thông minh, khôn
ngoan. Nó nghĩ:
- Ta không nên làm như Công, như Vẹt. Vì nếu
ta biết múa, biết hát thì suốt đời ta phải sống trong lồng. Mà ta yêu cuộc sống
tự do ngoài cánh đồng kia hơn.
Thế là
nó ỳ ra, không chịu học gì cả, khi người dạy nó hát, múa, nó chỉ la lên duy
nhất một câu
- Krâ, krâ!
Được
một thời gian, hai người bạn rủ anh chàng nuôi cò vào cung vua. Anh chàng nuôi
cò ngần ngại nhưng lại sợ bạn bè chê kém cỏi nên cũng đành ôm cò đi theo.
Đến
hoàng cung, họ ra mắt nhà vua và khoe rằng họ có những con chim biết ca hát
nhảy múa. Nhà vua hỏi:
- Con công biết làm gì?
- Nó biết cúi chào vua và múa theo điệu nhạc.
Nhà
vua khen hay và quay sang hỏi người nuôi vẹt. Người này thưa:
- Tâu bệ hạ! Con vẹt của hạ thần biết nói
tiếng người. Nhà vua có thể hỏi và con vẹt có thể trả lời từng câu.
Vua
rất hài lòng để con vẹt sang bên cạnh và hỏi tiếp:
- Thế con cò của nhà ngươi biết làm gì?
- Tâu bệ hạ, thần đã tốn bao nhiêu công chăm
sóc, dạy dỗ nó mà nó không chịu hiểu gì hết. Nó chỉ biết kêu mỗi câu: Krâ, Krâ
mà thôi.
Con cò
nghe chủ nói vậy liền kêu lên:
- Krâ! Krâ!
Nhà
vua bật cười và ra lệnh cho lính hầu:
- Hãy thả nó ra đi, nó ngu quá, không biết làm
gì hết!
Con cò
bay lên điện của nhà vua và cất tiếng nói:
- Tâu bệ hạ, tôi không hề ngu ngốc đâu. Con
công, con vẹt làm theo lời chủ dạy học hát múa nên bị nhốt trong lồng, còn tôi
không nghe theo nên bây giờ tôi đã được tự do bay đến nơi nào tôi muốn.
Nhà
vua nghe cò nói gật gù:
- Đúng
lắm, hay lắm! Quả là một con cò thông minh.
Con cò
vỗ cánh bay đi để lại sự ngẩn ngơ của hai người bạn ngu ngốc là vẹt và công.
29. BẢY CHÚ DÊ CON
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Xưa có
một con dê cái trưởng thành sinh được bảy dê con. Bảy đứa, đứa nào cũng mũm mĩm
xinh xắn. Dê mẹ yêu dê con lắm. Một hôm dê mẹ vào rừng kiếm ăn. Trước khi đi,
Dê mẹ gọi các con lại căn dặn:
- Các
con yêu của mẹ, mẹ đi vào rừng đây. Các con ở nhà đóng chặt cửa lại kẻo chó sói
vào ăn thịt các con đấy. Chó sói lắm mưu mô xảo quyệt nhưng cái giọng của nó
lại ồ ồ khó nghe lắm. Nếu các con nghe thấy cái giọng đấy và cái đuôi đen xì
dài lê thê thì đừng mở cửa nhé.
Dê con
đồng thanh: Vâng ạ, xin mẹ cứ yên tâm.
Dê mẹ
yên tâm lên đường. Mẹ vừa đi được một lúc, những chú dê con đã nghe thấy tiếng
đập cửa gọi to:
- Các
con yêu dấu, mẹ đã trở về đây. Hãy mở cửa cho mẹ vào. Mẹ đem về rất nhiều thức
ăn cho các con đấy.
Sói
biết dê mẹ đã vào rừng nên đến định đánh lừa lũ dê con. Nhưng những chú dê con
đã nhận ra tiếng kêu ồ ồ của sói nên đã đồng thanh trả lời:
- Chúng tao không mở cửa. Mày không phải là mẹ
của chúng tao. Mày là chó sói. Mẹ tao có giọng nói thanh thanh chứ không ồ ồ
như giọng của mày. Hãy cút đi.
Sói
nghe lũ dê con bảo mình giọng ồ ồ bèn chạy đi hái lá chua ăn để có giọng được
thanh. Sói lại quay trở lại nhà dê cất giọng nhẹ nhàng gọi:
- Các
con yêu dấu, mở cửa cho mẹ vào. Mẹ mang nhiều thức ăn về cho các con đây.
Dê con
nghe giọng thanh hơn nhưng chúng vẫn cảnh giác đến bên cửa ghé nhìn ra ngoài.
Và chúng thấy cái đuôi dài ngoẵng, đen xì đang ngoe ngoảy. Chúng biết ngay là
sói bèn nói:
- Chúng tao không mở cửa cho mày đâu. Đuôi của
mẹ tao không đen như đuôi mày. Mày đúng là chó sói rồi.
Sói
vội chạy đến cửa hàng xén nhảy thẳng vào thùng bột mỳ của bác hàng xén. Cả
người và đuôi của nó trắng toát. Nó chạy lại nhà dê và ôn tồn gõ cửa lần thứ
ba:
- Các con yêu quí, mở cửa cho mẹ nào. Mẹ yêu
dấu của các con đã về và đem rất nhiều thức ăn cho con đây.
Dê con
bảo:
- Hãy chìa đuôi ra xem có phải là mẹ dấu yêu
không nào.
Sói
chìa đuôi ra. Dê con thấy đuôi trắng, yên trí là mẹ thật liền mở cửa ra. Sói
hiện ra trước cửa, dê con sợ quá cuống cuồng chạy trốn. Con thì nấp xó cửa, con
nấp gầm giường, con rúc xó bếp... Sói đã tìm ra cả, không con nào thoát được.
Nó nuốt chửng hết con nọ đến con kia. Chỉ trừ chú dê út núp trong vại nước là
nó không tìm ra được. Sói ăn no nê rồi đi ra ven suối nằm dưới gốc cây râm mát
thiu thiu ngủ.
Dê mẹ
trở về nhìn thấy cảnh bàn ghế đổ ngổn ngang, đồ đạc vất lung tung. Dê mẹ biết
có chuyện nên đi tìm con, gọi con khản cả cổ. Chẳng có đứa nào. Gọi mãi mới
thấy dê út từ trong vại nước chui ra khe khẽ kêu:
- Mẹ ơi con ở đây này!
Dê mẹ
bế dê con ra, mặt nó tái mét run lẩy bẩy. Nó lắp bắp kể lại toàn bộ sự tình. Dê
mẹ khóc thương con hết nước mắt. Nó quyết đi tìm Sói, dê con lẽo đẽo chạy theo
mẹ.
Ra đến
bờ suối, hai mẹ con dê thấy Sói đang nằm ngủ mê man. Và trong bụng nó có gì cựa
quậy. Hình như con mình còn sống, phải cứu chúng ra ngay. Nghĩ thế, dê mẹ sai
dê con chạy vội về nhà cầm dao ra, rạch bụng con Sói. Lần lượt sáu chú dê con
nhảy ra còn sống nguyên vẹn. Mấy mẹ con sung sướng ôm nhau nhảy múa. Chợt dê mẹ
bảo các con:
- Các
con hãy đi lấy ít đá cuội nhét vào bụng sói, mẹ sẽ khâu lại, nhanh lên kẻo nó
tỉnh dậy.
Bảy
chú dê con hối hả đi nhặt đá, nhặt được bao nhiêu nó nhét tất cả vào bụng sói.
Dê mẹ khâu lại thật nhanh rồi mấy mẹ con bỏ chạy.
Sói
sau giấc ngủ no nê thì tỉnh dậy. Nó thấy cổ khát cháy. Nó liền tìm đường xuống
suối uống nước. Nó thấy bụng kêu lạo xạo:
- Mình ăn thịt sáu con dê con chứ có ăn đá đâu
mà bụng lại lạo xạo thế này?
Nó quỳ
xuống bên mép nước định uống thì đá nặng trong bụng nó đã kéo nó rơi tùm xuống
suối. Đáng đời con sói độc ác.
30. SỰ TÍCH CHIM ĐỖ QUYÊN
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xửa ngày xưa, ở một làng nọ có đôi bạn chí thân tên là Quắc và Nhân. Cả hai cha
mẹ mất sớm, gia cảnh đều nghèo nên họ hiểu nhau và thông cảm lẫn nhau.
Quắc
được học hành hơn Nhân nên làm thầy đồ dạy trẻ. Tuy bổng lộc chẳng được nhiều
nhưng Quắc vẫn luôn giúp đỡ Nhân lúc một ít gạo, một ít tiền, hay thỉnh thoảng
lại có manh áo mới cho bạn. Nhân tuy không giàu tiền giàu bạc nhưng lại sống
với Quắc hết mình. Nhiều lần Quắc ốm nặng, nếu không nhờ có Nhân tận tình chăm
sóc thì chưa chắc Quắc đã qua khỏi. Tình bạn của hai người gắn bó keo sơn, nếu
không vì kế sinh nhai mà phải chia tay mỗi người mỗi ngả thì họ vẫn sống gần
nhau yên ổn.
Trong
khi Quắc yên ổn ở nhà với nghề dạy trẻ thì Nhân lang thang nay đây mai đó, làm
thuê, làm mướn. Qua nhiều phen thăng trầm, phiêu bạt chân trời góc bể, một ngày
kia anh đến làm công cho một phú thương. Thấy Nhân chăm chỉ, thật thà, chịu
thương chịu khó phú ông bèn gả con gái cho. Ông ta chỉ có mỗi cô con gái nên
mọi của cải trong nhà đều cho vợ chồng Nhân hết. Nhân bỗng nhiên trở thành
người giàu có.
Tuy
giàu có nhưng Nhân vẫn không quên tình bạn cũ, quên cảnh ngày xưa bữa cháo, bữa
rau hai người bạn đùm bọc nhau. Thế rồi Nhân trở về tìm bạn. Thấy Quắc vẫn sống
mạnh khỏe thì mừng lắm. Nhân mời bạn đến ở cùng mình để hai người tối lửa, tắt
đèn có nhau. Mới đầu Quắc từ chối vì còn đang dở năm học, không thể đi được. Về
sau Nhân giúp Quắc chuyển đám học trò sang học trường khác, cho thầy đồ khác
dạy thì Quắc yên tâm vui vẻ nhận lời đến ở nhà Nhân.
Nhân
đưa bạn về nhà, chàng dặn mọi người trong nhà đối xử với Quắc chu đáo như đối
xử với mình.
Vợ
Nhân thì lại không được như chồng. Xưa nay chị chỉ sống trong cảnh nhung lụa
giàu sang nên không hiểu được cảnh cơ hàn khốn khổ mà chồng nàng và bạn đã trải
qua. Chị ta cảm thấy khó chịu trước cách chồng đối xử với bạn như thượng khách.
Chị không hiểu được tình nghĩa của hai người sâu nặng như thế nào. Lúc đầu chị
ta chẳng dám nói gì. Nhân cũng luôn động viên vợ:
- Đây là người bạn thân nhất trong đời tôi.
Nếu không có bạn thì giờ này tôi không còn sống để gặp được mình.
Vợ
Nhân không phản đối ra mặt mà chỉ lẩm bẩm:
- Khéo vẽ, bạn với chả bè, chỉ toàn ăn hại.
Thế
rồi ngày lại ngày, chị ta cảm thấy rất khó chịu với cái ông khách lạ suốt ngày
ngồi lù lù trong nhà chẳng chịu làm gì, cứ đều đều xơi hai bữa cơm rượu ngon
lành. Lúc đầu chị ta còn đá thúng đụng nia, sau thì đánh chó chửi mèo, rồi đay
nghiến cả chồng lẫn khách. Nhân thấy thái độ như vậy, một mặt tự tay mình chăm
sóc Quắc, một mặt khuyên bảo vợ. Còn Quắc thì hiểu thái độ của vợ Nhân, chàng
xin phép ra đi nhưng Nhân cố níu lại. Đến một ngày, không thể chịu được cảnh
chị vợ Nhân xúc phạm mình, Quắc quyết chí ra đi cho dù Nhân đã đối xử quá chí
nghĩa chí tình. Quắc hy vọng một ngày Nhân sẽ hiểu vì sao chàng ra đi.
Một
sáng tinh mơ, Quắc lẻn ra đi. Để cho bạn khỏi mất công tìm kiếm, chàng cởi bỏ
áo mũ treo lên cây giả như mình đã chết rồi lần đường tìm đến một làng xin dạy
học.
Còn
Nhân tỉnh dậy, thấy bạn bỏ đi thì cuống cuồng đi tìm. Mấy ngày sau, nghe tin
người ta tìm thấy áo sống của Quắc treo trên cây trong rừng, Nhân vội đến thì
thấy đúng là áo của bạn mình nên ngỡ bạn đã chết. Nhân vô cùng đau khổ, chạy bổ
vào rừng hy vọng rằng có thể tìm thấy bạn. Nhân vạch lối, ngó hết bụi nọ đến
bụi kia, miệng không ngớt gọi tên bạn:
- Quắc ơi, anh Quắc ơi!
Nhân
tìm mãi, gọi hết ngày nọ sang ngày kia, cứ quanh quẩn trong khu rừng bạt ngàn
đó. Cho đến một hôm, không còn đủ sức Nhân ngã xuống. Đến hơi thở cuối cùng,
Nhân vẫn còn gọi tên bạn:
- Anh Quắc ơi! Anh Quắc ơi.
Nhân
chết đi hoá thành chim Quốc. Người ta còn gọi là chim Đỗ Quyên.
Vợ
Nhân đợi mãi không thấy chồng về, chị ta thấy ăn năn hối hận vì những việc mình
làm nên bỏ nhà ra đi tìm chồng. Cuối cùng nàng đến được khu rừng mà chồng nàng
đã chết ở đó. Nghe thấy chim kêu "Quắc ,Quắc " chị ngỡ tiếng chồng
chị mừng quá cất tiếng gọi:
- Anh Nhân ơi về thôi.
Không
có tiếng trả lời, chị cứ đi theo tiếng chim kêu tiến sâu vào rừng. Cuối cùng
thì chị ta cũng kiệt sức mà chết.
31. SỰ TÍCH CON BỌ HUNG
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xửa ngày xưa, trời và đất ở gần nhau lắm. Người trên trời, người dưới đất nói
chuyện với nhau nghe rõ mồn một vì thế người trên trời và người dưới đất hay
nói chuyện với nhau, chuyện vui, chuyện buồn đều kể cho nhau.
Người
trần gian ngày đấy đông đúc lắm, con cháu lại sinh sôi nảy nở đàn đàn, lũ lũ.
Mọi người hàng ngày phải giã gạo để ăn. Người càng ngày càng đông nên gạo ăn
hết ngày càng nhiều, nên từ mờ sáng tinh mơ người đã phải giã gạo để ăn. Họ thi
nhau giã, có khi đâm cả chày vào bụng trời lúc trời còn đang ngủ.
Vào
những ngày lễ, ngày Tết, người giã gạo ăn cả đêm. Trời buồn ngủ lắm nhưng không
làm sao ngủ được vì chày đập cả vào bụng mình đau điếng. Nhà trời bực lắm mà
không biết làm thế nào. Nghĩ mãi chỉ còn cách là bắt người trần gian phải ăn ít
đi may ra thì có thể yên tĩnh một chút được. Nghĩ là làm, nhà trời suy tính xem
có thể gọi ai đến để giao phó nhiệm vụ này. Cân nhắc mãi nhà trời giao nhiệm vụ
cho Bọ Hung đảm trách công việc này.
Nhà
trời gọi Bọ Hung đến truyền lệnh đưa xuống trần gian:
- Nhà
ngươi truyền lệnh của ta cho người trần gian rằng: bắt đầu từ ngày hôm nay,
người trần gian ba ngày mới được ăn một bữa, mỗi bữa chỉ được ăn ba lưng.
Bọ
Hung nhận lệnh của Ngọc Hoàng vâng dạ lên đường. Song Bọ Hung vốn là hay đãng
trí, đã bao lần truyền lệnh sai bị nhà trời quở phạt. Nhưng được cái là ngoan
ngoãn, biết nghe lời, hễ trời giao việc là làm ngay.
Lần
này Bọ Hung tâm niệm nhất quyết không truyền lệnh sai nữa nên ra khỏi cổng nó
đã lẩm bẩm cho khỏi quên:
- Ba
ngày ăn một bữa, mỗi bữa chỉ ba lưng...
Nó cứ
vừa đi vừa lải nhải như thế từ trên trời xuống trần gian. Một chàng trai đi
cùng Bọ Hung thấy nó cứ lẩm bẩm như vậy liền nấp vào bụi cây, chờ Bọ Hung đi
qua hét lên một tiếng thật to. Bọ Hung bị bất ngờ giật nảy mình. Thế là nó quên
khuấy mất những gì đang nói. Bọ Hung nghĩ mãi mà không ra nó đang nói câu gì,
anh kia liền nhắc:
- Mày
đang nói câu: mỗi ngày ăn ba bữa, mỗi bữa ăn tuỳ thích còn ăn vặt không kể.
Bọ
Hung rối rít cảm ơn mồm lại lẩm bẩm:
- Ngày
ăn ba bữa, ăn vặt không kể.
Vua
dưới trần gian nghe tin Bọ Hung mang lệnh nhà trời xuống thì tụ họp đầy đủ quan
quân lại để nhận chiếu chỉ. Nhưng khi nghe Bọ Hung truyền lệnh:
- Mỗi
ngày ăn ba bữa, ăn vặt không kể.
Vua
tôi dưới trần ngạc nhiên lắm ăn nhiều như vậy thì làm sao mà đủ thóc gạo. Trước
kia ngày ăn hai bữa mà đã phải giã rất nhiều gạo khiến nhà trời mất ngủ rồi,
nay lại ăn ba bữa một ngày là cớ làm sao.
Bọ
Hung truyền lệnh xong thong thả về. Nhà trời rất lấy làm lạ là tại sao ra lệnh
cho trần gian ăn ít đi mà người dưới trần lại giã gạo nhiều hơn trước. Nhà trời
bèn triệu tập vua trần lên để hỏi. Vua trần lên kể lại khi nhận lệnh, các quan
triều đình đều đến đông đủ để nghe chiếu của nhà trời là mỗi ngày ăn ba bữa, ăn
vặt không kể. Lúc đó nhà trời mới ngã ngửa ra là Bọ Hung truyền lệnh sai.
Nhà
trời rất tức giận gọi Bọ Hung đến đánh cho một trận nhừ tử. Sau đó sai lính cắm
xẻng vào đầu đẩy đi làm nghề xúc phân. Từ đó Bọ Hung phải đi hót phân không kể
ngày đêm.
Lệnh
đã ban ra không thể thu hồi. Dân chúng dưới trần ngày đêm giã gạo không ngơi
tay. Nhà trời mất ăn mất ngủ đành phải chuyển lên thật cao để con người không
thể chạm vào được.
32. CON SÓI ĐÓI
- Truyện cổ tích Trung Quốc -
Một
ngày kia, trên thung lũng Tây Tạng, có một con sói đói đang lảng vảng trên cánh
đồng để tìm thức ăn. Đúng lúc đó, nó bắt gặp một chú lừa đang nhởn nhơ gặm cỏ.
Ngay lập tức nó mon men lại gần chú lừa, nghĩ rằng mình đã có một bưa ăn ngon
lành.
Phát
hiện thấy sự có mặt của sói, lừa vô cùng lo sợ, nó nói với sói rằng:
- Bác sói ơi, bác ăn thịt tôi vào lúc này thì
chẳng ngon lành gì đâu, tôi gầy và ốm thế này anh ăn chẳng bõ. Bác hãy đợi tôi
vài tháng nữa, hết mùa hè tôi sẽ béo lên, lúc ấy bác ăn thịt tôi có phải là tốt
hơn không?
Sói
nghe lừa nói thấy hợp lý quá liền đồng ý, hẹn lừa hết mùa hè nó sẽ đến ăn thịt
lừa ở tại chỗ này. Rồi sói phóng đi tìm con mồi khác.
Chẳng
mấy chốc đã đến ngày hẹn, sói ta lên đường, lòng nôn nao mong được gặp lừa để
chén một bữa ra trò. Lâu lắm rồi nó chưa có bữa nào được no bụng. Đang đi, bất
chợt nó gặp cáo. Cáo cất tiếng hỏi:
- Chào anh sói, anh đi đâu mà trông có vẻ vội
vàng thế?
- Tôi đang trên đường đến thung lũng nơi tôi
có một cuộc hẹn với lừa. Tôi định ăn thịt nó vào ngày hôm nay.
- Anh cho tôi theo cùng được không, một mình
anh sẽ không ăn hết được cả con lừa đâu.
- Được thôi! Tôi rất sẵn lòng. Sói trả lời với
vẻ hiếu khách.
Thế là
sói và cáo cùng nhau lên đường. Đi được một đoạn chúng gặp một chú thỏ rừng
đang nhởn nhơ gặm cỏ.
- Xin chào anh cáo, anh sói! Hai anh đang đi
đâu mà trông vui vẻ thế - Thỏ cất tiếng hỏi.
- Chào anh Thỏ! Chúng tôi đang trên đường đến
thung lũng đằng kia, nơi chúng tôi có một cuộc hẹn với lừa. Chúng tôi định ăn
thịt lừa vào buổi trưa hôm nay - Sói đáp.
- Ồ, thật là tuyệt, một chú lừa to béo à? Tôi
rất muốn được các anh cho đi cùng. Hai anh chắc không ăn hết con lừa to béo đấy
đâu. Các anh có sẵn lòng chia sẻ với tôi một phần nhỏ chiến lợi phẩm của các
anh không?
Sói
đáp bằng giọng ngọt ngào:
- Tại sao lại không nhỉ? Anh thỏ, chúng tôi sẽ
rất vui nếu có anh cùng tham gia.
Cả ba
con thú vui vẻ cùng nhau lên đường đến chỗ hẹn. Đến nơi, chúng thấy có một con
lừa đang đợi chúng. Quả thật trong suốt thời gian mùa hè, cỏ cây xanh tốt, chú
lừa đã ăn rất nhiều cỏ non, uống nước trong mát nên trở lên béo tốt, mơn mởn,
khác xa với chú cách đây mấy tháng. Khi nhìn thấy lừa, sói không dấu được sự
vui sướng và bắt đầu liếm mép chờ chực.
- Chà, anh lừa, anh thật là đúng hẹn. Theo
thoả thuận giữa hai chúng ta, hôm nay tôi có mặt ở đây để ăn thịt anh. Cáo và
thỏ là hai người bạn của tôi, đến đây theo lời mời của tôi để cùng ăn thịt anh.
Anh đã sẵn sàng chưa? - Sói hỏi.
Nói
đoạn nó thu mình định nhảy bổ vào chú lừa. Lừa run rẩy, đứng im và sợ chết
khiếp. Bất chợt thỏ kêu lên:
- Khoan đã anh sói. Tôi có một đề nghị. Anh mà
nhảy bổ vào con lừa, cắn vào cổ để cho nó chết thì máu sẽ chảy ra hết, phí lắm.
Tôi có cách làm cho anh có thể tận hưởng hết toàn bộ con lừa này mà không phải
phí đi giọt máu nào.
- Cách nào, cách nào? Anh nói mau đi! - Cả sói
và cáo sốt ruột lắng nghe.
- Anh sói ạ, đằng kia có một trang trại của
người nông dân, anh hãy đến đấy mượn một sợi dây thừng, ta sẽ thắt một nút
thòng lòng vào cổ lừa xiết chặt cổ nó, thế là nó chết. Nhưng vì con lừa này quá
to béo nên cả ba chúng ta phải cùng nhau xiết cổ thì nó mới chết được. Hai anh
hãy thắt hai cái thòng lọng ở hai đầu dây thừng rồi chui đầu qua đó. Khi nào
tôi ra hiệu lệnh các anh hãy kéo thật mạnh thì mới được.
Cáo và
sói nghe thỏ nói vậy thì đồng ý ngay lập tức. Thế là chúng đi mượn dây thừng
rồi ném cái thòng lọng vào cổ chú lừa, còn chúng thì chui đầu vào hai cái thòng
lọng nhỏ hơn. Khi bọn chúng đã sẵn sàng, thỏ nhảy vào vị trí của mình ở cuối
dây thừng và giữ dây bằng những chiếc răng nhỏ của chú.
- Sẵn sàng chưa? Thỏ hỏi.
- Sẵn sàng.
- Tốt, thế thì kéo - Thỏ nói.
Thế là
chúng bắt đầu kéo, bằng tất cả sức lực của mình. Chú lừa thấy sợi dây đã được
kéo thì chú tiến về phía trước vài bước, sói và cáo thấy rất ngạc nhiên vì
chúng cảm thấy như chính mình đang bị lôi đi trên mặt đất.
- Ngươi không kéo à, kéo đi chứ - Sói và cáo
nhắc nhau, chúng bắt đầu cảm thấy khó thở và máu nóng dồn lên mặt.
Còn
chú thỏ ở ngoài hô to: "Kéo đi, kéo đi, hai anh", đồng thời nó thả
dây ra, chú lừa phóng đi kéo theo cả sói và cáo. Chỉ một lúc sau, sói và cáo bị
siết cổ đến chết. Chú lừa rũ dây thừng ra khỏi người, hý lên một hồi dài như để
cám ơn thỏ rồi tiếp tục nhởn nhơ gặm cỏ trên cánh đồng quen thuộc của mình.
Còn
thỏ rừng, nó cảm thấy rất khoái trá vì đã làm được một việc tốt trong ngày. Nó
thấy cần phải chạy ngay về nhà khoe mọi người biết việc này mới được.
33. CHÓ RỪNG VÀ CỌP
- Truyện cổ tích Trung Quốc -
Ngày
xưa, có một gia đình chó rừng gồm chó mẹ, chó cha và năm chú chó con đang sống
yên ổn tại một ngôi làng nhỏ. Sau một thời gian dài sống thoải mái, chó rừng
cha thấy cần phải chuyển chỗ ở khác cho an toàn vì dạo này những con chó trong
làng luôn luôn làm phiền chúng.
Một
ngày đẹp trời nọ, gia đình nhà chó rừng quyết định rời nhà tìm nơi ở mới. Đi
một lát, chúng đến được bìa rừng, tiếp tục đi một quãng nữa chúng bắt gặp một cái
hang cọp. Cọp đi đâu vắng và trong hang của nó có một số lượng thịt hươu nai
rất lớn mà hình như Cọp mới bắt được, chưa kịp ăn. Chó rừng mẹ và lũ con biết
đây là hang Cọp thì rất sợ, Muốn đi tìm chỗ khác. Chó rừng cha liền trấn an
rằng nó hiểu rất rõ loài cọp và hiểu phải đối phó như thế nào.
Cả nhà
chó rừng tiến vào hang Cọp, ăn một bữa no nê và nghỉ ngơi thoải mái. Chó rừng
cha bảo vợ
- Bây giờ bà cùng các con ngủ một giấc cho
khỏe, tôi sẽ ra ngoài, canh giữ cho mấy mẹ con ngủ. Khi nào thấy tôi gõ nhẹ vào
hang thì bà hãy đánh thức lũ con dậy, làm cho chúng gào thật to lên, tôi hỏi
làm sao thì bà hãy trả lời là con đói muốn ăn nhé.
Nói
rồi, chó rừng cha ra ngoài hang nằm canh chừng. Một lúc sau, nó ngửi thấy mùi
khét lẹt của Cọp, nó biết cọp đã về, liền gõ nhẹ vào cửa hang. Ngay lập tức,
chó rừng mẹ đánh thức các con đậy và làm cho chúng khóc toáng cả lên:
- Tại sao chúng lại khóc thế? Chó rừng cha cất
tiếng hỏi.
- Chúng đói và đang đòi ăn tối - ở trong hang
chó rừng mẹ nói vọng ra thật to để cho cọp nghe thấy.
- Hãy bảo các con chờ một lát nữa, Cọp sắp về
rồi, chẳng bao lâu nữa cả nhà ta sẽ có một bữa thịt Cọp nóng hổi.
Cọp
nghe thấy thế rất sợ hãi. Nó nghĩ thầm: "Con thú lạ nào có thể vào trong
hang của ta và đang chờ để nấu thịt của ta thế nhỉ? Chắc nó phải là con thú to
lớn và dữ tợn lắm". Vì thế không cần tìm hiểu thêm nó quay đầu, cắm cổ
chạy thật nhanh vào rừng.
Sau
khi chạy được một lát, nó gặp một con khỉ. Khỉ hỏi:
- Bác Cọp, sao bác chạy vội thế, có việc gì à?
- Có một gia đình con thú gì đó, thật to và
khủng khiếp, tự xưng là chó rừng đang chờ tôi ở trong hang, chúng muốn bắt sống
tôi và nấu lên cho lũ con đang đói của chúng. Sợ quá tôi phải bỏ chạy hòng giữ
được mạng sống cho mình.
Nghe
vậy, con khỉ ôm bụng cười nghiêng ngả:
- Tại sao bác Cọp là chúa tể rừng xanh mà lại
ngốc nghếch thế. Bác không biết chó rừng là loại như thế nào à? Chính bác là
người ăn thịt chó rừng chứ không phải là chó rừng đâu. Đừng sợ, hãy quay lại
nơi đó cùng với tôi, tôi sẽ chỉ cho bác cách đối phó với nó.
Để cho
Cọp cảm thấy vững tin vào khả năng của mình, khỉ buộc đuôi của mình vào đuôi
Cọp rồi cả hai cùng quay lại hang cũ. Khi gần đến hang Cọp, chợt cả hai nghe
thấy tiếng chó rừng:
- A, chào anh Khỉ, may quá có anh dẫn Cọp về
đây hộ chúng tôi, chúng tôi sắp chết đói rồi đây. Cám ơn anh nhé, người bạn tốt
bụng. Ơ, nhưng sao anh dẫn có một tên về đây? Lần sau anh dẫn hộ tôi vài tên về
nhé. Như vậy gia đình tôi mới đủ ăn.
Nghe
thấy thế, Cọp nghi ngờ rằng chính con Khỉ này là tay sai của chó rừng và nó
đang bị lừa đưa vào bẫy. Không một chút do dự, nó quay đầu bỏ chạy thật nhanh
vào rừng sâu. Con Khỉ bất hạnh bị xoắn đuôi vào đuôi Cọp không thể gỡ ra được
vì thế đã bị Cọp lôi đi, bị va đập vào hết bụi cây này, gốc cây kia. Đến khi
Cọp dừng lại để thở thì chỉ còn nhìn thấy cái đuôi khỉ còn lại. Từ đó gia đình
nhà chó rừng yên ổn sống trong hang Cọp mà không có con thú nào đến quấy phá.
34. VƯƠNG QUỐC CHUỘT
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xưa, có một vị vua cai quản một vùng đất rộng lớn, ở đấy có rất nhiều chuột sinh
sống. Những con chuột này có nguồn thực phẩm dồi dào và sống rất kỉ luật. Chúng
không bao giờ phá hoại cuộc sống của con người nên chuột và người sống bình yên
bên nhau.
Một
năm kia, trời làm mất mùa, lũ chuột chỉ sống được bằng số lúa ít ỏi thu được từ
vụ thu hoạch. Kho luá dự trữ của chuột đã gần cạn, vì thế vua chuột quyết định
nhờ sự giúp đỡ của con người. Nó diện một bộ cánh đẹp đẽ và khởi hành đến cung
vua của loài người. Thị vệ bẩm báo có một con chuột đến xin yết kiến, nhà vua
lạ lắm liền cho gọi vào.
Vua
chuột tiến vào. Nhà vua nói một cách nhã nhặn sau khi nhận được điệu chào hết
sức cung kính của vua chuột:
- Xin chào người anh em, tôi có thể giúp gì
được đây.
- Kính thưa đức vua - vua chuột đáp - Năm nay
mất mùa đói kém, loài chuột chúng tôi sẽ bị đe dọa chết đói vì lương thực dự
trữ của chúng tôi đã sắp cạn. Xin ngài hãy cho tôi mượn đủ thóc lúa để qua được
mùa đông này. Chúng tôi sẽ hoàn trả cả vốn và lời vào vụ sau.
Nhà
vua vuốt cằm hỏi:
- À ra vậy! Thế người anh em cần bao nhiêu
thóc lúa?
- Chúng tôi cần một trong những kho đầy lúa
của ngài.
- Vậy nhà ngươi sẽ mang nó đi bằng cách nào?
- Chúng tôi sẽ có cách ngài yên tâm!
Thế là
nhà vua hạ lệnh cho mở một kho thóc lớn của mình. Đêm đó vua chuột cho triệu
tập tất cả thần dân lại, mấy ngàn con chuột tràn vào kho thóc. Mỗi con nhặt
thật nhiều thóc mang đi bằng tất cả những cách mà chúng có thể như: gậm vào
miệng, mang trên lưng hoặc cuộn trong đuôi của chúng.
Sáng
hôm sau, nhà vua đến thăm kho thóc và kinh ngạc khi thấy kho thóc sạch trơn,
không còn lấy một hạt. Ông đánh giá rất cao khả năng của chuột. Đến vụ sang
năm, vua chuột giữ đúng lời hứa, hoàn trả cả vốn lẫn lãi, nhà vua lúc này đã
sẵn sàng thừa nhận rằng loài chuột rất đáng tin cậy và thông minh.
Không
bao lâu sau đất nước của nhà vua đứng trước nạn bị xâm lược. Quốc gia láng
giềng chỉ cách nước ông một con sông là một quốc gia hùng mạnh. Họ nhanh chóng
tập hợp một đội quân thiện chiến, hùng hậu đến sát bờ sông chuẩn bị một cuộc
tấn công xâm lược. Loài chuột nghe tin, chúng rất buồn vì sợ phải sống với một
kẻ trị vì xa lạ và không đồng cảm. Vì thế một lần nữa, vua loài chuột lại đến
hoàng cung để đưa ra lời đề nghị giúp đỡ của loài chuột. Dù rất lo lắng nhưng
nhà vua cũng cảm thấy thú vị và hỏi làm cách nào mà loài chuột có thể giúp được
khi ngay cả ông cũng không thể có đội quân hùng mạnh để xua tan kẻ thù. Vua
chuột bảo: "Hãy cứ để việc đó cho tôi".
Chiều
hôm sau, lúc chạng vạng tối, vua chuột dẫn hàng vạn thần dân đến bên bờ sông, ở
đấy chúng tìm thấy hàng trăm ngàn chiếc que được xếp thành hàng mà theo lời đề
nghị của vua chuột, vua loài người đã đặt ở đó. Loài chuột sử dụng những cái
que này như một cái bè để giúp chúng qua sông đến trang trại của quân thù. Toàn
bộ doanh trại đang ngủ say. Theo lệnh vua, lũ chuột phân tán khắp doanh trại và
bắt đầu hành động. Chúng ra sức cắn phá, gặm nhấm mọi thứ. Chúng cắn những sợi
dây cung, phá những dây đeo súng hoa mai của bọn lính, một số khác gặm mòn ngòi
nổ, gặm nhấm quần áo tư trang cùng lương thực... Sau vài tiếng đồng hồ, toàn bộ
doanh trại của bọn lính bị cắn phá hoang tàn. Theo lệnh vua lũ chuột tập hợp
lại và lên những cái que gỗ để trở về bên kia sông một cách an toàn và lặng lẽ.
Sáng
hôm sau, bọn lính tỉnh dậy và phát hiện ra tình trạng thảm cảnh của chúng. Tên
lính nào cũng bị cắn rách đến tơi tả quần áo, cung không còn dây, súng không có
dây đeo và không có một chút nào thức ăn dự trữ cho bữa sáng. Cả doanh trại rơi
vào tình trạng náo loạn, ầm ĩ, ai cũng mất bình tĩnh. Bỗng họ nghe thấy tiếng
tù và và những tiếng hò reo ở phía bên kia sông. Nghĩ rằng mình sắp bị tấn công
nên tất cả binh lính trong doanh trại vắt chân lên cổ mà chạy. Đất nước sạch
bóng quân thù!
Vị vua
của đất nước những chú chuột rất vui mừng vì chiến thắng đó. Ông đã không phải
mất một hòn tên mũi đạn nào, không phải hy sinh một tính mạng nào mà đất nước
vẫn giữ được sự bình yên. Nhà vua lập tức cho hiệu triệu vua chuột đến để cảm
ơn vì sự giúp đỡ đó. Và theo thỏa thuận lúc trước, nhà vua giúp vua chuột trừ
khử hai mối nguy hiểm của loài chuột là lũ lụt và những con mèo. Vua ra lệnh
xây dựng một hệ thống đê điều để bảo vệ cho tổ của chuột không bị ngập nước vào
mùa mưa. Ngoài ra loài mèo bị trục xuất ra khỏi vương quốc không một ai được
phép nuôi mèo. Kể từ đó loài chuột được sống bình yên dưới sự che trở của con người.
35. CUỘC TRANH LUẬN CỦA
CÁO, THỎ VÀ CÓC
- Truyện cổ tích Trung Quốc -
Vào
một ngày đẹp trời nọ, có một con cáo, một con thỏ và một con cóc đang ngồi nghỉ
dưới gốc cây trong rừng. Chúng nói chuyện rất lâu, tranh luận về rất nhiều vấn
đề. Cuối cùng chúng tranh luận về đề tài tổ tiên của ai có mặt sớm nhất trên
trái đất này.
Cáo
nói:
- Tổ tiên của tôi mới là loài có mặt sớm nhất
trên trái đất này, bởi vì tổ tiên của tôi đã sống qua suốt triều đại Hán xa
xưa, các bạn có thể nhận thấy điều này qua các điển tích xa xưa. Vì vậy các bạn
cần phải thừa nhận dòng họ của tôi trội hơn hẳn bất cứ dòng họ nào trong số các
bạn.
Thỏ
ngồi xổm và vuốt ve những sợi râu của nó. Ngay khi cáo vừa dứt lời Thỏ đã phá
lên cười và nói:
- Bạn
kiêu căng quá đấy, giống y như đồng loại của bạn vậy. Các bạn cần phải thừa
nhận với tôi rằng trước khi có các triều đại nhà Hán xa xưa thì mặt trăng đã
xuất hiện rồi đúng không nào? Nếu các bạn nhìn lên mặt trăng vào một đêm quang
đãng nào đấy các bạn sẽ thấy dưới gốc cây quế có một chú thỏ đang giã thuốc
trong một cái cối. Đó là tổ tiên lỗi lạc của tôi. Các bạn phải chấp nhận với
tôi rằng dòng họ nhà tôi lâu đời và đáng nhớ nhất.
Cáo
ngồi im lặng còn Cóc cười đến chảy cả nước mắt, một lúc sau mới đủ điềm tĩnh để
kể câu chuyện của mình:
- Từ
lâu, trước khi mặt trăng xuất hiện, bầu trời còn đang ở trong cảnh hỗn mang thì
đã có ba anh em nhà ếch sống ở đó. Một trong số họ chết vì bị đè nát dưới một
trong những cây cột chống trời, một chết khi Pandora làm tan chảy năm hòn đá
lớn mà bà dùng để vá kẽ hở của trời, còn người cuối cùng bị giết khi hoàng đế
nhà Chu xây dựng cung điện nguy nga của ông ta. Vì thế dòng họ của tôi mới tồn
tại lâu nhất. Thật nực cười khi các bạn không biết đến sự tích đó mà vỗ ngực tự
hào về dòng họ của mình.
Trong
lúc Cóc đang ba hoa, bốc phét về dòng họ tổ tiên của mình thì một con cọp xám
âm thầm len vào nhóm. Khi Cóc dứt lời thì Cọp nhẹ nhàng duỗi chân, hất Cóc sang
một bên kèm theo cái khịt mũi khinh miệt.
- Ồ,
ông Cọp - Cóc nói - chúng tôi không bàn về những chiến công của sức mạnh thưa
đức ngài đáng kính. Chúng tôi đang bàn về sự tôn kính.
- Thế
thì được rồi, Cọp đáp - Vì ngươi coi thường sức mạnh như thế nên có lẽ ngươi
hãy cho ta biết chuyện gì sẽ xảy ra cho nhà ngươi nếu ta đặt chân của ta lên
chân của nhà ngươi và giữ trong đó vài giây?
Cóc
suy nghĩ một lát rồi trả lời:
- Tôi có thể sống dễ dàng bằng cách nuốt nước
bọt vì loài ếch của chúng tôi hiếm khi ăn uống thứ gì khác. Nhưng thưa ngài
đáng kính, tôi có thể hỏi lại ngài rằng trong khi ngài giữ chân tôi trong chân
ngài thì chuyện gì sẽ sảy ra vì loài cọp khác loài cóc ở chỗ cần nhiều thức ăn
hơn là nước bọt. Tôi thực sự lo là ngài sẽ bị chết đói.
Cọp
không thể đáp lại lý lẽ này nên nó đành bỏ đi.
Cáo,
Thỏ và Cóc chờ cho đến khi Cọp đi khuất hẳn rồi chúng cười phá lên, chúng cười
vì đắc ý với câu đối đáp thông minh của Cóc. Khi đã bình tâm lại, tất cả bọn
chúng đều đồng ý rằng tốt nhất bây giờ là chúng cần biến nhanh vào rừng trước
khi Cọp có thời gian suy nghĩ lại toàn bộ sự việc và quay trở lại để thưởng thức
bữa tối tuyệt vời của nó.
36. TRÍ KHÔN CỦA TAO ĐÂY
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Một
con Cọp trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng con trâu đang cày dưới
ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị người quất một cái vào mông.
Nó thắc mắc tại sao trâu to khoẻ kia lại sợ con người bé nhỏ đến thế. Đến buổi
trưa, người cho trâu nghỉ cày nằm dưới gốc cây râm mát. Cọp liền lại gần trâu
và hỏi:
- Này anh Trâu, anh to khỏe như vậy, sao lại
để cho người đánh đập khổ sở thế?
Trâu
khẽ khàng trả lời vào tai Cọp:
- Con
người tuy nhỏ bé song họ có trí khôn nên họ có thể điều khiển được tất cả muôn
loài.
Cọp
không hiểu, tò mò hỏi lại:
- Trí khôn là cái gì? Trông nó ra làm sao?
Trâu
không biết giải thích làm sao đành trả lời qua quýt:
- Trí
khôn là trí khôn chứ là cái gì nữa! Anh muốn biết rõ thì ra hỏi con người ấy.
Cọp
thong thả lại gần chỗ anh nông dân, ôn tồn hỏi:
- Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tý có
được không?
Người
nông dân suy nghĩ một lát rồi trả lời:
- Trí khôn ta để ở nhà mất rồi. Để tôi về lấy
cho anh xem nhé.
Người
nông dân toan đứng dậy định ra về nhưng làm như sực nhớ ra vấn đề gì đó bèn
nói:
-
Nhưng nhỡ tôi đi khỏi anh lại ăn thịt mất trâu của tôi thì sao? Hay là anh để
tôi buộc tạm anh vào gốc cây này thì tôi mới yên tâm về lấy được.
Cọp
ưng thuận, anh nông dân bèn lấy thừng trói cọp vào gốc cây thật chặt. Xong anh
nông dân quất roi túi bụi vào đầu và lưng cọp, vừa quất vừa quát:
- Trí
khôn của tao đây! Trí khôn của tao đây!
Chưa
hả, anh chất rơm chung quanh châm lửa đốt và quát
- Đã
thấy trí khôn của tao chưa? Đã thấy trí khôn của tao chưa?
Trâu
thấy vậy thích quá, bò lăn ra cười, không may hàm trên va vào đá, răng gãy
không còn chiếc nào. Mãi sau lửa cháy làm dây thừng đứt, cọp mới vùng dậy ba
chân bốn cẳng chạy thẳng vào rừng không dám ngoảnh đầu nhìn lại.
Từ đó
trên mình Cọp con nào cũng có vằn đen, dài vốn là dấu tích của những vết cháy,
còn trâu con nào cũng không có răng ở hàm trên do ngày xưa cười va vào đá gãy
hết.
37. DIỀU HÂU VÀ CHÍCH CHOÈ
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày xưa
trong khu rừng già nọ, có một con diều hâu luôn luôn huênh hoang, hợm hĩnh. Nó
tự coi mình là chúa tể của muôn loài chim, tự hào về sức khoẻ vô địch của nó.
Một
hôm diều hâu tập hợp tất cả các loài chim lại và lên giọng thách thức:
- Hỡi các loài chim, trong các ngươi có kẻ nào
dám đọ sức kêu to, ăn nhiều bay cao cùng ta không?
Cả bầy
chim sợ hãi nhìn nhau, không con nào dám ho he lấy một tiếng. Thấy thế diều hâu
càng được thể. Lúc bấy giờ một chú chích chòe nhã nhặn lên tiếng:
- Bác diều hâu ơi! Thi ăn nhiều, kêu to với
bác thì chúng em không dám. Nhưng thi bay cao với bác thì em cũng xin thử một
lần xem sao.
Cả
loài chim sửng sốt quay lại nhìn chích choè. Diều hâu cũng ngạc nhiên không kém
vì lại có một con chim nhỏ dám so tài cùng với mình. Chích choè không hề nao
núng. Cuộc thi bắt đầu trước sự chứng kiến của các loài chim.
Diều
hâu vỗ cánh bay cao. Khi bay cao hơn cả các ngọn cây cao nhất, diều hâu cất
tiếng gọi:
- Ê này Chích choè, chú mày đang ở đâu rồi, có
bay kịp ta không?
- Em đây, bác cứ yên tâm, em không bỏ cuộc
đâu!
Diều
hâu lại cố sức bay cao hơn, khi bay cao hơn cả những đỉnh núi quanh năm mấy
phủ, diều hâu lại cất tiếng gọi:
- Thế nào, Chích choè, vẫn theo kịp ta đấy
chứ.
Chích
choè lại bay lên cao:
- Vâng, em vẫn theo kịp bác đây. Bác mệt mỏi
rồi hay sao mà bay chậm thế?
- Không đời nào
Diều
hâu nói hổn hển rồi tiếp tục bay ngược lên cao, cao mãi. Lần này diều hâu ở
trên cả những đám mây trắng xoá. Nó tin là chích choè chẳng thể nào bay lên
tầng cao này được. Đôi cánh mỏi rã rời, bải hoải, cổ và đầu nặng chĩu, mắt hoa
lên, diều hâu nói chẳng ra hơi:
- Chích choè chịu thua ta rồi đấy!
- Chưa đâu em vẫn ở trên đầu bác đấy thôi.
Diều
hâu lại cố sức bay lên, chẳng nhẽ mang tiếng là chúa tể của loài chim lại thua
con chim bé tẹo kia sao. Diều hâu cố rướn những sức tàn còn lại của nó nhưng
không được nữa rồi, nó tắt thở và rơi bịch xuống đất. Khi đấy chích choè chỉ
còn mỗi việc xoè cánh ra từ từ hạ xuống trước sự ngạc nhiên của cả bầy chim.
Chúng không thể hiểu được tại sao chích choè lại có thể thắng được diều hâu vốn
bay cao là thế.
Duy
chỉ có mỗi con sẻ non là nhìn thấy lúc bắt đầu cuộc thi chích chòe đã đậu lên
lưng diều hâu, diều hâu mất công chở chích choè mà không biết. Mỗi lần diều hâu
cất tiếng hỏi thì chích choè chỉ việc bay lên trả lời, thành ra nó chẳng mất tí
sức nào.
Bằng
trí thông minh, lòng dũng cảm, chích choè đã thắng được diều hâu kiêu ngạo to
lớn hơn gấp nó trăm lần.
38. CON VOI TRẮNG
- Truyện cổ tích Nhật Bản -
Ngày
xửa ngày xưa, trong khu rừng rậm của dãy núi cao kia có con voi trắng. Nó sống
đã rất nhiều năm và có một đôi ngà dài cong vút. Hơn nữa voi trắng lại rất
thông minh và tốt bụng. Nó nghĩ rằng điều xấu sẽ nảy sinh điều xấu thế nên nó
đối xử rất tốt với tất cả muôn thú. Vì thế cho nên tất cả muôn thú đều yêu quý
tin tưởng voi, có chuyện gì xảy ra chúng đều hỏi ý kiến voi, nhờ voi dàn xếp.
Nhũng lúc như thế, voi trắng vừa là vị quan toà công minh chính trực, vừa là
người bạn, người anh tâm tình. Nó giúp đỡ những ai cần đến nó một cách nhiệt
tình nên trong rừng muông thú trìu mến gọi nó bằng cái tên "Vị vua tốt
bụng của loài voi".
Một
hôm, có một người đàn ông bị lạc trong khu rừng rậm. Giữa những cây cổ thụ bạt
ngàn, giữa những dây leo chằng chịt, ông ta không thể xác định được phương
hướng nên ông ta rất sợ hãi và hoảng loạn. Ông ta gào thét đến điên cuồng,
tuyệt vọng đến cùng cực. Chẳng ai nghe thấy tiếng gọi của ông ta. Duy chỉ có
con voi trắng đang đứng gần đấy nghe được, nó bước lại gần chỗ người đàn ông.
Người đàn ông nhìn thấy con voi trắng to lừng lững thì vô cùng hoảng sợ định bỏ
chạy. Chợt con voi cất tiếng nói:
- Tại sao ông lại kêu khóc?
Thấy
con voi hiền lành chỉ đứng nhìn mình mà không tiến lại gần, người đàn ông bình
tĩnh, một lát trả lời:
- Tôi bị lạc trong rừng, không thể nào tìm
đường ra được. Tôi không muốn phải chết ở đây.
- Đừng sợ, tôi sẽ đưa ông ra khỏi rừng, ông sẽ
về được nhà.
Nói
rồi voi thận trọng cuốn lấy người đàn ông đặt ngồi ngay ngắn trên lưng mình rồi
cất bước ra khỏi rừng. Người đàn ông vững dạ yên tâm ngồi trên lưng voi và biết
rằng mình sẽ về nhà. Trong đầu ông ta nảy sinh ý định xấu xa: "Ta sẽ kể
chuyện này cho mọi người nghe".
Thế
rồi hắn quan sát rất kỹ đường đi, cố gắng để nhớ lối trở lại. Ra đến đường lớn,
voi đặt người đàn ông xuống đất và nói:
- Đến đây thì ông có thể tự về một mình được
rồi. Băng qua hết cánh đồng này sẽ đến làng của ông. Ông hãy đi đi và xin hãy
giữ kín chuyện này cho.
Đặt
chân xuống đất, người đàn ông chạy thẳng một mạch trở về không một lời cảm ơn.
Ông ta đến nhà người thợ gia công nhà voi và hỏi:
- Các anh sẽ trả tôi bao nhiêu tiền nếu tôi
đem đến cho các anh bộ ngà voi của con voi sống không?
- Lấy đâu được ngà của con voi trắng bây giờ?
Nếu có, ông hãy đem đến đây, chúng tôi sẽ không để cho ông thiệt đâu. Một bộ
ngà voi sống đắt gấp mấy lần ngà voi chết đấy!
Nghe
vậy, người đàn ông quay bước đi. Ông ta về nhà lấy cái cưa và lần theo dấu vết
tìm đến khu rừng nơi có con voi trắng sinh sống. Thấy hắn, voi ngạc nhiên hỏi:
- Sao ông quay lại nơi này làm gì? Có chuyện
gì xảy ra chăng? Voi trắng hỏi.
- Đúng thế, hỡi voi yêu quý! Tôi rất nghèo
đói, chẳng có gì để ăn cả. Voi hãy cho tôi một chiếc ngà, tôi sẽ bán nó lấy
tiền sinh sống.
Sững
sờ trước lời đề nghị thô thiển ấy, voi không thể nói được gì. Một lát, voi bảo:
- Thôi được tôi sẽ cho ông một chiếc ngà.
Voi
quỳ uống cho người đàn ông cưa một bên ngà của mình. Vẫn chưa thoả mãn với
chiếc ngà có được, hắn muốn lấy nốt bên kia:
- Voi yêu quý! Một chiếc ngà đi còn một chiếc
ngà ở lại, hẳn nó sẽ không vui. Hay cho ta nốt chiếc ngà kia đi để ta không
phải trở lại lần thứ hai để xin chiếc ngà con lại.
Lòng
tham vô đáy của người đàn ông làm cho con voi vô cùng ngạc nhiên. Nhưng bản
tính tốt bụng, lại không muốn gặp lại con người tham lam này lần nữa, voi đồng
ý và nói với người đàn ông với một giọng nghiêm trang:
- Tôi rất quý bộ ngà của mình. Nhưng nếu ông
cần để ông thoát khỏi cuộc sống đói nghèo thì ông hãy nhận lấy. Hãy sống xứng
đáng với những gì ông đã được nhận.
Chẳng
buồn nói một lời cảm ơn, người đàn ông cầm đôi ngà vội vã bỏ đi. Hắn bán được
một số tiền khá lớn. Tuy nhiên tiền không do sức lao động bỏ ra mà có được nên
hắn không biết quý giá trị của đồng tiền, ăn tiêu phung phí, rồi chẳng mấy chốc
mà hết. Hắn lại tìm đến voi trắng tốt bụng.
- Voi yêu quý, ta bán ngà được một số tiền ít
ỏi, chẳng đủ dùng, nay đã hết rồi. Ta sắp chết đói. Voi hãy cho ta đôi chân ngà
để ta có tiền sinh sống.
Voi
cũng bằng lòng mặc dù trong bụng không vui. Thôi thì đã giúp thì giúp cho trọn.
Lấy được đôi chân ngà, con người đê tiện đấy ấy vui mừng trở về, trong lòng
nhẩm tính số tiền sẽ bán được.
Voi
trắng rất buồn lòng vì sự thiếu tôn trọng của người đàn ông kia. "Ta đã
hết lòng giúp đỡ người đàn ông kia vậy mà một lời cảm ơn hắn cũng không nói
được. Không sao. Ông ta sẽ phải gánh chịu hậu quả của những việc làm bất nghia
đó".
Và đất
mẹ của chúng ta, người chịu được những trận cuồng phong, đại hồng thuỷ, những
trận động đất núi lửa lại không thể chịu được sự tham lam, độc ác, đê tiện của
người đàn ông kia. Đất mẹ đã nứt ra vùi tên đê tiện đó vào sâu trong lòng dất.
Đáng đời con người tham lam, trơ trẽn!
39. TÌNH BẠN CHUỘT MÈO
- Truyện cổ tích Malaixia -
Ngày
xưa, trong ngôi nhà nọ, có một con mèo sống một mình. Nó cảm thấy rất buồn,
muốn kết bạn với một ai đó. Gần đấy có một chú chuột, thế là nó gạ gẫm chuột
chơi với nó. Nghe meo kể lể, tâm tình, chuột đồng ý ăn ở chung với mèo.
Một
hôm, mèo bảo chuột:
- Mùa đông giá lạnh, ta khó có thể đi kiếm
được thức ăn. Chi bằng bây giờ, hai chúng ta tích trữ một ít lương thực, phòng
cho những lúc đói kém đó.
Chuột
nghe mèo nói vậy thì đồng ý. Chúng bàn nhau mua một niêu mỡ thật to nhưng lại
không biết giấu ở đâu. Cuối cùng chúng quyết định đem đến nhà thờ, giấu ở đó vì
không ai dám lấy đồ ở nhà thờ. Chúng hứa với nhau, nếu chưa thật cần mỡ thì
không rờ đến.
Chẳng
bao lâu, mèo ta thèm mỡ, nói với chuột:
- Chú chuột này, ta có một người chị họ mới
sinh một chú mèo con rất xinh. Họ mời ta đến dự lễ thánh và đặt tên cho cháu.
Chú hãy ở nhà cẩn thận trông nhà, tối ta sẽ về.
- Vâng, anh cứ đi đi. Nhớ lấy phần về cho em
nhé. Chuột ta ngoan ngoãn trả lời.
Nhũng
lời mèo nói là hoàn toàn dối trá. Nó đi thẳng một mạch đến nhà thờ, lén lấy
niêu mỡ chén no nê rồi chùi mép thật sạch. Ăn xong nó dạo chơi trên các nóc
nhà, nhìn ngó lung tung rồi nằm ườn ra sưởi nắng. Mãi đến chiều tối nó mới trở
về nhà.
- Thế nào anh đã về rồi đấy à? Chuột đon đả
chào đón. Thế anh đặt tên cháu là gì? Anh có quà cho em không?
- Ôi làm gì cho quà gì, chỉ là một buổi lễ đơn
giản thôi.
- Thế anh đặt tên cháu là gì?
Mèo
đáp gọn lỏn:
- "Liếm sạch lông".
- Sao cái tên lại lạ thế?
- À, đối với họ mèo chúng ta, tên đấy rất hay.
Chẳng có gì lạ cả.
Một
thời gian sau, mèo lại nổi cơn thèm mỡ và nói với chuột rằng:
- Ta lại phải nhờ chú trông nom nhà cửa hộ
rồi. Ta có một cậu em vừa mới sinh ra một chú mèo trắng xinh xắn. Họ mời ta đến
dự lễ thánh và đặt tên cho cháu. Chú chịu khó ở nhà nhé.
Chuột
tốt bụng nhận lời. Mèo ta lại tiến thẳng đến nhà thờ, ăn hết một nửa niêu mỡ
rồi chùi mép thật sạch. Nó nghĩ: "Không gì ngon bằng ăn một mình". Nó
lấy làm khoái trá đi dạo mát khắt nơi, mãi đến chiều nó mới quay về nhà. Thấy
mèo, chuột hỏi:
- Anh đặt tên cho cháu là gì?
- "Hết một nửa" - Mèo đáp.
- Sao lại là "Hết một nửa". Từ bé
đến giờ em chưa thấy ai có cái tên buồn cười đến thế!
- Chú mày thật ngóc nghếch. Cái tên đó rất đẹp,
hiểu chưa? Mèo vùng vằng đáp.
Ít lâu
sau, cơn thèm mỡ lại nổi lên, nó lại thẽ thọt bảo chuột:
- Lại có người mời anh đi dự lễ thánh và đặt
tên cho một chú mèo vàng xinh xắn mới ra đời. Chú ở nhà trông nhà hộ anh nhé.
Anh chỉ đi nốt lần này thôi.
Chuột
lại ngoan ngoãn nghe lời, trong lòng nó chẳng chút nghi ngờ. Mèo đi vắng, nó ở
nhà dọn dẹp nhà cửa, trông nom cẩn thận và chờ mèo đi dự lễ về.
Mèo
chẳng đi dự lễ thánh nào cả. Ra khỏi nhà nó lại thẳng tiến đến nhà thờ. Lần này
nó chén bằng sạch niêu mỡ, nó ăn no nê, và mãi nửa đêm mới mò về.
- Anh đặt tên cháu là gì? Chuột lại hỏi
- "Hết sạch" - Mèo đáp.
- "Hết sạch" à? Một cái tên quá lạ
lùng. Em không hiểu tại sao họ mèo nhà anh lại đặt những cái tên buồn cười đến
thế.
- Đấy là cái tên đẹp - Mèo cãi - Tại chú chỉ
suốt ngày ru rú trong xó nhà nên không hiểu biết đấy thôi.
Chuột
không thắc mắc gì nữa. Từ đó trở đi chẳng thấy ai đến mời mèo đi dự lễ thánh và
đặt tên cho mèo con nữa. Mùa đông đến, tuyết rơi trắng xoá, không thể kiếm ăn
được nữa, chuột mới nghi đến thức ăn để dành.
- Anh mèo ơi, ta đi lấy niêu mỡ để dành đi,
chắc ngon lắm.
- Được, hẳn chú mày sẽ thấy ngon như thể lưỡi
liếm không khí ấy mà - Mèo đáp đủng đỉnh.
Thế
rồi cả hai đến nhà thờ, niêu mỡ vẫn còn đó nhưng ở trong thì rỗng tuếch, chẳng
còn lấy một giọt. Chuột chợt hiểu ra:
- Thì ra là thế. Bây giờ tôi đã hiểu. Anh đã
đánh chén hết. Anh làm cha đỡ đầu thế đấy, lần đầu là "liếm sạch
lông", lần thứ hai là "hết một nửa", rồi...
Mèo
hét lên:
- Câm mồm ngay nếu không tao sẽ ăn thịt mày đấy!
Chuột
không kịp kìm hai tiếng "hết sạch". Vừa nói xong mèo đã nhảy vào vồ
nó, nuốt chửng. Tình bạn giữa mèo và chuột là thế đấy.
40. VÌ SAO HƯƠU BỊ MẤT ĐUÔI
- Truyện cổ tích Trung Quốc -
Ngày
xửa, ngày xưa có hai ông bà lão sống với nhau trong căn nhà tranh nhỏ cu kỹ ở
ven một rừng già, rộng lớn. Hàng ngày, họ cùng nhau dạo chơi trong vườn, buổi
tối ngồi bên bếp lửa chuyện trò. Họ sống cuộc sống thanh bình, yên ả. Mỗi khi
nói chuyện phiếm với nhau, bà lão thường nói:
- Chúng ta có căn nhà, chúng ta có khu vườn,
chúng ta thấy hạnh phúc. Nhưng chúng ta có một nỗi sợ hãi. Chúng ta không sợ
tiếng sấm, không sợ chớp, thậm chí không sợ ma quỉ. Nhưng chúng ta sợ Leo biết
bao. Leo là mối lo sợ nhất của chúng ta.
Bà lão
vừa nói, vừa lắc lư thân người. Còn ông lão thì không bao giờ biết Leo mà bà
lão nói đến là cái gì.
Bên
ngoài, bóng đêm bao phủ toàn bộ ngôi nhà. Muông thú đang đi kiếm ăn trong rừng.
Hai vợ chồng già không hề biết rằng trong khi họ đang nói chuyện có một con cọp
đang ẩn nấp bên ngoài nhà của họ, cũng như không biết có một tên trộm cũng đang
ẩn nấp gần đó.
Cọp
lắng nghe những gì hai vợ chồng già nói với nhau. Khi nghe bà lão nói đến nỗi
sợ lớn nhất là con Leo khủng khiếp thì nó rất ngạc nhiên. Nó vốn xưa nay là
chúa sơn lâm, chẳng biết sợ hãi là gì. Nhưng nó chẳng hề biết con Leo như thế
nào mà bà cụ lại sợ đến thế, chắc là nó kinh khủng lắm. Cọp bắt đầu thấy sợ.
Lúc
bấy giờ tên trộm đang rình mò trong bóng tồi chờ thời cơ để ăn cắp con bò của
ông lão. Hắn tiến lại gần nhà hơn. Bất thình lình tên trôm thấy có con gì đang
bò trong bóng tối ( đó là lúc con cọp tiến lại gần ngôi nhà để nghe vợ chồng
ông lão nói chuyện rõ hơn). Tên trộm tưởng là con bò của ông lão thế nên tiến
lại gần, đưa tay ra bắt nó. Thay vì một con bò, tên trộm lại chạm tay phải con
cọp. Quá sợ hãi, tên trộm cố leo thật nhanh lên mái nhà trong màn đêm để trốn
cọp.
Tất cả
những chuyện như vậy xảy ra khi cọp đang lắng nghe và tự hỏi: nếu bây giờ gặp
con leo nó sẽ làm gì. Rồi bỗng thình lình nó nhìn thấy một hình dáng lạ đang
leo mái nhà và nó nghĩ: "Chắc là con leo mà ông bà lão rất sợ. Ta phải
chuồn ngay thôi". Nó vội bỏ đi để tránh con leo.
Cọp
vừa đi vừa khiếp sợ, ra tới bìa rừng nó gặp một con Hươu. Cọp nói với con Hươu
về Leo và rằng nó đã nhìn thấy Leo trèo lên mái nhà như thế nào. Con Hươu lấy
làm ngạc nhiên và run sợ khi nghe nói đến con Leo. Trong cơn hoảng hốt, nó nói:
- Trời ơi, ai có thể giúp tôi thoát khỏi con
Leo khủng khiếp bây giờ?
Khi đó
cọp tỏ ra rất khôn ngoan và dũng cảm:
- Hãy đến với ta, chú hươu nhỏ bé, ta sẽ bảo
vệ chú. Hãy cột đuôi của chú vào đuôi ta, chúng ta sẽ yên tâm hơn khi gặp con
leo.
Thế
rồi chúng buộc đuôi vào nhau, yên tâm quay lại nấp sau căn nhà. Ngay khi đó một
nhành cây bị gãy rơi rầm xuống. Tên trộm đang nấp trên mái nhà sợ quá đến nỗi
gần như hắn nhảy từ trên mái nhà xuống, rơi gần con Hươu. Con Hươu sợ hãi cố
chạy thoát thân, gắng hết sức kéo cái đuôi của nó trong khi Cọp cũng ra sức kéo
theo hướng ngược lại.
Phịch
- Đuôi của Hươu bất ngờ bị đứt ra. Tên trộm chạy một mạch trở về nhà, Hươu cố
chạy vào rừng, Cọp cũng chạy vào rừng theo những hướng khác nhau. Cái đuôi bị
đứt của Hươu bị cuốn và đuôi Cọp và theo Cọp biến mất vào khu rừng tối.
Hai
ông bà lão vẫn ngồi nói chuyện với nhau về con leo mà không hề biết chuyện gì
đã xảy ra ở bên ngoài. Và cho đến tận bây giờ, chẳng ai biết con leo khủng
khiếp đấy là con gì.
41. CON LƯƠN KỲ DIỆU
- Truyện cổ tích Thái Lan -
Ngày
xửa ngày xưa ở vương quốc nọ có một ông vua nổi tiếng là tài giỏi, không iệc gì
là vua không biết. Nhà vua có một thói quen kỳ lạ là cứ sau bữa ăn trưa, không
còn ai nữa thì một người hầu tin cẩn bưng lên cho ngài một cái bát nhỏ. Ngay
đến cả người hầu cũng không biết trong bát có cái gì. Và cũng chẳng ai biết vì
nhà vua đợi đến khi mọi người đi hết mới mở ra ăn.
Một
hôm, do tò mò quá, không kìm chế được, người hầu bê cái bát về phòng mình, chốt
cửa thật chặt và mở ra xem. Trong bát có một con lươn màu trắng. Anh cắt một
miếng ăn thử, chưa kịp nuốt xuống bụng đã nghe thấy ở bên ngoài có tiếng nói rì
rào là lạ. Lắng tai nghe anh người hầu nhận thấy lũ chim sâu đang nói chuyện
với nhau. Thì ra vì ăn miếng thịt lươn mà anh người hầu hiểu được tiếng nói của
muôn loài vật.
Đúng
ngày hôm đó, công chúa bị mất chiếc nhẫn rất quý. Nàng khóc lóc ầm ĩ và nghi
cho anh người hầu lấy mất. Nhà vua gọi anh đến mắng cho một trận và ra hẹn đến
ngày hôm sau phải tìm ra chiếc nhẫn nếu không anh người hầu sẽ bị chém đầu.
Buồn bã anh người hầu ra sân ngồi nghĩ xem có cách nào không. Bỗng anh nghe
thấy đàn ngỗng nói chuyện với nhau. Một con trong đàn nói:
- Từ
sáng đến giờ bụng tao ấm ách khó chịu quá. Sáng nay trong lúc vội vã tao đã
nuốt phải cái nhẫn rơi ở dưới cửa sổ của công chúa.
Nghe
vậy, anh nười hầu mừng quá, tóm ngay cổ con ngỗng vừa nói mang vào nhà bếp bảo:
- Bác thịt con này nhé, béo lắm đấy.
Người
đầu bếp thịt con ngỗng, còn anh người hầu thì tìm được cái nhẫn trong mề ngỗng
và minh oan cho mình. Chán ngán không muốn ở lại hoàng cung toàn điều rắc rối,
anh người hầu xin vua một con ngựa và một ít tiền lên đường chu du thiên hạ.
Một
hôm anh đi qua một cái hồ nước, thấy con cá chép mắc lưới, đang thoi thóp thở.
Vốn từ tâm, anh xuống ngựa gỡ cá ra khỏi lưới thả xuống nước. Cá vui mừng quẫy
đuôi, thò đầu lên tạ ơn:
- Cám ơn ân nhân, thế nào tôi cũng sẽ trả ơn
này.
Anh
lại tiếp tục dong duổi ra đi, đến một bãi cỏ ven đường, anh nghe thấy kiến chúa
than vãn:
- Giá con người đừng để những con vật thô lỗ
này đụng đến mình thì tốt quá. Cái con ngựa này sắp sửa dẫm nát chúng ta mất
rồi.
Anh
bèn cho ngựa tránh sang bên đường. Kiến chúa bảo:
- Cám ơn ân nhân, có dịp chúng tôi sẽ trả ơn
này.
Đi
ngang qua một khu rừng, anh thấy bố mẹ diều hâu đang vứt lũ diều hâu con xuống
đất:
- Hãy cút đi, bay đi mà tự kiếm ăn, chúng tao
không thể nuôi báo cô bọn mày được nữa.
Tội
nghiệp lũ chim non vẫn chưa đủ lông đủ cánh mà bay lên được, chúng nằm xõng
xoài dưới đất chờ chết. Anh người hầu xuống ngựa, rút gươm chém chết ngựa, lấy
thịt cho lũ diều hâu con ăn. Chim con ăn no nê rồi gọi:
- Cám ơn ân nhân, chúng tôi sẽ trả cái ơn này.
Mất
ngựa, anh đi bộ mãi, đi mãi đến một thị trấn lớn, người ngựa đông đúc. Nhân dân
trong thị trấn đổ xô ra nghe lính trong cung đến báo tin công chúa kén chồng,
ai muốn lấy công chúa thì phải làm những việc rất khó, không làm được sẽ bị
chém đầu. Đã có nhiều người thử sức nhưng đều bị toi mạng.
Anh
người hầu thấy công chúa xinh đẹp như tiên giáng trần thì mê mẩn cả người, quên
hết hiểm nguy xin vào thử sức. Người ta đưa anh ra bể, vứt một chiếc nhẫn kim
cương xuống nước. Nhà vua phán rằng:
- Ngươi phải xuống bể, mò lên cho ta chiếc
nhẫn kim cương. Nếu lên tay không thì sẽ bị ném xuống bể cho cá mập ăn thịt.
Mọi
người đều tiếc cho chàng thanh niên đẹp trai. Còn chàng trai thì ngồi thừ bên
bờ biển nghĩ xem có cách nào mò được chiếc nhẫn kia lên không. Bỗng anh nhìn
thấy con cá chép mà mình đã từng cứu sống bơi lại, nhả ra chiếc nhẫn kim cương.
Anh vui mừng đến dâng vua, tưởng nhà vua sẽ gả công chúa cho mình. Nào ngờ công
chúa không đồng ý, bắt anh phải làm việc khó thứ hai. Nàng sai gia nhân rắc ba
bịch kê ra khắp cánh đồng và bảo:
- Từ giờ đến sáng mai, trước khi mặt rời mọc
anh phải nhặt cho hết chỗ kê này mà không được thiếu một hạt.
Anh
người hầu ngồi nghĩ nát óc xem có cách nào nhặt hết được số hạt kê đó không và
buồn rầu nghĩ chắc là mình phải chết rồi. Làm sao có thể nhặt được kê trên cánh
đồng rộng lớn thế cơ chứ. Bình minh ló rạng, anh người hầu ngạc nhiên thấy ba
bịch kê đầy ắp xếp cạnh nhau. Thì ra đêm ấy, kiến chúa huy động hàng vạn quân
đến, chúng cần mẫn nhặt hết kê để trả ơn anh người hầu.
Công
chúa đích thân xuống kiểm tra và rất ngạc nhiên thấy anh thanh niên đã làm xong
công việc được giao. Nhưng nàng vẫn chưa thôi đỏng đảnh, nói:
- Ta
chỉ lấy anh nếu anh đem về cho ta quả táo trường sinh.
Chẳng
biết cây táo trường sinh nó mọc ở đâu nhưng anh người hầu cũng phải nhắm mắt ra
đi. Anh lang thang đến một khu rừng, mệt mỏi, buồn chán, anh ngồi nghỉ bên một
gốc cây than vãn. Bỗng trên cây có tiếng lá lao xao, và một rái táo chín đỏ rơi
vào t ay anh. Cùng lúc đó, ba con chim diều hâu bay đến đậu vào vai anh nói:
- Ba
anh em tôi là ba con chim non mà ân nhân đã cứu khỏi chết đói. Nay chúng tôi đã
lớn. Nghe tin ân nhân cần quả táo trường sinh, ba anh em tôi đã vượt bể đến tận
cùng thế giới để mang về. Mong ân nhân hãy nhận lấy trái táo này.
Anh
chàng vui lắm, mang táo về dâng công chúa xinh đẹp. Nàng công chúa xinh đẹp
không còn lý do gì để từ chối chàng người hầu nữa, nàngđem cắt đôi quả táo để
hai người cùng ăn. Lòng nàng bỗng tràn ngập tình yêu với anh người hầu. Họ cưới
nhau sống cuộc sống hạnh phúc. Về sau nhà vua truyền ngôi lại cho vợ chồng công
chúa và từ đó anh người hầu trở thành một vị vua nổi tiếng là tài giỏi và nhân
từ.
42. TÌNH BẠN CỌP - HEO
- Truyện cổ tích Nhật Bản -
Trong
một khu rừng rậm, có một con cọp con đang nhảy tung tăng, nó vui sướng đùa
nghịch vì mẹ nó đang ngủ nên không cấm nó được. Thế rồi bỗng dưng trời tối xầm
lại, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Cọp con hoảng sợ núp sau một tảng đá,
gọi mẹ thảm thiết. Nhưng nó đã ở cách xa mẹ quá rồi nên mẹ nó không thể nào
nghe được. Dần dần, nó quen với bóng tối và lần mò đi tìm một cái hang để ngủ.
Nó tìm thấy một cái hang của heo rừng, heo mẹ đang cho heo con bú.
Ngửi
thấy mùi cọp, heo mẹ định xông tới giết chết cọp con để bảo vệ con mình. Nhưng
khi nhìn thấy con vật bé nhỏ ướt át tội nghiệp đang run lên vì lạnh và đói thì
nó thương tình bỏ qua. Heo mẹ liếm lông cho cọp, cho cọp bú sữa mình, coi như
con đẻ của mình vậy.
Thời
gian cứ trôi đi cọp con sống và cùng lớn lên với heo con. Chúng coi nhau như
anh em ruột, yêu thương nhau hết lòng. Nhưng than ôi, điều bất hạnh nhất đã xảy
ra. Con cọp cái đã vồ được heo mẹ và ăn thịt mất. Cọp con và heo con bằng hết
sức bình sinh xông vào giết chết cọp cái. Chúng lấy làm buồn rầu không hiểu tại
sao tạo hoá lại cứ bắt các con vật phải ghét bỏ nhau và giết hại lẫn nhau. Cảm
thông trước tình cảm chân thành của hai con vật, một vị thần đá biến chúng
thành hai chàng trai đẹp đẽ khỏe mạnh tên là Hali và Comvi. Vị thần ban cho hai
chàng một thanh gươm và một đoá sen. Thần phán:
- Các
con yêu quý của ta! Ta ban cho các con phép lạ vì ta thấy quý tấm lòng chân
thành của các con. Nếu các con ngay thẳng thì không ai có thể đánh bại được bởi
vì ta đã đặt linh hồn các con vào thanh gươm này. Còn đóa sen kia, nếu nó héo
đi thì có nghĩa là một trong hai con đã gặp tai họa. Hãy lên đường và nhớ bảo
trọng.
Hai
chàng trai cảm tạ vị thần cao cả rồi lên đường. Họ đi mãi, đi mãi cho đến khi
đến một thành phố ven hồ, họ vốc nước rửa mặt thì xuất hiện một con ác quỷ. Hai
chàng đánh nhau với ác quỷ ba ngày ba đêm thì ác quỷ bị giết. Comvi dùng gươm
thần giết chết quỷ nên được nhà vua hết sức khen ngợi và gả công chúa cho.
Còn
Hali tiếp tục lên đường. Chàng đến một thành phố có rất nhiều của cải nhưng
hoang vắng, lạnh lẽo. Hali rất ngạc nhiên. Chàng vào hoàng cung thấy có một cái
trống to, gõ mà không lên tiếng. Chàng bèn đâm thủng cái trống và từ trong bước
ra một cô gái xinh đẹp. Cô chính là công chúa của đất nước này. Một bầy ác điểu
đã bay đến đập phá thành phố này. Đức vua và hoàng hậu chỉ kịp dấu nàng vào cái
trống này trước khi chạy trốn. Khi công chúa kể chuyện thì bọn ác điểu đã bay
ngay trên đầu. Hali rút gươm ra chém chết lũ chim độc ác đó.
Chàng
cùng công chúa đi tìm đức vua, hoàng hậu và đám quần thần mà mãi không thấy.
Mệt quá họ ngồi nghỉ bên một gốc cây thì có một bà cụ già thất thểu đến xin nước
uống. Họ cho bà cụ nước uống, đồ ăn mà không hề biết rằng bà cụ chính là mụ phù
thuỷ mà vua nước láng giềng sai sang đây để tìm cách bắt công chúa. Thế là đêm
đến, khi mọi người ngủ say, mụ phù thuỷ lén lấy thanh gươm của Hali cho vào lửa
rồi bắt cóc nàng công chúa đưa về nước mình. Hali bị mụ phù thuỷ cho uống thuốc
mê nên nằm ngủ mê mệt bên cạnh đống lửa không biết gì.
Vị
thần tốt bụng ở trên cao biết hết mọi việc bèn hóa đám mưa làm tắt bếp lửa bảo
vệ gươm thần. Cùng hôm đó đóa sen của Com-vi héo úa, chàng biết rằng bạn mình
đang gặp nạn và chàng lập tức lên đường đi giải cứu cho bạn.
Đến
thành phố hoang vắng, Com-vi thấy bạn mình đang nằm bên bếp lửa còn thanh gươm
thì đen kịt. Chàng giúp Hali hồi tỉnh, rồi cả hai lên đường sang quốc gia láng
giềng tìm công chúa.
Com-vi
đóng giả làm thầy tu còn Hali tàng hình không ai thấy, Đến hoàng cung của tên
vua bất lương, Com-vi dâng nhà vua chén rượu anh đào thật ngon. Uống xong nhà
vua rất thích thú hẹn thầy tu sáng mai trở lại giúp nhà vua làm lễ tế thần
linh. Đúng hẹn, Com-vi quay trở lại và nhằm lúc nhà vua sơ hở chàng đã dùng
gươm thần đâm chết tên vua độc ác đó. Hali trở lại nguyên hình mặc y phục của
nhà vua đến nhà lao giải cứu công chúa. Họ gặp nhau hết sức vui sướng và cùng
nhau tổ chức một đám cưới linh đình.
Sau
đám cưới Hali, Com-vi chia tay gia đình bạn để trở về vương quốc của mình. Họ
cùng căn dặn nhau phải sống cẩn thận, bảo trọng và cùng chúc nhau hạnh phúc.
43. SỰ TÍCH CON
ĐỈA,
CON MUỖI VÀ CON VẮT
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Những
người già trong làng kể chuyện rằng; ngày xưa có một con quỷ chuyên môn đi hút
máu người. Chúng thường nấp ở những bụi cây ven rừng, chờ có người đi qua liền
nhảy ra cắn vào cổ người ta hút máu. Ai cũng kinh sợ con quỷ này.
Ở làng
kia có một người đàn bà góa sống cùng với ba đứa con xin xắn. Con quỷ rất thèm
hút máu ba đứa trẻ này nhưng không biết làm thế nào vì ba đứa trẻ rất ngoan,
chúng chỉ chơi ở trong nhà thôi. Thế là quỷ bèn nghĩ kế.
Một
đêm nó giả dạng một người đàn ông lần đến nhà bà góa. Nói rằng:
- Tôi
đi thăm họ hàng, chẳng may trời tối mà vẫn chưa đến nơi. Chị cho tôi ngủ nhờ ở
đây nhé.
Nói
đoạn anh ta đưa cá, muối, gạo ra cho người đàn bà. Cả nhà chẳng một ai nghi
ngờ. Vài này sau con quỷ đến nhà. Lần này hắn đem đến những chuỗi hạt cườm,
vàng bạc xin lấy người đàn bà góa làm vợ.
Từ đó
có thêm một người đàn ông trong nhà, ông ta giúp người đàn bà kia được rất
nhiều việc nhưng chẳng hiểu sao không bao giờ người đàn ông mở miệng ra nói một
lời nào với ba đứa trẻ.
Một
hôm con quỷ nói với vợ rằng nó muốn đem đứa lớn vào rừng để dạy nó cách đan bồ,
thằng bé cũng đã lớn rồi cần phải học cách làm việc. Bà mẹ đồng ý. Thế là con
quỷ dẫn thằng bé vào rừng, chặt nứa đan bồ. Đến trưa con quỷ bảo thằng bé chui
thử vào bồ xem có vừa không. Thế là nó chụp cái bồ lên đầu thằng bé và nhốt
trong đó. Quỷ cắn cổ thằng bé hút máu no nê.
Buổi
chiều thấy chồng trở về có một mình, chị vợ hỏi con đâu, ông chồng giả bộ mệt
mỏi, đau khổ nói:
- Nó mải chơi nên bị lạc trong rừng. Tôi tìm
nó suốt từ sáng đến giờ mà không thấy. Chắc nó bị thú rừng ăn thịt rồi.
Chị vợ
nghe xong khóc lóc thảm thiết vì thương con.
Mấy
ngày sau, quỷ lại dẫn đứa thứ hai vào rừng và ăn thịt nó như đứa thứ nhất rồi
trở về nhà một mình. Nghe vợ hỏi quỷ lại tìm cách nói dối:
- Thằng bé đi đường gặp dòng suối mát, nó nhảy
xuống tắm rồi bị nước cuốn trôi đi mất rồi.
Người
đàn bà thương con khóc ngất mấy hôm liền.
Mấy
hôm sau, quỷ lại dẫn đứa thứ ba vào rừng. Chị vợ sinh nghi liền nhẹ nhàng đi
theo đằng sau. Vào đến rừng chị núp sau một lùm cây nhìn chồng và con đan bồ.
Đến trưa thì chị nhìn thấy chồng chụp bồ lên đầu đứa con và hút máu nó như các
anh của nó. Chị rụng rời chân tay sợ quá mà không dám khóc sợ quỷ nghe thấy.
Thế rồi chị hoảng hốt chạy về nhà, vừa đi vừa khóc.
Dọc
đường về qua gốc cây đa cổ thụ, chị nhìn thấy một ông cụ râu tóc bạc phơ đang
ngồi nghỉ. Thấy chị vừa đi vừa khóc ông cụ hỏi:
- Tại sao con lại khóc, đừng sợ hãy kể ta nghe
xem ta có giúp được gì cho con không? Ta là thần cây đa Pọ Đàr đây.
Người
đàn bà nức nở kể lại toàn bộ câu chuyện cho thần nghe. Thần cây đa nghe xong
nói:
- Đây là con quỷ chuyên ăn thịt người, muốn
giết nó phải dùng mẹo mới được.
Thế
rồi thần bày mưu kế cho người đàn bà. Người đàn bà về nhà cố giữ gương mặt bình
tĩnh. Đến tối, con quỷ về nhà một mình, chưa đợi vợ hỏi nó đã huyên thuyên:
- Thằng bé mải chơi, bị lạc trong rừng.
Người
vợ nhìn chồng thốt lên:
- Kìa mặt anh có vết máu, anh đi rửa mặt đi,
em xối nước cho.
Con
quỷ nghe nói mặt mình có vết máu thì giật mình lo sợ, để cho người vợ xối nước
rửa mặt cho. Chị vợ trút một bầu nước ớt vào mặt quỷ. Quỷ bị nước ớt chảy vào
mắt cay xè, không làm sao mở mắt ra được. Ngay lúc đấy, người vợ cầm xà gạc sắc
chém vào cổ con quỷ. Nó rú lên đau đớn và ngã vật ra chết.
Máu
quỷ chảy xuống suối hóa thành những con đỉa. Máu quỷ chảy vào khe đá, tràn vào
đám lá mục dưới đất hóa thành những con vắt. Máu quỷ còn hóa thành những con
muỗi bay vo ve lên những cành cây, nấp sau tán lá. Và cho đến tận bây giờ lũ
vắt, đỉa, muỗi vẫn luôn tìm cách hút máu người.
44. SỰ TÍCH KHỈ ĐÍT ĐỎ
- Truyện cổ tích Việt Nam -
Ngày
xửa ngày xưa, có một cô gái mồ côi nghèo khổ phải đi ở cho tên nhà giàu trong
làng. Một hôm nhà giàu có giỗ, giết mổ lợn gà, ăn uống linh đình. Bỗng có một
ông cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu đến, chống gậy đứng ở cửa xin ăn.
Lão nhà giàu hách dịch, đuổi ông cụ đi, hắn vừa chống tay vừa chửi:
- Thằng già kia, ta làm gì có cơm cho mày! Hãy
cút đi!
Thấy
ông già vẫn đứng ở cửa hắn tức giận đứng dậy khỏi mâm cơm và vác gậy đuổi đánh.
Cụ già bị đánh đau lắm, tập tễnh men theo bờ suối đi vào rừng.
Cô gái
mồ côi nghèo thấy thế thương ông cụ lắm. Cô bèn giấu gói cơm cháy là phần của
mình đi theo và đưa cho ông cụ già. Cụ già ăn xong chỗ cơm cháy đó rồi nói với
cô gái:
- Con
thật người tốt bụng, có lòng nhân từ biết giúp đỡ người khác. Bây giờ con muốn
gì, ta sẽ giúp con.
Cô gái
nghe cụ già nói vậy thì ngạc nhiên lắm, xong cô cũng mạnh dạn bày tỏ ý kiến của
mình:
- Thưa
cụ, cháu chẳng muôn gì cao sang, chỉ mong được khoẻ mạnh để làm việc mà có cơm
ăn hàng này thôi.
Cụ già
nghe cô gái nói xong bèn chỉ vào cái hồ nước trước mặt mà bảo:
- Ở
trong hồ có hai khóm hoa: một khóm hoa trắng, một khóm hoa đỏ. Con hãy hái khóm
hoa trắng mà ngửi, con sẽ được đủ ăn, đủ mặc.
Nói
xong cụ già biến mất. Cô gái làm theo lời cụ già. Khi cô ngắt khóm hoa trắng
đưa lên mũi ngửi thì cô bỗng biến thành một cô gái khoẻ mạnh, xinh đẹp, trắng
trẻo, còn bộ quần áo rách rưới mà cô đang mặc thì biến thành bộ quần áo đẹp sặc
sỡ.
Cô gái
trở về nhà tên nhà giàu, cả nhà hắn không nhận ra cô gái, lại cứ tưởng có tiểu
thư nhà ai đến chơi nên cả nhà hắn khúm núm ra đón tiếp.
- Tôi
đây cơ mà, ông không nhận ra tôi à?
Tên
nhà giàu lấy làm ngạc nhiên lắm:
- Mày đấy à? Tại sao mày lại có thể xinh đẹp,
sang trọng như thế?
Cô gái
thật thà thuật lại đầu đuôi chuyện cho tên nhà giàu nghe. Hắn tiếc hùi hụi vì
đã bỏ lỡ cơ hội được trẻ trung khoẻ mạnh. Hắn rất mong được gặp lại ông cụ lần
nữa.
Ba hôm
sau, có một bà già rách rưới đến nhà lão xin ăn. Nhìn thấy bà già hôi hám, bẩn
thỉu lão không những không cho ăn mà còn vác gậy đuổi đi như lần trước. Bà già
chạy vào rừng và lại men theo bờ suối như ông già lần trước. Tên nhà giàu chợt
nghĩ "Hay bà già này là ông lão hôm trước biến thành?". Nghĩ vậy hắn
gọi lũ con vào và bảo:
- Này, chúng mày ơi! Lấy rượu thịt đem vào
rừng cho bà ăn xin ăn đi. Chúng mày sẽ được bà ấy cho xinh đẹp và sung sướng
đấy. Nhưng hãy tỏ ra quý mến bà ấy mới được.
Bọn
chúng làm theo lời cha, mang rượu thịt vào rừng cho bà lão ăn. Ăn xong, bà lão
bảo:
- Các con có tấm lòng thương người nghèo khó.
Vậy là rất tốt. Bây giờ các con muôn gì, ta sẽ giúp cho.
Lũ con
nhà giàu tranh nhau đáp:
- Chúng con chẳng muốn gì, chỉ muốn được ăn
ngon, mặc đẹp mà thôi.
Bà cụ
chỉ vào cái hồ nước trước mặt bảo chúng hãy ngắt khóm hoa đỏ mang về ngửi sẽ
được ăn ngon, mặc đẹp. Lũ con mừng rỡ, chạy về báo cho bố biết. Lão nhà giàu
gọi tất cả gia đình đến cái hồ có khóm hoa đỏ lạ thay chúng ngửi hoa đỏ xong
thì biến thành một lũ khỉ.
Cô gái
nghèo ở nhà trông nhà, chờ mãi không thấy vợ chồng, con cái lão nhà giàu về. Về
sau nghe tin cả gia đình ấy đã biến thành khỉ và sống trong rừng thì cô đem tất
cả tài sản, lợn gà, trâu bò, thóc lúa của nhà ấy chia cho người nghèo. Cô chỉ
giữ lại một chút cho mình.
Mấy
hôm sau tiếc của, lũ khỉ mò về nhà la hét dập phá. Cô gái sợ hãi không biết làm
sao, chỉ ngồi khóc. Cụ già hôm trước hiện lên hỏi nguyên do. Cô gái thuật lại
toàn bộ câu chuyện. Cụ già bảo:
- Đừng lo, tối nay con hãy lấy lưỡi cày nung
thật đỏ để ngoài sân, lũ khỉ ngồi vào và sợ sẽ không dám đến nữa.
Tối
hôm đó, lũ khỉ kéo đến đông hơn, chúng la hét ầm ĩ. Thấy có vật gì đỏ đỏ chúng
tranh nhau ngồi vào. Vừa đặt đít vào chúng nhảy cẫng lên vì nóng. Con nọ tưởng
con kia nhảy nghịch nên thay nhau ngồi vào, cuối cùng cả đàn đều bị xém đỏ loét
đít. Chúng bỏ chạy lên rừng và không con dám trở về làng quấy phá nữa.
Từ đó
đến nay, loài khỉ con nào cũng đỏ đít và những chỗ cháy xém đều không mọc lông.
45. BÁC NÔNG DÂN VÀ CON GẤU
- Truyện cổ tích Indonexia -
Ngày
xưa có một bác nông dân già sống cùng với một cô con gái. Vợ bác mất sớm nên
mọi tình yêu thương bác đều dành cho con. Một hôm bác quyết định đi thăm họ
hàng ở xa và để cô con gái ở nhà một mình.
Bác ra
đi, qua bao nhiêu rừng sâu, núi cao, suối dài, rất vất vả nhưng cuối cùng bác
cũng đến nơi an toàn. Anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi nói chuyện quên hết mọi
thứ xung quanh. ở chơi với họ hàng vài hôm, bác lên đường trở về nhà. Khi băng
qua khu rừng rậm, còn chưa tìm được lối ra thì trời sụp tối. Phải tìm một chỗ
nghỉ qua đêm là điều cần nhất bây giờ. Bác nghĩ vậy nên đi loanh quanh trong
rừng mong tìm được nhà nào đó để xin nghỉ nhờ.
Lát
sau bác nhìn thấy có ánh đèn le lói sau đám lá rừng. Bác vội bước tới, nhưng
trước mặt bác không phải là một ngôi nhà bình thường mà là tòa lâu đài cổ. Bác
gõ cửa và một con gấu to xuất hiện. Gấu hỏi:
- Ông ở đâu đến và ông muốn gì?
- Tôi đi thăm họ hàng nhưng chẳng may lạc
đường, trời tối mà vẫn chưa về được. Xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đem - Bác
nông dân lo sợ trả lời gấu.
- Ông có thể ở lại đây. Chỉ có một mình tôi
thôi.
Thấy
Gấu nhẹ nhàng, hiền lành, bác nông dân mới thấy yên tâm và bước vào lâu đài
cùng với Gấu. Gấu làm việc như người bình thường, dọn cơm mời bác nông dân ăn,
dọn giường cho bác nông dân ngủ.
Sáng
dậy, bác nông dân cảm ơn Gấu, xin phép ra đi. Nhưng bác không biết lối ra nên
nhờ Gấu chỉ đường Gấu bảo:
- Tôi sẽ chỉ đường cho ông nếu ông gả con gái
cho tôi.
Bác
nông dân nghe vậy thì không đồng ý, bác chỉ có mỗi một người con gái, nếu gả
cho Gấu thì bác sẽ mất con. Thế nên bác quyết tâm tự tìm đường về mà không cần
sự giúp đỡ của Gấu. Thế nhưng rừng già bạt ngàn âm u, bác lại không thuộc đường
nên loay hoay suốt cả ngày trời bác không thể nào ra được. Đêm xuống bác lại
quay về tòa lâu đài của Gấu xin ngủ nhờ. Gấu đón tiếp bác ân cần như buổi tối
hôm trước, trò chuyện rất vui vẻ. Đến sáng người nông dân lại nói với Gấu:
- Gấu
hãy chỉ giúp tôi đường về nhà.
Gấu
trả lời:
- Tôi sẽ giúp ông nếu ông gả con gái cho tôi.
Người
nông dân biết rằng muốn ra khỏi cánh rừng này thì chỉ còn cách duy nhất là nhờ
sự giúp đỡ của Gấu. Bác đành hứa gả con gái của mình cho Gấu. Gấu đón tiếp ông
nồng hậu đúng như thái độ của cha vợ và con rể và chỉ lối cho bác nông dân trở
về. Bác hứa sẽ dẫn con gái mình trở lại.
Bác
nông dân ra về mà lòng nặng trĩu. Cô con gái nhận ra ngay nét mặt không vui của
cha, cô nghĩ là đã có chuyện gì xảy ra. Còn bác nông dân thấy thật khó có thể
nói với con gái về chuyện con Gấu kia, nhưng trước sau gì thì bác cũng phải nói
sự thật. Cuối cùng không thể dấu con được nữa bác đành phải kể lại toàn bộ câu
chuyện, cả về lời hứa gả cô cho Gấu.
Cô gái
chăm chú lắng nghe cha kể, cô không hề thấy lo sợ mà cảm thấy có gì uẩn khúc ở
trong đó. Thế là cô gái bằng lòng. Hai cha con cùng nhau đến tòa lâu đài của
Gấu đúng như đã hẹn. Gấu đón họ rất long trọng, niềm nở và ân cần. Bác nông dân
ở lại chơi vài hôm cùng con gái rồi từ giã trở về nhà. Gấu cùng cô gái sống hoà
thuận bên nhau, yêu quý tôn trọng nhau như vợ chồng. Tuy nhiên cô gái để ý thấy
ở dưới lớp da Gấu là thân thể của một con người. Nàng quyết định khám phá bằng
được điều bí mật ấy.
Một
đêm nàng không ngủ mà lén đến phòng của Gấu. Nhìn qua khe cửa nàng thấy Gấu
trút bỏ bộ lông và biến thành một chàng trai, chỉ có cái đầu là của Gấu. Thế là
chờ Gấu ngủ say, nàng đã lén vào phòng, ném bộ da Gấu vào bếp lửa. Bộ da Gấu
biến thành than, nhưng từ hôm đó Gấu lâm bệnh nặng. Biết lý do Gấu ốm, nàng ân
hận lắm, dành hết tình cảm của mình để quan tâm chăm sóc Gấu, hy vọng Gấu khỏe
lại. Thế nhưng bệnh của Gấu ngày càng nặng hơn, đến hôm thứ hai thì Gấu nằm gần
như sắp chết. Cô gái ngồi bên giường Gấu, than thở, khóc lóc nhưng những giọt
nước mắt không làm đỡ cơn đau của Gấu. Ngày thứ ba, Gấu nằm khò khè thở những
hơi thở nặng nhọc. Cô gái nghĩ thế là hết, ta sẽ chết theo Gấu thôi.
Nhưng
đêm thứ ba qua đi, khi cô gái tỉnh dậy thì thấy trên giường bệnh không phải là
Gấu ốm yếu nữa mà là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Cô gái vô cùng kinh
ngạc. Họ sung sướng ôm lấy nhau khóc vì quá mừng vui. Chàng trai kể hết sự thật
cho nàng nghe. Chàng bị một mụ phù thuỷ độc ác biến thành Gấu. Chỉ khi nào có một
người con gái yêu thương Gấu thật lòng thì Gấu sẽ trở lại thành người và bộ da
Gấu kia phải được đốt thành tro. Chàng rất biết ơn người vợ yêu quý đã dũng cảm
cứu chàng để chàng được quay trở lại làm người.
Thế
rồi ngay hôm sau, hai người đã tổ chức một lễ cưới linh đình, mời tất cả mọi
người tới dự. Bác nông dân được mời đến và bác rất ngạc nhiên không tin vào mắt
mình được nữa. Con Gấu đã biến thành một chàng trai tuấn tú. Bác rất mừng cho
cô con gái của mình được hạnh phúc. Từ đấy, bác ở lại luôn trong lâu đài, sống
vui vẻ cùng con gái và con rể không trở về nhà nữa.
-------------
MỜI
NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
Mời thư giãn với nhạc
phẩm BỐNG BỐNG BANG BANG
của Nguyễn Phúc Thạch
(Ongly C) qua tiếng hát Nhóm 365:
.
0 comments:
Đăng nhận xét