TRUYỆN TRẠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
(Thái Đắc Xuân tuyển
soạn ; Nhà xuất bản Thanh Hóa 2005)
*
LỜI NÓI ĐẦU
Giữa cuộc sống bộn bề khó khăn, tiếng cười trở thành liều
thuốc quí của cuộc sống. Một nhà thơ nước ngoài từng nói: “Cuộc đời thiếu tiếng
cười khác nào thế giới thiếu mặt trời, khác nào hoa thiếu hương, khác nào cuộc
sống không có niềm tin và hy vọng”.
Quả thực, văn học dân gian Việt Nam với kho tàng truyện
Trạng từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân lao
động. Truyện Trạng là nụ cười thông minh, dí dỏm, lạc quan của người nông dân
trong lao động và cuộc sống. Truyện Trạng dân gian theo dòng lịch sử đã phần
nào phản ánh được quan điểm đạo đức, ý chí cũng như trí tuệ của nhân dân ta
trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thống trị thời phong kiến. Tất cả,
đã tạo cho truyện Trạng một nội dung phong phú, một đặc thù rất riêng.
Để các bạn hiểu rõ hơn về các nhân vật Trạng lưu truyền
trong dân gian, chúng tôi xin giới thiệu một số nhân vật Trạng tiêu biểu của ba
miền Bắc Trung Nam. Hy vọng rằng cuốn sách sẽ đem lại cho các bạn vốn hiểu biết
về văn hóa truyền thống dân tộc. Và thông qua đây, cuộc sống của bạn sẽ thi vị
hơn khi được tô điểm bởi những tiếng cười sảng khoái, ý nhị nhưng đầy triết lý
sâu xa.
TRUYỆN TRẠNG QUỲNH
1. THIẾT CHÚA ĐẠI PHONG
Chúa Trịnh ngày nào cũng yến tiệc, ních đầy bụng những
sơn hào, hải vị. Người ăn của ngon nhàm mồm đâm ra khó tính. Một hôm
chúa khó ở, lưỡi se đắng, bụng ậm ạch. Nhân ngồi với Quỳnh, chúa phàn nàn: - Ta
ngẫm không còn thiếu thứ gì quý hiếm trên đời chưa thưởng thức. Quái lạ, thế mà
vẫn chưa món nào làm ta thực sự cảm thấy ngon miệng. Điều đó là tại làm sao,
Trạng nói ta hay?
Quỳnh nói luôn: - Thế chúa đã xơi món mầm đá bao giờ
chưa?
Chúa lấy làm lạ: - Món mầm đá thế nào, chắc ngon lắm phải
không?
Quỳnh đáp: - Tuyệt trần đời. Nhưng muốn ăn mầm đá phải kỳ
công.
Chúa liền nằng nặc: - Sợ gì công phu! Miễn là được ăn
ngon. Nhất là lúc này, người đang mệt mỏi, ta đang rất cần ăn biết ngon. Trạng
hãy mau chóng cho làm móm mầm đá kia đi!
Ít lâu sau, vào tờ mờ sang. Quỳnh viết thiếp cho gia nhân
mời chúa đến nhà thết tiệc mầm đá.
Chúa đến nhà Trạng ngay từ mới rạng sáng. Đến khi mặt
trời đứng bóng, vẫn thấy Quỳnh bận rộn lụi hụi dưới bếp, thỉnh thoảnh chạy ra,
chạy vào, mồ hôi nhể nhại, khăn tay vắt vai, tay áo xắn đến khuỷu…Chúa nghĩ
thầm “Đúng là món mầm đá kỳ công thật, nên Trạng mới phải ra tay đốc thúc nhà
bếp tất tưởi như thế kia!”
Quá ngọ, sang mùi, bụng chúa bắt đầu cồn cào. Quỳnh vừa
ló mặt, chúa chép miệng, trách: - Sao “mầm đá” lâu chin thế? Biết vậy thế này
ta chẳng nhận lời đến nhà Trạng hôm nay.
Quỳnh lấy khăn tay thấm mồ hôi trán khải rằng: - Thần
muốn chúa ngon miệng nên mới dụng công ninh “mầm đá” thật công phu. Xin gắng
đợi chút nữa, sắp chín rồi…
Một chốc chúa lại giục, Quỳnh lại khẩn khoản thưa: -
“Gắng đợi thêm một chút mầm đá không kỹ lửa, không ninh nhừ khó tiêu…”
Mặt trời xế bóng vẫn chưa thấy món mầm đá được dọn ra.
Mùi cá khô, lẫn mùi khói bếp bên mấy nhà vào bữa cơm chiều, làm chúa “Nhức lỗ
mũi”, ứa nước dãi. Chúa đành gọi Quỳnh lên , chúa ngồi lù đù hóp bụng lại, thú
thật: Ta đói lắm rồi, không đợi được nữa. Mẩm đá để dành ăn sau cũng được. Bây
giờ có thức gì dùng tạm, Trạng cứ cho mang lên!
- Quỳnh dạ một tiếng, vẻ miễn cưỡng rồi hét vọng xuống
bếp: Cứ chất thêm củi vào nồi “mầm đá”! Hãy bưng cơm lên dâng chúa dùng cho qua
loa đã chúng bay!
Gia nhân dạ ran, rồi bê cái mâm lên. Bữa xoàng, có một
phạng cơm với rau muống luộc, và một chiếc hũ sành.Chúa thấy ngoài chiếc hũ dán
mảnh giấy hồng điều đề hai chữ “đại phong”. Chúa ăn cơm rau chấm nước “đại
phong” ngon lành, chỉ một loáng lại đưa bát cho Trạng xới tiếp. Chúa nghĩ bụng,
chắc món này cũng quý hiếm đặc biệt, nên thấy Trạng giữ gìn chiếc hũ cẩn thận.
Có lần rau đã hết nước chấm, mãi mới thấy Trạng cẩn thận đỡ miệng hũ, múc thêm
mấy muôi nhỏ “đại phong” nữa…
Chúa ngắm nghía chiếc hũ lại nhìn Trạng: - Này khanh,
“đại phong” là món gì mà ngon lạ như vậy?
- Khải chúa, đây chỉ là món thường nhật của con nhà trong
làng.
Chúa không tin: - Hai chữ “đại phong” là nghĩa thế nào?
Quỳnh tủm tỉm cười: - Nhà chúa nhìn được mặt chữ, tự giải
lấy, khắc rõ.
Chúa lẩm bẩm: - Đại phong tức là gió lớn, phải không?
Quỳnh gật đầu, hỏi tiếp: - Vậy gió lớn thì làm sao?
Chúa bối rối như học trò không thuộc bài, nhìn Trạng.
Quỳnh giảng giải: - Gió lớn ắt đổ chùa!
Trạng lại tiếp, hỏi dần: - Đổ chùa thì làm sao?
Chúa càng ấp úng. Quỳnh nói: - Đổ chùa thì sư, vãi bỏ
chạy, xôi oản mất hết… Của ngọc thực rơi vãi hết thì ông bụt nào cũng phải lo…
Tượng lo thì làm sao?
Trạng hỏi, đáp, dồn dập, liên hồi. Chúa chỉ còn biết ngồi
trơ ra như phỗng. Hồi lâu, Quỳnh mới chịu khẽ khàng cắt nghĩa: - Đến trẻ con
cũng biết đọc ngược thì “tượng lo” là “lọ tương”. Khải chúa, thứ tương đỗ này
không cao sang đâu, chẳng qua chúa quên mất những miếng ngon lành ở làng xóm
rồi. Nay thần bày cách ninh “mầm đá”, chẳng thể đun được nhừ, đợi đến bao giờ
cũng không có thể ăn được. Chúa cứ ngồi cho bụng thật đói, miệng thật thèm, bấy
giờ chỉ cần lấy lưng cơm với món “đại phong” xoàng xĩnh này, chúa thấy ngon
miệng.
Chúa Trịnh bừng tĩnh trước một sự thật ngay bên mình…
Chúa đứng dậy, cảm ơn Trạng, ra về.
2. TIÊN SƯ THẰNG BẢO THÁI
Các bà, các cô chợ búa ở khắp các phường kinh thành Thăng
Long, chưa bao giờ đi chợ lại gặp chuyện lạ kỳ như sáng hôm nay. Họ đến hàng
thịt lợn, thịt trâu, thịt bò,… hỏi mua, nơi nào người ta cũng lắc đầu quầy quậy
nói đã có khách đặt trước rồi. Người mua không nghi ngờ gì, tin người bán nói
thật vì các loại thịt đều đã được thái nhỏ ra thành miếng chứ không để nguyên
tảng.
Hỏi ra mới biết nhà vua ngày ngày giao cho quan Trạng làm
chủ một tiệc rất lớn. Nghe nói khách đông lắm phục dịch không xuể. Gia nhân
được lệnh quan Trạng, đến báo cho các hàng thịt khắp nơi thái sẵn, có bao nhiêu
cũng mua, đắt mấy cũng lấy, để về nhà bếp chỉ có việc chế biến gia giảm, kịp làm
cỗ, soạn mâm.
Nhưng ngày hôm ấy, đến khi chợ vãn hết người, ruồi muỗi
vù vù đến bâu, các quầy hàng thịt vẫn còn đóng ghế ngồi đợi… Quá trưa sang
chiều, thịt đã bắt đầu ôi chảy nước ra vẫn không thấy mặt mũi khách hẹn
đâu. Trong bọn họ nhiều kẻ sốt ruột, đành liều thẳng đến nhà quan chẳng thấy cổ
bàn, khách khứa nào cả. Họ hỏi đầu đuôi, thì chính Quỳnh ra trả lời rằng:
- Sao bà con lại dại dột cả tin như vậy? Chắc có đứa nào
mạo danh “Trạng” chơi xỏ đấy thôi. Cớ sự đã thế, bà con cứ gọi những thằng nào,
con nào “bảo thái” ra mà chửi cho bọn khoảnh ác chừa cái thói ấy đi.
Các hàng thịt không nhớ mặt, biết tên phường những người
đặt hàng. Bực mình chỉ còn biết đứng ra giữa chợ chửi um lên: Tiên sư thằng
“Bảo Thái”! Tiên sư thằng “Bảo Thái”!
“Bảo Thái” là niên
hiệu vua Lê đương thời. Thành thử nhà vua không làm gì bọn hàng thịt mà bị
chúng réo tên chửi oan, không còn mặt mũi nào ra khỏi cổng thành nữa.
3. ĐẤT NỨT CON BỌ HUNG
Từ thuở nhỏ, Quỳnh đã nổi tiếng là một cậu bé thông minh,
hiếu động, nghịch ngợm. Không những thế, cậu còn nổi tiếng bởi tài đối đáp hay,
ứng khẩu giỏi.
Tuy còn nhỏ nhưng Quỳnh rất ghét những kẻ khoe khoang,
kiêu ngạo. Trong làng Quỳnh có ông Tú Cát luôn vỗ bụng ta đây giỏi giang. Cậu
định bụng chơi cho lão một vố cho nhớ đời. Một hôm, Quỳnh đứng xem đàn lợn ăn
cám thì Tú Cát đi ngang qua. Vì đã nghe thiên hạ đồn đại đã lâu, Tú Cát không
ưa gì Quỳnh. Ông ta gọi Quỳnh lại với vẻ mặt thách đấu.
- Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp
giỏi. Ta sẽ ra cho mày một vế đối, nếu mày không đối được thì sẽ ăn đòn. Mày sẽ
chừa cái tật láo lếu.
Quỳnh chưa kịp trả lời, Tú Cát cất cao giọng đọc:
- Lợn cấn ăn cám tốn.
Đây là một câu đối rất hóc búa bởi “cấn” và “cám” vừa chỉ
thức ăn của lợn lại vừa là hai quẻ trong kinh dịch. Những kẻ học cao, cũng cảm
thấy khó chứ nói gì đến cậu bé. Nhưng vừa nghe xong, Quỳnh không nói gì ứng
khẩu lại ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn.
Đúng là một vế đối rất chỉnh nhưng ngụ ý đầy sâu xa, có
phần nói xỏ xiên, thâm độc. “khôn” và “càn” cũng là hai quẻ trong kinh dịch.
Câu đối lại còn mang dụng ý chửi thẳng Tú Cát đừng có mà kiêu ngạo. Vừa nghe
xong, lão ta giận tím mặt khi biết thằng nhóc con chơi xỏ mình. Trong bụng rất
căm phẫn nhưng Tú Cát vẫn nở một nụ cười:
- Được! Mày khá lắm. Tao còn vế đối nữa, mày phải đối ngay
thì tao mới phục.
Vừa dứt lời, lão chỉ tay lên trời cao hứng
- Trời sinh ông Tú Cát .
Lão vừa dứt lời, Quỳnh liền chỉ tay xuống đất, nơi có một
lớp phân heo đùn lên những đụn nhỏ mà đáp:
- Đất nứt con bọ hung.
Tú Cát nghe xong tím cả mặt, chỉ thiếu hộc cả máu mồm.
Lão không nói nổi một câu gì. Lão lặng thinh rồi như chợt nhớ ra điều gì. Lão
lỉnh nhanh và chuồn thẳng.
4. DÊ ĐỰC CHỬA
Chẳng bao lâu, tiếng tăm về một thần đồng đã nổi như cồn.
Quỳnh được mọi người biết đến khắp nơi từ làng xóm, khắp phủ cho đến tận kinh
thành. Tiếng lành đồn xa, sự việc đến tai nhà vua. Ông cũng rất tò mò không
biết thực hư thế nào. Vốn dĩ là người ưa chuộng nhân tài, nhà vua muốn tận mắt
mình kiểm chứng sự thật lời đồn đại. Nhà vua ban lệnh:
- “Cả phủ Thanh Hoá, làng nào cũng phải đem nộp một con
dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào không có sẽ bị trị tội”.
Sau khi nhận được lệnh từ triều đình, cả làng, cả xã, cả
phủ xứ Thanh trở nên hoảng loạn. Tất thảy người dân đều “ăn không ngon, ngủ
không yên”. Ai cũng biết rằng lấy đâu ra một con dê đực có chửa. Quả là điều
phi lý mà từ xưa đến nay mọi người mới nghe thấy. Mọi người hết sức lo âu không
tìm được cách nào để giải quyết.
Việc đến tai Quỳnh, cậu thản nhiên nói với bố:
- Chuyện này bố cứ để con lo liệu. Bố hãy bảo dân làng
chuẩn bị cho con một trăm quan tiền và gạo ăn đường. Con sẽ kiếm dê đực chửa về
cho làng mình.
Nghe Quỳnh nói ai cũng cảm thấy nghi ngờ và hoang mang,
không hiểu một cậu bé “vắt mũi chưa sạch” làm sao có thể cứu cả dân làng. Đằng
này việc tìm được một con dê đực đang có chửa là điều không tưởng. Tuy vậy, họ
cũng không biết làm gì nên đành im lặng nghe theo lời Quỳnh.
Ngày hôm sau, hai cha con Quỳnh khăn gói lên đường. Sau
bao ngày lặn lội lên kinh thành, Quỳnh quyết tâm thực hiện ý đồ của mình.Cậu dò
la tin tức biết được nhà vua sắp ra khỏi cung đình. Quỳnh nép vào vệ đường đứng
chờ. Đợi khi nhà vua đi qua, từ trong bụi rậm Quỳnh khóc rống lên vẻ đau đớn.
Nghe tiếng khóc từ xa vọng lại có vẻ thống thiết, kỳ lạ, nhà vua sai quân lính
đưa người đang khóc ra hỏi chuyện. Quỳnh vẫn tiếp tục vừa khóc vừa kể trong
hàng nước mắt:
- Mẹ tôi đã chết mấy năm nay rồi. Tôi buồn lắm. Tôi nói
mãi mà bố tôi chẳng chịu đẻ em bé cho tôi bế gì cả…
Cậu bé vừa nói xong nhà vua bỗng phì cười:
- Ôi chao! Quả là kẻ đần độn. Ba mày là đàn ông làm sao
mà đẻ được.
Nhà vua vừa dứt lời, cậu bé đang khóc bỗng nín lặng. Cậu
đứng dậy, đôi mắt sáng long lanh, hai tay chắp trước ngực nói thật trang
nghiêm:
- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê
đực chửa!
Nhà vua chợt giật mình. Đến lúc này nhà vua mới phát hiện
ra mình bị hớ. Nhà vua cũng cười thầm trong bụng: “quả đúng đây là cậu bé thần
đồng mà bấy lâu nay mình vẫn nghe đồn!”.
5. CỒN TRẠNG LỘT
Phía trước nhà Quỳnh là một cánh đồng sâu rộng vài chục
mẫu. Thuở còn sống ở quê, hàng ngày muốn đi tắt sang làng bên hoặc vào lối xóm,
Quỳnh phải vượt qua một chặng lầy tới mươi sải nước. Mùa mưa, mẹ con người kéo
te bên hàng xóm có chiếc thúng nhỏ, thường chở giúp “ông Cống” qua chỗ lội,
không lấy tiền.
Thấm thoát mười năm trôi qua. Khi đã ra làm quan ở kinh
đô và tiếng Trạng đã vang danh khắp nơi, một lần về thăm quê Quỳnh gặp lại bà
hàng xóm kéo te. Bà phàn nàn:
- Ông Trạng ơi, tôi hiếm hoi chỉ có một đứa con trai. Cái
thằng năm xưa vẫn chở thúng cho Ông qua chỗ lội ấy, nay sắp phải lo vợ cho nó
mà một đồng một chữ không có. Tôi chẳng biết vay mượn ở đâu, ông có cách gì
giúp mẹ con tôi với.
Tiếng tăm Trạng lừng lẫy thật, nhưng làm quan thanh liêm
như ông, thời buổi ấy nuôi miệng cũng đã khó. Thương người mẹ nghèo hiếm hoi,
nhưng biết tìm cách gì để bà ta có tiền cưới vợ cho con bây giờ? Bỗng Quỳnh hỏi
bà hàng xóm: - Này mẹ con nhà bác lâu nay vẫn còn chở thúng đấy chứ?
- Thưa ông Trạng, không chở thì lấy gì mà ăn? Có điều
khách ít lắm, ngày chỉ được mộ, hai chuyến góp vào tiền kéo te bán tép, may ra
mới đủ đong gạo.
Quỳnh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: - Thôi được, bác cứ về
bỏ trầu xin cưới cho cháu đi. Tôi bấm độn đoán biết thế nào quãng đầu tháng sau
mẹ con bác cũng kiếm được khoản tiền kha khá!
Bà hàng xóm buồn bã nghĩ ông Trạng nói cho vui câu
chuyện.
Giữa cánh đồng nước sâu nổi lên một cồn đất cao. Mấy hôm
nay người ta thấy trên đồn đất hiện lên một cái chòi lợp lá gồi hình tứ giác,
nóc phất phới ngọn cờ xanh đuôi nheo. Chẳng rõ nguyên cớ từ đâu, người ta kháo
nhau: - Trạng Quỳnh ở kinh về thăm quê dựng lều thơ trên gò giữa đồng nước để
xướng, họa liền trong ba ngày. Người nọ truyền người kia, những kẻ khá giả
trong làng, trong xã rủ nhau đi xem.
Những người đến đầu tiên thất vọng ngay. Họ ghé mắt vào
trong chẳng thấy lầu thơ đâu cả, chỉ thấy một đống lù lù hình người trùm chăn
kín mít. Phía vách bên trên dán tờ giấy điều có chữ: “Trạng đang lột… cha đứa
nào nói với đứa nào!”
Tự nhiên tốn tiền đò, mất công toi, bao nhiêu người bực
mình ngán ngẩm. Toán người này về, vừa đặt chân lên cũng ngại câu chửi, chẳng
ai buồn nói với ai, đã thấy toán khác, rồi toán khác nữa, lũ lượt kéo tới, tò
mò ra. Người đi hỏi: - Ở ngoài ấy có gì hay không?
Người về đáp: - Trạng lột… cha đứa nào nói với đứa nào!
- Kỳ lạ thật! Trạng lột… Lại cấm không ai được nói với
ai. Thế thì chắc phải có cái gì bí mật lạ lung lắm!
Thế là một đồn mười, mười đồn trăm… Buổi đầu, đồn xướng
họa thơ, chỉ thu hút đám người hâm mộ chữ nghĩa. Nhưng buổi sau thêm tiếng đồn
Trạng lột… thôi thì bất kể trẻ, già, trai, gái ai cũng muốn tận mắt được
xem. Mẹ con người hàng xóm đông khách quá. Mẹ một thúng, con một thúng thu tiền
đò đếm mỏi tay không xuể…
Mấy hôm sau, Quỳnh đến bảo với người mẹ: - Bây giờ chắc
bác thừa tiền cưới dâu rồi. hãy bảo con trai bác đi dỡ cái “lều thơ” mang lá gồi
và tre nứa về, nối them bếp mà làm cổ.
Bấy giờ hai mẹ con và dân làng mới rõ mẹo của ông Trạng
cứu người nghèo. Để tỏ long kính trọng, người ta gọi luôn cái cồn kia là cồn
Trạng lột. Hiện nay vẫn còn di tích ở giữa cánh đồng sâu xã Hoằng Lộc, huyện
Hoằng Hóa.
6. MIỆNG QUAN
Một lần, trên đường trở về Thăng Long, có người khách lạ
dừng chân vào nghỉ một quán trọ ven đường. Vị khách này ăn vận rất xoàng xĩnh,
gọn gàng. Từ bộ quần áo, đôi dép, tấm khăn không lấy gì làm chải chuốt. Riêng
chỉ có khuôn mặt người khách làm ai cũng phải để ý và ấn tượng. Vẻ mặt ngạo
nghễ, kiêu hãnh với đôi mắt sáng ngời. Lúc ấy, trong quán còn một vị khách nữa
đối lập hoàn toàn với cung cách người kia. Dáng người bệ vệ, ăn mặc chải chuốt,
miệng nhai trầu bỏm bẻm. Đó không ai khác chính là quan quản hạt.
Vị quan ngồi chễm chệ dáng vẻ vênh váo, bên cạnh tên lính
vẫn cầm quạt ve vẩy. Hai cánh mũi quan phập phồng theo nhịp quạt. khi ông quan
nhả miếng trầu xuống đất, bỗng người khách lạ cúi xuống nhặt lên, mân mê, ngắm
nghía kỹ lưỡng:
Vị quan quẹt nước trầu hai bên miệng giọng khinh khỉnh:
- Ngươi là ai, ngươi từ đâu tới?
- Dạ thưa… tôi là học trò nghèo đi kiếm chỗ dạy học.
Quan thở dài chua chát!
- Hừ …! Mày nghèo đến nỗi phải đi nhặt bã trầu à?.
Người khách kia vẫn chắp tay trước ngực từ tốn đáp:
- Bẩm quan, tôi nghe người ở quê nói “miệng nhà quan có
gang có thép”, tôi đang muốn xem có đúng như thế không ạ?
Biết mình bị xỏ viên quan bỗng trợn mắt, đập mạnh tay
xuống bàn:
- Mày đã xưng học trò, ta truyền mày phải đối lại câu vừa
nói. Nếu không đừng có trách ta cho ăn đòn đấy!
Người học trò không nói gì, cúi đầu lặng thinh. Vị quan
dương dương tự đắc:
- Ai bảo mày dám xấc xược đòi thi thố với ta. Nghe vậy,
người học trò ấp úng, luống cuống hơn:
- Dạ thưa…! khó quá con không đối được…
- Không đối được chỉ có cách nằm dài xuống, roi song có
sẵn đây rồi.
- Vậy tôi xin đối bằng chữ nghĩa của tôi. Tôi xin mượn
một câu danh ngôn của bà con kẻ quê - bẩm quan được không ạ?
- Được thôi, miễn là đối được.
Chỉ chờ có vậy người học trò ung dung đáp:
- Đồ nhà khó, vừa nhọ vừa thâm.
Viên quan lặng người đi một lúc lâu. Hết đỏ mặt vì xấu hổ
lại tái mặt vì khâm phục: “Đối thế mới là đối? Thật có một không hai trên
đời!”.
Nói xong viên quan mới nhìn thẳng vào mặt Quỳnh thốt lên:
- Hàn sĩ ....chính là ......Cống Quỳnh!
Trên môi của vị quan bỗng nở một nụ cười đầy tâm đắc và
mãn nguyện.
- Ôi … quan bác… quan Trạng. Té ra, hôm nay…
Quả là cả hai bây giờ mới ngã ngửa – một người chính là
Trạng Quỳnh còn người kia không ai khác ngoài quan tri phủ Phụng Thiên.
7. QUẢ DƯA CHUỘT
Thời gian cứ thấm thoắt trôi đi, Quỳnh đã học hành ở nhà
quan Bảng tròn một năm. Về trí thông minh, học hành, đối đáp… Quỳnh không thua
bất cứ ai. Nhưng ý định chấm người môn thanh làm con rể họ Đoàn thì không mặn
nồng như trước. Quỳnh không muốn tiến thân bằng con đường sự nghiệp. Mặt khác,
tính tình Quỳnh lại thất thường, đả phá mọi lễ nghĩa phong kiến. Cũng như cha
mình, Điểm rất mến phục Quỳnh nhưng cô cảm thấy rằng giữa họ còn một khoảng
cách . Khó có thể kết nghĩa trăm năm.
Vào một ngày đầu xuân, khí trời trong trẻo, mát mẻ. Quỳnh
rủ Điểm đi du xuân, hái lộc. Điểm hái một cành xương rồng trao cho Quỳnh và
chậm rãi đọc:
- Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long.
Quỳnh nghe xong có ý giận. Hóa ra Điểm ví mình như loài
gai góc chỉ quen sống ở bụi bờ, khác nào kẻ mất nết, bất thụ giáo. Bởi vậy, kẻ
ấy đem trồng vào nhà quan cũng giống loài cây kia lạ đất không bén rễ, bén gốc
và “long vẫn hoàn long”. Quỳnh lấy làm tức giận. Đã thế, cậu sẽ thẳng tay không
ngần ngại:
- Quả dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử.
Đôi câu đối chọi nhau chan chát, cả hai người một lần nữa
mặt đối mặt. Cả Quỳnh và Điểm càng ngày càng nhận ra rằng dần dần giữa họ bắt
đầu cạn chữ , cạn nghĩa mà cũng cạn nốt tình.
Cũng vì chuyện thi đối này mà kể từ hôm đó Quỳnh quyết
phải trả cho xong “món nợ” này. Quỳnh sẽ quyết chí đi thi.
8. THỪA GIẤY VẼ VOI
Từ lâu, Quỳnh không có ý định học hành để đỗ đạt làm
quan. Trong lần thi hội, Quỳnh không có ý định ứng thí nhưng nể lời Chúa Trịnh
ép đi thi để lấy trạng nguyên nên Quỳnh nhận lời.
Lúc vào trường thi, Quỳnh làm bài rất nhanh, cậu nộp bài
rất sớm so với mọi thí sinh khác. Lẽ ra Quỳnh đem nộp quyển nhưng vì chẳng
thiết chuyện đỗ đạt nên táy máy giở bài ra xem lại. Thấy bài mình còn một chỗ
trống khá to, Quỳnh cất bút vẽ một bầy voi đủ loại. Và cũng rất ngẫu hứng,
Quỳnh đề lên mấy câu thơ:
Văn chương phá lục đã xong rồi.
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi.
Tớ có một điều xin bảo thật.
Đứa nào cười tớ, nó ăn đòn.
Đọc những câu thơ này, các quan chủ khảo chả tức lộn cổ. Cái
tội phạm quy chắc chắn Quỳnh sẽ bị loại đầu tiên. Thấy sự việc có vẻ kỳ lạ,
viên quan giám thị vội chạy đi báo quan giám khảo . Quan sơ khảo và phúc khảo
đến dòm thử thì thấy đúng như vậy. Còn Quỳnh thì cứ giả điếc cứ vờ như không
thấy. Đợi đến lúc các quan trường xúm lại đông đảo, Quỳnh đưa bút viết tiếp hai
câu thơ vịnh bức trang voi:
Voi mẹ, voi con, voi lúc nhúc.
Chú sơ, chú phúc, rúc mà coi.
Đám quan viên chức lúc này cảm thấy sượng sùng nên bấm
nhau chuồn thẳng. Chúng sợ rằng còn đứng đây nữa chắc Quỳnh lại cho thêm vố
khác.
9. CHÔN VĂN
Hôm ấy, chợt nhìn thấy Quỳnh đeo ống quyển (loại ống tre
hoặc ống gỗ, có nắp đậy, bên trong có bài thí sinh). Quỳnh bước tung tăng với
bộ mặt hớn hở. Bọn quan trường thấy vậy tò mò gọi Quỳnh lại đòi xem văn bút. Quỳnh
lý nhí:
- Dạ tôi đã làm xong rồi. Văn tôi dở thối xem không ngửi
được, xin các quan đừng xem!
Bọn quan càng tò mò hơn:
- Văn bài ông có thối cũng hay hơn văn bài khác. Cứ cho
xem, không sao!
Quỳnh giờ càng kiên quyết hơn:
- Tôi nói thật mà. Bài thối quá nên tôi phải mang đi chôn
đấy chứ!
Nói xong Quỳnh vội bước nhanh. Quan đốc thị lập tức phái
tên thị vệ giả trang theo chân Quỳnh. Một lúc sau, hắn quay về:
- Bẩm quan, đúng là nó đem “văn” đi chôn thật ạ. Con thấy
nó hý hoáy đào xới ống quyển, lấp đất rồi đi thẳng.
Hai mắt tên quan híp lại, đôi cánh mũi phập phồng:
- Mày lấy ống quyển về đây cho tao. Mà mày phải để nguyên
. Tao cấm táy máy mở trước.
Bọn quan trường đâu ngờ rằng, Quỳnh đã rắp tâm từ trước
Quỳnh đổ vào trong ống quyển phân lỏng hòa với nước tiểu. Quỳnh cho một vốc
châu chấu sống lấp sáp ong bịt kín nắp lại, chỉ để thông một lỗ nhỏ.
Lúc các quan có mặt đông đủ, quan đốc thị trịnh trọng mở
tang vật. Tức thì trong ống đám châu chấu phóng ra, hàng trăm ??? “ô uế” bắn tứ
tung đầy mặt các quan. Có vị đang há miệng… hớp cả cứt lẫn nước đái. Đúng là
Quỳnh đã chơi các quan một vố quá đau.
10. ĂN BÊN TRONG, ĂN BÊN NGOÀI
Sau được thăng quan tiến chức, Quỳnh ngang nhiên được
trọng dụng ở triều đình. Nhưng do Quỳnh hay công kích “thói hư tật xấu” của các
quan nên bị ghét bỏ.
Một hôm, vua truyền mở đại tiệc mời tất cả quan trong
triều về dự nhưng lại dành cho Quỳnh một mâm riêng để ngoài sân. Bữa tiệc bắt
đầu, ai cũng say sưa thưởng thức ở trong điện với vua chỉ có Quỳnh là lủi thủi
ngồi bên ngoài. Quỳnh vẫn một mình đánh chén no say. Đến lúc quân hầu dâng món
tráng miệng, Quỳnh cầm một trái chuối lên, bóc ra nhưng chỉ ăn vỏ còn ruột bỏ
đi.
Các quan thấy hành động của Quỳnh quái gở như vậy lấy làm
lạ xúm lại hỏi. Quỳnh ung dung tự đắc nói:
- Sở dĩ tôi ăn ngoài là tôi thấy bên trong ăn như cứt
vậy.
Nghe xong ai nấy đều tái mặt. Chúa bên trong nghe thấy vờ
câm vờ điếc lẳng lặng bỏ đi nơi khác.
Các quan bực mình nhưng không thể làm gì đành dâng kế.
Lần này Quỳnh được mời ngồi bên trong còn các quan và Chúa ngồi bên ngoài. Tất
cả mọi “sơn hào hải vị” được dọn ra, Quỳnh điềm nhiên ngồi xuống ăn uống no
say, không để ý đến người bên ngoài. Khi quân hầu mang chuối đến, Quỳnh cầm
ngay một trái chuối bóc ăn ruột và bỏ vỏ đi. Mấy tên cận thần thấy thế vội mừng
rỡ cho rằng Quỳnh trúng kế liền hỏi:
- Sao quan Trạng bảo ăn bên trong như ăn cứt mà nay ngài
lại ăn vậy?
Quỳnh xoa tay cười vang, khoan thai.
- Ấy là lần trước là thế đó. Nhưng lần này tôi thấy ăn
bên ngoài như ăn cứt, thành thử tôi ăn bên trong vậy.
Mọi người ai cũng nghe rõ từng lời Quỳnh nói. Cả Chúa lẫn
các quan đều cố nuốt “ực” một cái cục tức vẫn mắc nghẹn ở cổ.
11. SẤM ĐỘNG NƯỚC NAM
Tuy là hai nước láng giềng nhưng An Nam và Trung Quốc vẫn
âm ỉ công kích lẫn nhau. Năm ấy, Trung Quốc cử một bộ ngoại giao sang An Nam
thông hiếu nhưng mục đích là để dò xét tình hình.
Để ứng phó với chuyện này, nhà vua đã triệu tập tất cả
hiền tài trên đất nước. Và Quỳnh là người không tránh khỏi trong đợt này. Theo
kế hoạch, các bậc danh tài được cải trang thành dân thường được bố trí khắp
suốt cuộc hành trình của phái đoàn ngoại giao Trung Quốc. Người cầm đầu phái
đoàn nước bạn là một vị hoàng thân Trung Quốc. Trông dáng vẻ của y rất kiêu
ngạo, hách dịch. Thân hình lão cao lớn, khuôn mặt quắc thước ra vẻ trịnh
thượng, khi đoàn thuyền trở mọi người đi đến giữa sông, bỗng tên chánh sứ phát
ra một trung tiện khá lớn. Trong bầu không khí yên lặng, trang nghiêm ấy, âm
thanh càng nghe rõ mồn một.
Viên chánh sứ không hề nao núng, nhanh trí cất cao giọng:
- Lôi động Nam bang! (Sấm động nước Nam).
Cả đoàn phái bộ ai nấy cũng lấy làm đắc trí cười ầm lên.
Bỗng từ trong đám người chèo thuyền, có một kẻ ngừng tay, bước ra trước mũi
thuyền ngang nhiên vén quần lên, vừa đái tồ xuống mặt sông vừa lớn tiếng:
- Vũ qua Bắc hải! (Mưa qua biển bắc).
Người này vừa dứt lời tất thảy bọn phái đoàn Trung Quốc
mặt mày tím tái, im thin thít.
Sau khi qua sông, mọi người lại tiếp tục cuộc hành trình
của mình. Tất cả lên bờ và chuẩn bị nghỉ ngơi. Ngay cạnh đấy có một quán nước
đứng lẻ loi. Chủ quán là một thiếu phụ da trắng hồng, mắt đen láy, môi đỏ như
cánh hoa đào. Cô gái có khuôn mặt khuê các, nhan sắc mặn mà nhưng ngồi rất hở
hang.
Thấy vậy, mấy viên phái lộ lại gần, ngó nghiêng, chỉ trỏ
cười nói rất lớn với nhau:
- An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh (nước Nam
một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày).
Người thiếu phụ nghe thấy mỉm cười. Nàng duyên dáng, thẹn
thùng rồi ứng khẩu ngay:
- Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất (các quan lớn
Trung Quốc đều từ chỗ ấy mà chui ra cả).
Người thiếu phụ này không ai khác chính là nữ sĩ Đoàn Thị
Điểm. Chỉ có nàng mới là đối thủ của Trạng Quỳnh.
Còn phái đoàn ngoại giao Trung Quốc, từ sau lần ấy không
còn dám ta đây ra vẻ hênh hoang nữa. Họ đã biết rằng người An Nam thực sự giỏi
giang, sắc sảo. Bất kể, họ đều là người dân lao động.
12. THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT THIÊN HỌA
Từ ngày sang nước An Nam, phái đoàn Trung Quốc đã nhiều
phen bị mất mặt. Họ biết rằng An Nam là mảnh đất lắm kẻ nhân tài. Tuy vậy, họ
không để mình lép vế.
Phái đoàn bàn mưu lược quyết không để hai bên thi đối đáp
văn học vì nơi đây cũng là đất nước nghìn năm văn hiến không thua gì Trung
Quốc. Viên phó sứ đề nghị tổ chức một cuộc thi tài hội hoạ. Y giám chắc phần
thắng sẽ nghiêng về mình bởi chính y là một họa sư có tài đệ nhất thiên hạ.
Hôm sau, cả kinh thành nhộn nhịp cờ hoa. Khắp mọi nơi đổ
dồn về kinh thành xem nghệ thuật hội họa giữa hai đất nước. Viên phó sứ đứng
lên, dõng dạc tuyên bố sẽ phô diễn nghệ thuật hội họa Trung Quốc. Bộ mặt viên
phó sứ vừa rạng rỡ vừa hống hách: Một hồi trống vẽ xong một con vật.
Tức thì, nhân viên tùy tùng đem lụa và mực đến và quân
túc vệ khiêng ra giữa sân chầu một chiếc trống lớn.
Quả nhiên, hồi trống vừa dứt, viên họa sĩ đã vẽ xong một
con chim tước, nét bút linh hoạt. Mọi người mừng vui reo hò rần rật.
Quỳnh đi đến bên cạnh bức tranh nhìn qua một lượt rồi
nói.
- Quả đúng như người đời đồn đại, về phương diện mỹ thuật
thì thật siêu đẳng nhưng về tốc độ thì chưa đáng kể. Kẻ bất tài này có thể một
tiếng trống vẽ xong mười con vật. Nhân tiện có dịp này tôi trổ chút tài mọn để
các ngài thưởng thức.
Viên phó sứ cười lớn:
- Nếu quả như vậy thì thiển chức xin bái phục và tôn các
hạ lên hàng: “Thiên hạ đệ nhất danh hoạ”.
Quỳnh liền trải trước mặt một tấm lụa trắng rồi đổ mực ra
chiếc đĩa lớn.
Khi tên túc vệ vừa giơ dùi trống lên Quỳnh lập tức nhúng
cả mười đầu ngón tay vào đĩa mực rồi vạch lên tấm lụa.
Khi xong xuôi,Quỳnh cầm tấm lụa giơ lên cao trước tất cả
mọi con mắt ngạc nhiên của mọi người:
- Đây là bức họa mười con giun đất.
Đúng là bức họa có một không hai mà họ từng thấy trong
đời. Bọn chánh sứ và cả quan lại xứ An Nam tất thảy đều tròn mắt thất kinh xen
lẫn thán phục tài nghệ thông minh của Quỳnh.
Và sau đó, Quỳnh tuy không biết vẽ nhưng đương nhiên trở
thành “Thiên hạ đệ nhất danh họa”.
13. CHÚA NGỦ NGÀY
Vào một ngày đẹp trời, Quỳnh có lệnh phải vào hầu Chúa.
Sau khi đủng đỉnh vào triều, không thấy Chúa ở trong cung. Thì ra Chúa đương
ngon giấc nồng. Ngồi một mình không có gì làm buồn quá Quỳnh ngó nhìn xung
quanh. Sẵn có bút trong tay, Quỳnh đề ngay hai chữ lên tường rồi bỏ về.
Khi thức giấc lên công đường, Chúa nhìn thấy ở trên bờ
tường có hai chữ “ngọa sơn” nét mực còn tươi rói. Chúa còn nghi ngờ không biết
kẻ nào dám đề chữ lên đây. Và nghĩa của hai từ này không hiểu ngụ ý gì. Hỏi ra,
Chúa mới vỡ lẽ là do Quỳnh viết. Đến buổi hầu triều, khi có đầy đủ các văn võ
bá quan, Chúa ra lệnh cho mọi người phải giải nghĩa nhưng không ai luận ra nổi.
Chúa đành phải nhịn nhục sai lính gọi Quỳnh đến công đường.
Quỳnh đến làm vẻ ngạc nhiên:
- Hai chữ ấy có gì sâu sắc đâu. Hạ thần cứ lấy nghĩa đen
mà viết, không dám có ý từ gì hiểm hóc cả.
- Ngươi hãy cắt nghĩa cho ta nghe.
Chúa hồi hộp đáp. Còn Quỳnh ngập ngừng mãi mới nói:
- Chữ “ngọa” nghĩa là “nằm” hẳn không ai nằm không, tất
phải ngáy. Chữ “sơn” nghĩa là “núi”, “núi” tất phải có “đèo”. Vậy khi ta hợp
hai chữ lại đó là “ngáy đèo”.
Cả triều ai cũng phải bật cười. Chúa cũng không dấu nổi
tài chơi chữ của Quỳnh. Tan triều các quan trách Quỳnh.
- May mà Chúa rộng lượng không thì hôm nay ngươi cũng mất
đầu rồi.
Quỳnh khẽ mỉm cười, cúi đầu chào các quan rồi chuồn
thẳng.
14. ĐÀO TRƯỜNG THỌ
Chỉ là chức quan nhỏ, nhưng Quỳnh có thể đùa cợt với bất
cứ ai, kể cả Chúa. Dường như đối với Quỳnh, đả kích, trêu chọc vua quan đã trở
thành thông lệ.
Một hôm, túc trực ở cửa cung, Quỳnh thấy có người dâng
lên một mâm đào, gọi là đào “trường thọ”. Quỳnh ung dung đến gần, với tay lấy
quả đào điềm nhiên ngồi ăn ngấu nghiến trước bộ mặt ngạc nhiên của toàn bộ bá
quan. Nhà vua rất tức giận, đạp bàn và quyết xử Quỳnh cho đúng tội. Chiếu theo
luật đã ban hành Quỳnh bị hình phạt xử trảm. Vừa nghe xong, Quỳnh quỳ xuống, bộ
mặt vẫn giữ vẻ bình tĩnh.
- Đình thần nghị tội hạ thần như vậy quả đúng là luật.
Nhưng tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng cho kẻ hạ thần được nói vài lời trước
khi chết?
Nhà vua phán:
- Được! Ta cho phép nhà ngươi được nói.
- Muôn tâu, hạ thần có bụng tham sinh, sợ chết non thấy
quả gọi là “trường thọ” thì thèm quá. Hạ thần tưởng rằng được ăn đào sẽ sống
lâu trăm tuổi, để được thờ vua cho tận trung. Không ngờ nuốt chưa khỏi mồm mà
chết đã đến tận cổ. Hạ thần trộm nghĩ nên đặt quả ấy là “đoản thọ” thì đúng hơn
ạ. Và xin nhà vua hãy trừng trị kẻ nào dám dâng đào để trừ kẻ xu nịnh.
Nghe lời Quỳnh nói, nhà vua cũng phải bật cười. Nhà vua
rất tâm đắc với lời Quỳnh nói và không thể làm gì khác là tha tội chết cho
Quỳnh.
15. CÂY NHÀ LÁ VƯỜN
Từ lâu, Quỳnh đã xỏ xiên Chúa Trịnh nhiều vố trước mặt
các quan trong triều. Chúa thì từ lâu đã không biết làm gì với tài đối đáp của
Quỳnh. Đã thế, thấy Chúa ghét mình Quỳnh càng trêu tợn hơn.
Chúa liền sai lính đến kéo đổ nhà Quỳnh. Quỳnh thấy thế
nhẹ nhàng bảo bọn lính.
- Chúa sai các anh đến kéo đổ nhà ta thì cứ việc. Nhưng
không được reo, được cười. Ai mà reo cười thì ta cắt lưỡi.
Nếu làm một việc gì nặng mà không được reo hò, dô ta đồng
thanh thì quả là khó khăn. Vì vậy, lũ lính đành chịu thua và ra về.
Chúa rất giận Quỳnh nhưng không làm gì được. Lần sau,
Chúa sai bọn lính đến ỉa vào trong nhà Quỳnh. Quỳnh thản nhiên cầm dao ra bảo:
- Chúa sai các ngươi đến ỉa vào nhà ta thì cứ ỉa nhưng ta
cấm đái. Thằng nào đái ta cắt … phập ngay.
Sự đời có ai ỉa mà không đái bao giờ? Chúng chạy về tâu
lại với vua. Sau một hồi suy nghĩ, vua bảo bọn lính đái vào gáo dừa. Quỳnh đành
thua nhưng bụng vẫn nuôi ý định phục thù.
Một thời gian sau, Quỳnh đi ra chợ mua nhiều cải tươi
xanh mơn mởn về nhà nấu và đem vào dâng Chúa. Chúa nhìn thấy vậy trầm trồ khen
ngon. Quỳnh chỉ chờ có vậy bẩm ngay:
- Dạ, thưa cải nhà con trồng được đấy ạ. Trước nó không
tốt lắm nhưng từ khi Chúa sai người đến ỉa vào vườn thần. Thần đem bón vào nó mới
trở nên tươi tốt như vậy. Cây nhà lá vườn thần xin dâng!
Chúa Trịnh nghe xong đã tím tái mặt mày nhưng lặng thinh
không nói câu gì.
16. TRẠNG CHẾT CHÚA CŨNG BĂNG HÀ.
Kể từ lần chơi xỏ Chúa, Quỳnh biết rằng Chúa rất căm
mình. Được tin Chúa triệu vào cung yết kiến. Quỳnh nghĩ chuyến đi lần này lành
ít dữ nhiều. Quỳnh gọi vợ lại và căn dặn:
- Hôm nay ta vào hầu yến vua, lành ít – dữ nhiều. Nếu ta
có mệnh hệ gì không được phát tang ngay. Cứ để ta vào võng, cắt hai đứa quạt
hầu và gọi nhà trò vào hát. Lúc nào thấy phủ Chúa phát tang thì ở ngoài hãy
phát tang.
Sau khi dặn giò cẩn thận, Quỳnh lên võng vào kinh.
Đến phủ Chúa, Quỳnh đã thấy Chúa ngồi đợi sẵn, nghiêm
trang nói:
Lâu nay, không gặp được ngươi, Ta nhớ quá. Có người dâng
hải vị rất ngon. Ta liền nhớ ngay đến ngươi. Nào! ngươi không được từ chối
thành ý của ta.
Quỳnh biết ngay Chúa vẫn giận mình về cây cải hôm nọ. Giờ
Quỳnh từ chối không ăn cũng không xong. Quỳnh điềm nhiên ngồi gắp ăn. Chúa quay
sang hỏi:
- Bao giờ Quỳnh chết?
Quỳnh thưa:
- Bao giờ Chúa băng hà thì Quỳnh cũng chết.
Sau khi ăn xong, Quỳnh thấy trong người bắt đầu khang
khác, đau đầu, chóng mặt. Biết sự chẳng lành, Quỳnh xin lui về nhà. Vừa đến nhà
Quỳnh đã ngừng thở. Gia đình vội làm đúng những điều Quỳnh dặn. Chúa sai người
dò thám xem Quỳnh có việc gì không, nhưng xem ra vẫn như thường. Quỳnh đang nằm
trên võng nghe nhà trò hát. Mọi người chung quanh đều vui vẻ nói cười.
Bọn lính vội vàng về tâu với Chúa về sự việc kỳ lạ này.
Chúa lập tức triệu đầu bếp lên xem thuốc thế nào mà không có hiệu quả gì.
Chúa liền ăn thử, được một chốc thì lăn đùng ra chết.
Gia đình Quỳnh lúc bấy giờ mới nghe thấy trong thành phát
tang Chúa thì nhà cũng bắt đầu. Thế là Quỳnh và Chúa đưa ma một ngày. Đến lúc
chết rồi mà Quỳnh còn lừa được cả Chúa.
Mãi đến sau này, người ta vẫn còn câu thơ:
Trạng chết Chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.
17. BÀ BANH HẾT THIÊNG
Ngày ấy, ở gần nhà Quỳnh có một pho tượng rất kỳ lạ, trần
truồng đứng giữa đồng, miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống chỗ kín, gọi là bà
Banh.
Tuy pho tượng kỳ cục vậy nhưng linh lắm, ai đi qua trông
thấy nhếch mép cười thì không xếch mồm cũng méo miệng. Người ta đồn rằng đây là
chỗ người Tàu dấu của, thiêng lắm. Quỳnh nghe đồn đã lâu nay cũng hối hả đến
xem. Nhìn tượng thần trần truồng mà chân lại đi giày, cổ đeo hạt. Quỳnh không
nói gì, cầm bút đề ngay vào ngực tượng bài thơ nôm rằng:
Khen ai đẽo đá tạc
nên mày!
Khéo đứng ru mà đứng
mãi đây.
Trên cổ đếm đeo dăm
chuỗi hạt.
Dưới chân, đứng chéo
một đôi giày.
Ấy đã phất cờ trêu
ghẹo tiểu.
Hay là bỏ gạo thử
thanh thầy?
Có ngứa gần đây
nhiều gốc dứa.
Phô phang chi ở đám
quân này.
Quỳnh đề thơ xong rồi bỏ đi. Tượng đá bỗng toát mồ hôi
ra. Kể từ đó tượng mất thiêng.
18. MỘT DUYÊN, HAI NỢ
Trong làng, gia đình quan bảng Đoàn nổi tiếng danh giá,
tri thức. Ông chỉ có độc nhất một cô con gái tên là Đoàn thị Điểm. Thấy Quỳnh
tài trí trội hơn tất cả đám môn sinh. Ông rất muốn tác thành tình duyên cho hai
người. Nhưng đôi “trai tài gái sắc” tính nết khác thường, Quỳnh là tay tinh
nghịch còn Điểm cũng không vừa. Có vẻ như cả hai đều “kẻ tám lạng, người nửa
cân”.
Sang nhà quan Bảng chơi, Quỳnh thấy Điểm ngồi khâu, lân
la mang sách tới, ngồi cách một tấm rèm mỏng giữa hai cửa sổ trông ra sân. Cậu
liếc mắt nhìn Điểm, cô tủm tỉm cười đọc một câu:
- Hai người ngồi bên cửa sổ song song.
Quỳnh ngồi suy nghĩ cắn bật máu môi, không tìm ra chỗ đối
lại, đành mang sách lảng đi chỗ khác.
Có hôm, Thầy sai Quỳnh đi có việc, tối về muộn phải gọi
cổng. Chó dữ trong nhà cứ ngỡ người lạ, nhảy xổ vào Quỳnh. Cậu vội chèo tót lên
cây cậy ở góc vườn. Điểm soi đèn nhìn thấy Quỳnh. Cô thách Quỳnh đối được mới
mở cổng. Điểm tủm tỉm cười:
- Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy, dái đỏ hồng hồng.
Câu này khó ở chỗ hồng là quả hồng mà hồng lại cùng họ
với cậy.
Quỳnh tịt luôn. Mãi cho đến nửa đêm Điểm mới nhốt chó cho
vào nhà.
Biết Đoàn thị Điểm không phải là tay vừa, bị thua đau mấy
phen Quỳnh đâm ra liều lĩnh. Một tối, Điểm dũ chiếu buông màn toan đi ngủ,
nhưng quên đóng của chuồng gà phải chạy xuống bếp. Quỳnh thừa cơ hội trèo lên
giường nằm trước. Lúc quay vào trong buồng tối chẳng dè, Điểm sờ phải… của
Quỳnh. Điểm thắp đèn lên và đuổi Quỳnh ra khỏi màn. Điểm doạ Quỳnh không đối
lại được sẽ mách thầy về tội sàm sỡ. Điểm điềm tĩnh đọc:
- Trướng nội vô phong phàm tự lập.
Câu này có nghĩa là: Trong màn không có gió mà cột buồm
lại tự nhiên dựng lên.
Lần này, Quỳnh không hề nao núng, cậu ứng ngay tức khắc:
- Hưng trung bất vũ thủy trường lưu.
Nghĩa là: Trong bụng không có mưa mà nước vẫn chảy dài.
Câu đối quá chỉnh, Điểm không thể bắt bẻ nổi Quỳnh và
trong bụng đã phục Quỳnh hơn.
TRUYỆN TRẠNG LỢN
1. TRẠNG DỞ HAY TRẠNG NGUYÊN
Xưa kia, ở
làng Dừa thuộc tỉnh Hà Nam có một gia đình họ Dương vốn dòng khoa Bảng nổi
tiếng một vùng. Nhưng do thời thế thay đổi, đến đời ông Dương Đình Lương thì
phải chuyển sang nghề mổ lợn. Hai vợ chồng sinh được một cậu con trai đầu lòng
nên rất vui mừng. Nhưng điều đáng buồn là cậu bé càng lớn càng học dốt. Họ chỉ
ước ao có một cậu bé thông minh để nối nghiệp tổ tông.
Đúng như lời
ước nguyện, không lâu sau bà vợ thụ thai sinh được một cậu con trai tướng mạo
rất khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết mở tiệc ăn mừng mời tất
cả mọi người trong làng.
Cậu được đặt
tên là Dương Đình Chung, tục gọi là Chung Nhi. Năm cậu lên ba tuổi, triều đình
mở khoa thi. Lúc ấy có một ông Trạng Nguyên và một ông Bảng Nhãn vinh quy trở
về làng. Tất thảy mọi người già trẻ trai gái đều nô nức kéo ra xem. Chung Nhi
nhìn thấy đám rước liền hỏi bố:
- Ông kia là ông gì hả bố?
Bố đáp:
- Ông ấy là quan Trạng.
Chung Nhi tròn mắt tò mò nhìn khắp mọi nơi lại tiếp tục
chỉ vào người mặc áo trào đi sau:
- Thế còn ông kia là ông gì ạ?
Người bố chậm rãi đáp:
- Ông ấy là quan Bảng.
- Thế thì ông nào hơn ông nào?
- Quan Trạng hơn.
- Vậy thì ngày sau con cũng làm quan Trạng.
Ông Lương nghe đứa con nói vậy bật cười khoan khoái.
- Gớm nhỉ! Mày tưởng làm quan Trạng dễ lắm sao? Người ta
học hành vất vả suốt đời cũng chưa chắc được đâu con ạ!
- Sau này con nhất định sẽ làm quan Trạng, rồi bố xem!
Sau lần ấy, Chung Nhi cứ mơ tưởng tới hai từ Trạng
Nguyên. Trong đầu cậu, hình ảnh người đội mũ cao, che lọng về làng đã in sâu
trong tâm trí. Chung Nhi khi mở miệng đều xưng mình là Trạng. Khi chơi với trẻ
thì lấy lá sen làm lọng, lá chuối làm cờ. Cậu lấy mo làm biển, bắt lũ trẻ
khoanh tay làm kiệu rước.
Một hôm có vị khách đến chơi thấy vậy hỏi đùa:
- Trạng dở hay Trạng Nguyên?
Chung Nhi đáp lại:
- Khách quen hóa khách lạ.
Vị khách rất đỗi ngạc nhiên trước câu trả lời của cậu bé.
Ngắm nhìn tướng mạo cậu ông lấy làm thích thú. Ông vội bàn với cha mẹ Chung Nhi
nên tìm thầy giỏi cho cậu theo học.
2. THIÊN TÍCH THONG MANH
Khi Chung Nhi lên sáu tuổi, ông Lương quyết định cho con
theo học thầy đồ ở làng bên. Chung Nhi thắc mắc hỏi mẹ:
- Mẹ này! Thầy đồ hơn Trạng hay Trạng hơn thầy đồ?
Mẹ trả lời:
- Trạng hơn thầy đồ.
- Thế thì con trả học thầy đồ đâu!
Mẹ ôn tồn đáp:
- Không được, muốn làm quan Trạng con phải học thầy đồ
trước.
Nghe mẹ nói thế Chung Nhi mới vui vẻ cắp sách tới trường.
Ngay ngày hôm sau, ông Lương thổi xôi đem con sang thầy đồ xin học.
Thầy giáo nhìn Chung Nhi rồi bảo vào lễ. Cậu thắc mắc:
- Thầy bảo lễ ai ạ?
- Lễ trình Đức thánh.
Chung Nhi gặng hỏi:
- Đức Thánh có hơn Trạng không?
- Nhất Thánh, nhì Trạng.
Nghe xong cậu gật gù rồi mới vào lễ. Lễ xong ông Lương
bảo vào lễ thầy, Chung Nhi cho rằng thầy kém Trạng nên không vào lễ. Bố cậu
phải dỗ dành mãi Chung Nhi mới chịu vào lễ. Thầy nhìn Chung Nhi cười rồi bảo:
- Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn.
Cậu nghe câu: “thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn” thì
khiếp sợ nói với bố:
- Con không học đâu!
Ông Lương đành dỗ dành:
- Con cứ chăm học thì cấm chỉ thầy đánh.
- Thưa thầy học mấy hôm thì thành Trạng?
Thầy đồ bật cười vỗ vào vai cậu:
- Học dăm ba hôm thì thành trạng thôi!
Chung Nhi lấy làm đắc chí.
Có hôm thầy đọc câu trong Tam Tự Kinh cho Chung Nhi nghe:
“Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng”. Thầy vừa đọc xong cậu đã quên
ngay và đọc chẹo đi là “Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng”. Cậu cứ
đọc đi đọc lại câu này không biết bao nhiêu lần. Thầy đồ giận lắm, nọc ra đánh
đòn. Nhưng thầy hễ vừa giơ roi lên thì Chung Nhi nằm ngửa mặt lên trời đọc rối
rít:
- “Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng”. Thầy bật
cười tha cho.
3. MUA LỢN
Một hôm, bỏ trốn trường chạy về nhà. Gặp mẹ cậu vui vẻ
nói:
- Con học hết sách thầy rồi. Hôm nay con về chuẩn bị hành
lý để đi thi Trạng.
Bố nghe vậy cười lớn:
- Chưa mọc lông ống đã đòi bay bổng. Một câu trong tam tự
kinh chưa thuộc thì thi cử thế nào hả con.
- Thầy chẳng bảo học dăm ba hôm là trạng chứ gì nữa!
Chung Nhi quả quyết.
- Thầy nói vậy để con yên tâm học thôi.
Dù cho cha nói vậy nhưng trong lòng Chung Nhi vẫn đinh
ninh đã học xong rồi.
Năm lên mười ba tuổi, học hành thì Chung Nhi vẫn dốt nát
mà quậy thì không ai bằng. Cậu phá phách, bày đủ thứ trên đời. Bố cậu thấy vậy
tự nhủ: “giỏ nào thì quai nấy” thôi!
Từ đấy, Chung Nhi bỏ học theo bố làm nghề mổ lợn, thái
thịt. Một hôm, hai bố con sang làng bên vào dinh một viên quan hưu trí để xem
lợn. Quan ông thì đi ngủ còn quan bà thì đi vắng. Bố con xin ra chuồng lợn để
xem, khi ấy quan vừa dậy. Ông Lương vái chào rồi bẩm:
- Con ở làng bên, nghe nói quan có lợn bán nên con sang
mua.
Quan không trả lời gì, mắt nhắm mắt mở bước ra cửa, lấy
khăn chùi mặt, vuốt bộ râu rẽ sang hai bên, đoạn búi tóc lại và quay vào. Chung
Nhi thấy vậy bèn kéo bố vào chuồng bắt lợn. Ông Lương thắc mắc:
- Quan đã nói giá cả bao nhiêu đâu mà bắt?
Cậu thong thả đáp:
Bố không biết à? Quan khinh cha con mình là người mổ lợn
nên không thèm nói. Quan đã giơ tay làm hiệu, giá mười tám quan đấy bố ạ!
Dứt lời, cậu đem đủ mười tám quan ra giữa sân rồi vào bắt
lợn. Vừa lúc ấy, quan bà về bắt gặp tức tốc quát mắng:
- Ai bán lợn mà các ngươi tự tiện vào bắt?
Chung Nhi nhanh nhảu:
- Bẩm! Ông lớn bằng lòng bán rồi đấy ạ!
Quan bà nghe vậy rất bực mình, bà quay ngoắt bước vào nhà
tìm chồng hỏi cho ra nhẽ.
- Sao lợn to thế ông bán có mười tám quan vậy?
Quan ông tròn xoe mắt ngạc nhiên không hiểu đầu đuôi sự
việc thế nào. Ông gọi bố con Chung Nhi lại quát:
- Ai bán mà các ngươi bảo ta bán mười tám quan.
Chung Nhi liền thưa:
- Bẩm cụ! Lúc nãy con thấy quan lấy khăn chùi ngang mắt,
lại vuốt râu từ trán xuống, rồi rẽ râu sang hai bên, rõ ràng là chữ “thập bát”.
Quan lại giơ tay búi tóc ra hiệu rằng chồng đủ mười tám quan thì vào mà bắt
lợn. Chúng con đã chồng đủ mười tám quan ở sân rồi đấy ạ!
Quan nghe Chung Nhi nói xong rất phục. Một cậu bé còn nhỏ
tuổi đã biết đối đáp rành mạch.
- Ta không định bán nhưng khen chú bé thông minh nên ta
bằng lòng bán cho vậy. Thôi khiêng lợn về nhà nhanh lên.
Thế là hai bố con nhà Chung Nhi ung dung vác con lợn to
béo về mổ thịt.
4. BẮT TRỘM
Một năm sau, bố của Chung Nhi qua đời. Cậu rất thương cha
bởi đây là cú sốc lớn. Cha mất được ba nầm cậu vẫn cứ buồn rầu, ủ ê, lang thang
hết nơi này đến nơi khác. Mẹ cậu rất thương cậu nhưng chẳng làm được việc gì.
Chính vì vậy, Chung Nhi đâm ra rượu chè, đàn đúm bạn bè. Người anh thấy vậy lo
lắng:
- Bố giờ đã mất rồi, cứ đà này hai anh em mình sẽ chẳng
làm nên trò trống gì. Mẹ thì đã già, anh em mình phải tu tỉnh làm ăn để nuôi mẹ
chứ. Tội bất hiếu bất mục ấy ai chịu cho?
Chung Nhi vờ như người điếc, bà chị dâu thấy vậy bực
mình:
- Chú suốt ngày chỉ biết rượu chè, đàn đúm chẳng sợ mang
tiếng sao? Phải tính chuyện vợ con nữa chứ. Cứ theo cái đà này thì ai dám lấy.
Chung Nhi nghe vậy cười lớn:
- Rồi chị xem, mai kia em đỗ trạng thì khối vợ, khối tiền
tha hồ mà mở mặt.
- Cái gì? chú thì có trạng lợn, trạng rượu thôi.
Chung Nhi vẫn cứ nhởn nhơ:
- Nhất định em sẽ làm trạng.
Hôm nọ đi chơi bù khú về, vừa vào đến sân chị dâu nói
vọng ra:
- À! Chú đỗ trạng, vinh quy về đó à? Trạng rượu hay trạng
thịt đấy?
Nghe chị dâu nói, ngẫm lại Chung Nhi càng thấy cay đắng,
xót xa. Chung Nhi suy nghĩ mãi cuối cùng quyết định bỏ nhà ra đi. Cậu thề rằng
nếu không làm nên công trạng sẽ không bao giờ về nhà nữa. Lạy mẹ xong, nước mắt
dàn dụa, Chung Nhi dứt áo rồi ra đi.
Vừa ra đến cổng, cậu thấy hai người đàn ông quần áo chỉnh
tề, kẻ đi sau vai vác lều chõng hối hả lên đường. Chung Nhi tò mò hỏi:
- Hai người đi đâu mà thầy tớ đề huề như vậy?
- Chúng tôi đi trẩy kinh đây! Thầy có đi không?
- Thế à! Đi chảy kinh, được! Tôi sẽ đi cùng.
Tất cả họp lại rồi tiếp tục đi.
Xem chừng cả ba rất hợp nhau. Chung Nhi thì tính tình vui
vẻ, lúc nào cũng vui cười. Cậu luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác bởi vậy họ trở
thành những người bạn tâm đầu ý hợp.
Đường lên kinh thành còn xa. Trước mặt họ có một quán
trọ. Cả ba bước vào và đêm đó ngủ vì quá mệt ngủ say như chết.
Tối hôm ấy, có hai tên trộm lẻn vào ăn cắp đồ của khách
lạ. Chung Nhi ngủ say sưa, cậu mơ thấy mình đang bắt lợn mà con lợn lại sổng
mất. Cậu liền hét to:
- Đây rồi! Bắt, bắt… bắt… trói… lại… cắt tiết!
Hai tên trộm nghe thấy cứ ngỡ bắt mình vội vàng vứt bỏ đồ
đạc. Chúng chạy bán sống bán chết. Hai người bạn giật mình tỉnh dậy kiểm tra
lại đồ đạc không thấy mất gì mừng khôn xiết. Cả hai vội cảm ơn Chung Nhi rối
rít.
5. DỐT CHỮ.. THÀNH THẦN
Đường đi lên kinh thành xa xôi cách trở, cả ba người cứ
đi không nghỉ ngơi. Trời đã nhá nhem tối. Họ bàn nhau vào trong làng tìm nhà
trọ. Khi đi qua cổng làng họ thấy ở cổng đề ba chữ: “thủ chư dự”, có nghĩa là
“lấy trong quẻ dự” chữ ở Kinh Dịch. Chung Nhi nghe bạn đọc lại nghe nhầm thành
“thủ trư” là “thủ lợn” nên hồ hởi bảo:
- Nhất định tối nay anh em mình sẽ được chén thủ lợn.
Thật ra Chung Nhi dốt. Cậu không chỉ theo âm để đoán mò
lại không biết cả ngữ pháp tiếng Hán. Còn hai người bạn vì quá đói nên nghe
thấy vậy mừng vui tíu tít.
Thật bất ngờ là họ đang trọ ở nhà ông Tiên chỉ. Hôm nay
là ngày hội xuân, làng đem biếu ông cái thủ lợn. Nhân có khách, ông ta liền lấy
thủ lợn để tiếp khách.
Hai người bạn thấy vậy liền phục Chung Nhi sát đất:
- Bác có phép tiên tri hay sao? Thế thì chúng tôi sẽ được
nhờ bác nhiều lắm.
Họ tiếp tục lên đường, ba người qua một cái làng khác. Ở
ngay đầu làng có biển đá khắc hai chữ “hạ mã”, chữ Hán có nghĩa là “xuống
ngựa”. Không biết nhìn ngó thế nào, Chung Nhi lại đọc hai chữ ấy thành “bất
yên”. Thành thử từ này hiểu ra là” chẳng lành”. Chung Nhi liền khuyên hai bạn:
- Làng này sắp có chuyện chẳng lành rồi. Chúng ta nên đi
tiếp rồi nghỉ ở làng khác.
Hai người bạn có vẻ nghi ngờ câu nói của Chung Nhi nhưng
cuối cùng cũng chiều theo ý cậu. Ai ngờ vừa đi được một quãng thì ba người bỗng
nghe từ xa vọng lại tiếng kêu la thất thanh. Mọi người chạy đi chạy lại rầm rập
sau lưng mình. Tiếng gõ mõ càng lúc càng ầm ĩ. Thì ra làng đó đang có đám cháy
lớn.
Từ hôm ấy trở đi, hai người bạn càng phục Chung Nhi hơn
nữa. Họ cho rằng Chung Nhi là nhà tiên tri có thể tiên đoán trước mọi thứ. Cậu
được xem như một vị thần, gieo quẻ nào thì hiệu nghiệm quẻ ấy.
6. LÀM THƠ
Vào một buổi sáng đẹp trời, cả ba người hết sức ngạc
nhiên trước một khung cảnh rất chi là “hữu tình”. Một trang trại nho nhỏ, chung
quanh có tùng cúc tốt tươi, trúc mai mềm mại. Nổi lên giữa khung cảnh ấy, Chung
Nhi thấy một tiểu thư nhan sắc lộng lẫy đang hái hoa xuân. Chung Nhi đứng ngắm
mê mẩn, bồi hồi. Nhưng xung quanh đều tường cao cổng kín, khó nỗi tìm vào.
Đi một quãng, Chung Nhi bèn lập mẹo từ biệt hai người
kia, nói dối là phải vào thăm người bà con gần đấy, nhân thể mời hai người cùng
vào. Hai người bạn thấy vậy từ chối đi trước vì đường sá còn xa xôi. Chung Nhi
bèn căn dặn:
- Vậy thì mời huynh đệ trẩy kinh trước, mai kia tôi sẽ
đuổi kịp thôi. Chúng ta sẽ hội ngộ ở kinh thành nhé!
Chung Nhi quay lại hỏi thăm và được biết đó là trang trại
của quan tri huyện họ Bùi. Vị này chỉ có độc nhất cô con gái xinh đẹp, nết na
lại khéo léo mọi việc. Viên quan đang chuẩn bị kén một người rể hiền để nương
nhờ sau này. Bữa ấy đang nằm ngủ ông mơ thấy có ai đó gọi: “Tướng ông dậy. Đón
trạng rể mới lại chơi vườn!’. Ông tỉnh lại lấy làm kinh ngạc.
Ngay lúc ấy, Chung Nhi đang ghé mắt nhìn vào chỗ tiểu thư
đứng ngắm hoa, chợt vị quan đứng dậy đi ngắm vườn. Thấy người lạ, ông sai người
ra và hỏi:
- Thầy người đâu lại? Thầy muốn hỏi việc gì?
Chung Nhi thấy vậy luống ca luống cuống mồ hôi vã ra, ấp
a ấp úng trả lời:
- Bẩm! Tôi là học trò. Tôi đang trẩy kinh đi thi, thấy
cảnh đẹp trộm đứng ngắm, xin tướng công tha tội cho ạ!
Vị quan thấy Chung Nhi ăn nói khiêm nhường, mặt mũi khôi
ngô tuấn tú lấy làm ưng ý. Ông liền mời Chung Nhi vào nhà rồi sai lính dọn tiệc
thết đãi.
Lúc rượu ngà say, nhìn khung cảnh rất đỗi hữu tình. Chung
Nhi sực nhớ tới bài thơ của hai người bạn đường làm khi vãn cảnh chùa, bèn rung
đùi ngâm. Từ cảnh đến người xem ra rất phong nhã. Vị quan nghe thơ hay vội gọi
tiểu thư cùng hòa vần. Quả là cuộc gặp gỡ của đôi uyên ương đã bấy lâu chờ đợi.
Giữa trăng thanh gió mát, bên cạnh người đẹp ngâm thơ lòng Chung Nhi càng hân
hoan. Tuy mấy bài thơ đều do của người khác nhưng lòng cậu cũng nhập tâm đến kỳ
lạ.
Một lúc sau, vị quan ướm hỏi Chung Nhi:
- Lão có tiện nữ đây, muốn cùng tướng sĩ gá nghĩa sắt cầm,
liệu có nên chăng, xin cho lão rõ?
Chung Nhi liền từ tốn trả lời:
- Kẻ hèn này được tướng công thương đến, đâu dám chối từ.
Hiềm vì khoa thi sắp đến, hẹn tướng công ngày công thành danh toại. Lúc ấy, tôi
sẽ trở về bái kiến tướng công.
Vị quan nở mặt nở mày, gật đầu bằng lòng. Ông càng phục
Chung Nhi là người có chí khí, không vì chuyện nhi nữ thường tình mà hỏng việc
lớn.
Còn tiểu thư Phấn Khanh e ấp, thẹn thùng:
- Dẫu năm tháng chờ đợi, thiếp mong chàng vinh quy bái
tổ. Thiếp xin được nương nhờ dưới gối.
Quả thật là:
Một phen tri kỉ gặp người.
Ba sinh chắc có duyên trời tri đây.
7. XEM BÓI
Vừa đến kinh thành, Chung Nhi tìm một căn nhà rồi xem bói
kiếm kế sinh nhai. Đúng lúc ấy hai người bạn đồng hành lúc trước bước vào. Cả
ba mừng vui khôn xiết. Hai người bảo Chung Nhi khấn cho một quẻ xem phận rồng
mây phen này thế nào. Một lúc sau, Chung Nhi lim dim bảo:
- Quẻ này thánh dậy: “Quần long vô chủ”, tất là kỳ thi
năm nay hoãn.
Thực ra, mấy ngày hôm trước có hai người quan nói chuyện
vô tình cậu nghe được. Hai người bạn nghe vậy cũng không tin lắm nhưng không
dám nói gì, còn những người khác bảo Chung Nhi nói láo.
Đúng là mấy ngày sau, có giấy niêm yết báo hoãn thi. Ai
nấy đều giật mình vì thầm nghĩ rằng Chung Nhi là bậc tiên tri. Từ đó, tiếng
lành đồn xa, ai ai cũng rủ nhau đi xem bói. Nhà Chung Nhi người ra người vào
nườm nượp.
Một hôm, quan thượng thư bộ Binh lạc mất con thiên lý mã.
Quan cứ tiếc mãi con ngựa quý nhất. Nghe đồn có thầy bói giỏi, quan gọi Chung
Nhi vào cung. Được rước vào dinh phủ quan. Quanh Chung Nhi toàn là sơn hào hải
vị, gấm vóc ấy vậy mà cậu không thấy ngon chút nào. Lòng Chung Nhi như có lửa
đốt, cậu chưa tìm được cách nào để tìm ngựa cho quan. Bất giác, Chung Nhi nhớ
đến mấy câu trong Tam Tự Kinh học hồi nhỏ, liền ngâm to cho khuây khỏa:
- “Mã ngưu dương, thử lục sức, nhân sở tự…”
Ai dè, trong phủ có tên lính hầu đã ăn trộm ngựa. Khi
nghe tin quan mời Chung Nhi vào. Hắn lo sợ nên ngày đêm cứ đến phòng Chung Nhi
nghe ngóng tình hình. Đêm hôm ấy, hắn chui xuống giường Chung Nhi nằm. Đang
nghe ngóng, hắn thấy cậu đọc vanh vách nào “mã” với “tự”. “Mã” có nghĩa là
“ngựa”, Chung Nhi hô đúng đích danh mình, rồi “tự” đúng là tên hắn. Gã sợ quá,
run lập cập, lóp ngóp bò ra khỏi giường vừa vái vừa kêu. Hắn cầu xin Chung Nhi
đừng nói tên với quan Thượng.
Chung Nhi hết sức bất ngờ nhưng vội sực nhớ ra cất cao
giọng hách dịch:
- Mày lấy trộm ngựa ngày nào, giờ nào. Bây giờ mày giấu
ngựa ở đâu nói ngay. Muốn sống thì nói ngay không tao hô to lên tất cả thì mày
chết bây giờ.
Tên ăn trộm lập cập khai hết đầu đuôi câu truyện. Hôm
sau, Chung Nhi vào hầu quan Thượng, vờ khấn khứa gieo quẻ và cứ lời tên trộm
nói mà đọc vanh vách. Quan đến tận nơi và hết sức sửng sốt khi thấy ngựa quý.
Quan thưởng cho Chung Nhi không biết bao nhiêu là vàng bạc. Và cũng từ đó,
tiếng tăm của Chung Nhi càng lừng lẫy. Ai cũng gọi Chung Nhi là Trạng bói.
8. QUÝT LÀM CAM CHỊU
Giờ đây, Chung Nhi ngày ngày được ở trong cung vua, ăn
sung mặc sướng. Bỗng một hôm, công chúa mất đôi vòng ngọc. Đôi vòng này nguyên
của vua Nhân Tôn khi bình xong nước Thủy Xa đã đem cống nạp. Đôi vòng ấy có đặc
điểm ai đeo vào khi rơi xuống nước sẽ không chìm, không cháy. Công Chúa nâng
niu chúng rất cẩn mật ấy vậy vẫn không cánh mà bay.
Nghe tiếng Trạng bói đã lâu, công chúa gọi Trạng vào để
gieo quẻ. Trạng nhận được tin mà đâm ra hoảng sợ. Trạng không còn cách nào khác
là tìm kế hoãn binh mà thôi. Chung Nhi xin nhà vua một cái lầu thật cao để xem
thiên văn trong mười lăm ngày mới có thể biết được. Công chúa làm y như lời
Chung Nhi dặn và cắt hai tên lính thị vệ túc trực ngày đêm. Đến ngày thứ mười
rồi mà Chung Nhi vẫn chưa nghĩ ra được cách gì. Hết đi ra lại đi vào, cậu thở
dài thườn thượt. Chung Nhi lo lắng tính bước cuối cùng nếu tìm không xong cậu
sẽ nhảy lầu mà chết. Cậu chỉ còn biết tự than thân trách phận tại sao mình lại
vướng vào công việc này. Trời đã khuya, Trạng vẫn còn thao thức, tay phe phẩy
quạt nghĩ mãi không ra kế gì.
Chợt Trạng phì cười, cho là cái thân tội, chưa biết chừng
vì phen này mắc vào vụ đôi vòng mà vạ lây. Trạng lảm nhảm:
- Thật là quýt làm cam chịu.
Lúc bấy giờ đúng lượt quan thị vệ là Cam phải túc trực.
Hắn vừa thò đầu lên thang chợt nghe Trạng hô đích danh mình liền sụp xuống lạy.
- Con cắn rơm cắn cỏ con xin Trạng tha cho con. Việc này
quả là do thằng Quýt nó chủ mưu. Con chỉ làm theo ý nó thôi. Con xin Trạng đừng
hô tên con vào đấy ạ!
Trạng không nín được cười nhưng quát lớn:
- Ta biết ngay mà. Ngươi biết lỗi ta sẽ tha cho nhưng
thằng Quýt ăn trộm thế nào đầu đuôi thế nào kể cho ta nghe. Ngươi dấu điều gì
thì liệu chừng, khai mau!
Nghe Trạng nói tha mạng, thằng Cam mừng quá kể vanh vách
mọi chuyện cho Trạng. Cậu vừa nghe vừa gật gù ra vẻ tâm đắc lắm.
Ngày hôm sau, trước mặt Công chúa, Chung Nhi lại gieo
quẻ. Chung Nhi cứ y lời thằng Cam nói mà phán truyền. Công chúa lấy lại được đôi
vòng mà vui mừng không sao kể xiết. Trạng đã nổi tiếng lại càng nổi tiếng.
9. ĐÁNH CỜ VỚI SỨ TÀU
Vua Tàu sai sứ giả sang nước Việt để phong vương cho vua
Thánh Tông. Tuy vậy, họ lại rất muốn thử xem nhà vua có xứng đáng vì thiên tử
hay không? Một hôm nhà vua được sứ Tàu mời đánh cờ. Nhà vua rất lo lắng liền
gọi Trạng vào để tương kế tựu kế. Trạng liền tâu:
- Bệ hạ cứ cho bày bàn cờ giữa sân rồng. Sau đó cho Trạng
cờ ăn mặc giả làm lính che lọng đứng hầu. ở trên lọng dùi một lỗ, hễ Trạng cờ
xoay lọng ánh nắng chiếu vào chỗ nào thì bệ hạ cứ nhấc quân đi vào chỗ ấy.
Nhà vua rất tâm đắc, sai lập bàn cờ. Quả nhiên, sau lần
quyết đấu ấy sứ Tàu bị dồn vào thế bí và xin chịu thua trận.
10. THỬ GỖ
Sứ Tàu vẫn hậm hực quyết phục thù trận thua cờ. Hôm sau,
sứ Tàu lấy một cây gỗ lớn ngầm sai người bào nhẵn hai đầu như nhau rồi đố vua
xem đầu nào là gốc và đầu nào là ngọn.
Vua đành chịu, gọi Trạng đến. Trạng mỉm cười tâu:
- Bệ hạ chớ lo, hạ thần đã có cách.
Đêm hôm ấy, Trạng sai mấy người phóng uế bừa bãi vào cây
gỗ. Sáng hôm sau, Trạng kêu ầm lên cây gỗ bẩn. Trạng gọi bọn lính đến bắt
khiêng gỗ ra sông rửa, dặn hễ thả gỗ xuống, thấy đầu nào chìm hơn thì đánh dấu
vào. Thế là hôm ấy nhà vua cứ điềm nhiên chỉ vào chỗ có dấu trước sự ngạc nhiên
của sứ giả nước Tàu.
11. ĐI SỨ SANG TÀU
Khi khắp nơi đã thuần phục, biên giới yên bình, nhà vua
sang sứ Tàu để củng cố mối quan hệ hai bên.
Lần này, vua cử Trạng làm chánh sứ để tạ ơn vua Tàu đã
phong vương cho mình. Trạng nghĩ bụng: “nước Tàu là nước văn hiến” mà mình thì
chữ nghĩa không nhiều. Hay là ta xin vua cho cả Trạng ăn, Trạng vật, Trạng cờ
cùng đi để hỗ trợ.
Vua chuẩn y, cử ba Trạng cùng đi theo. Tới ải Nam Quan,
lính canh Tàu không chịu mở cửa. Một lúc, họ đem ra một cái biển trên viết chữ
“thập” rồi lấy tay chỉ Đông, chỉ Tây. Trạng bực mình quay lại bảo viên phó sứ:
- Nó muốn dọc, muốn ngang thì ta khoanh một cái vòng tròn
cho nó hết đường dọc ngang.
Nói xong, Trạng sai khoanh một cái vòng lớn vào biển rồi
giơ ra. Quan coi ải giật mình, nghĩ bụng: “ta viết chữ “thập” là muốn nói: Tung
hoành vũ trụ. Thế mà xứ An Nam biết đối lại là “bao quát càn khôn”. Tài thật!
Viên quan ấy bèn ra lệnh cho mở cửa để sứ bộ nước ta vào”.
Qua cửa ải, sang đến đất Tàu, nhìn phong cảnh rất lạ,
Trạng lấy làm thích thú. Chợt đi đến quãng đồng thấy có một người con gái đang
vạch quần đái. Quỳnh chỉ tay nói đùa với phó sứ.
- Kìa! quan lớn xem: “nong tay dí bẹn đỏ hăm hăm”.
Nói xong, cùng cười ầm lên. Lệ đi sứ, hễ ông Chánh nói
câu gì thời ông phó phải ghi câu ấy. Trạng nói nôm, ông phó theo tiếng mà ghi
bằng chữ Hán, đọc chệch là “Đông Tây chí biện đỏ hân hân”, nghĩa là người miền
Đông, miền Tây đi đến Biện Kinh thấy cảnh rất vui.
Thưa! đại thần lấy tội gì mà cho hạ quan là ngạo mạn. Hạ
quan thấy biển đề rõ “kính nhị nhân”. Mà nghe cổ nhân có nói: đãi người phương
xa cốt lấy bụng thực. Tôi nghe thánh Triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc.
Thế mà người phương xa tới, đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta
nghe tiếng dẫu có thật lòng ngưỡng mộ, cũng sinh bụng nghi mà không lại nữa.
Quan Tàu thấy Trạng nói chẻ hoe như là đã biết gan ruột
họ rồi, vội vàng đáp lại rằng:
- Thôi! Xin quý Trạng xá lỗi, xá lỗi. Nghĩ là buổi đầu
mới cố thử xem có phải là bậc hiền tài không mà thôi.
Một lúc sau có hai người bê hai cỗ xôi, hai con lợn đặt
hai giường chánh sứ rồi truyền chỉ thiên triều ban yến. Hai người đầu mặc triều
phục, bái mạng xong lên ngồi ăn. Nguyên con lợn là một cỗ toàn đồ ăn còn cổ xôi
đều lấy bột giả làm hình Trạng tưởng là con lợn với cỗ xôi thực cầm dao cắt
ngang cái thủ trước. Trạng rạch ra làm đôi phang ra làm tư, lật ra bên trong
thấy đủ mùi vị lạ. Còn cỗ xôi, Trạng để lui lại dùng sau:
Các quan Tàu khen sứ An Nam ăn uống như thế thật là phải
phép rõ ràng là: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
biến hóa vô cùng”.
Ông phó sứ vốn là người có tiếng ăn khỏe. Tiệc hôm ấy có
đầy đủ các quan Tàu. Ông lại khoe sức ra oai ăn như vũ bão. Chỉ một lát, hai cỗ
xôi hết veo.
Các quan thấy thế lắc đầu thè lưỡi, xì xồ bảo nhau: “bậc
ấy trông bụng không biết chứa chất như thế nào?”, nên gọi là “Thực Nguyên
Trạng”.
Năm sau, trời hạn hán to, nhân có sứ các nước đến triều
cống. Vua Tàu nhờ các sứ lập đàn cầu đảo. Trạng bèn ra vẻ khiêm tốn nhường sức
các nước làm lễ trước. Sứ các nước thay nhau cầu đảo mà trời vẫn không mưa.
Lúc ấy, Trạng ra vườn xem cỏ gà, rễ si. Vì theo kinh
nghiệm của nhà nông ta khi nào cỏ gà lốm đốm trắng, rễ si nhú ra thì trời sắp
mưa. Hôm ấy, Trạng vào xin vua được cầu mưa. Trạng bắt phải có một cái chòi cao
mười trượng, quanh chòi bày nào la liệt ngũ phương, bát quái, lục giáp… thật
oai nghiêm, bí hiểm.
Đàn lập xong, Trạng rũ tóc, chống kiếm, lên chòi đọc một
phù chú nào là “mộc tinh”, “thâm tinh”, “mục tinh”… Nghe rất là. Những từ này
là những từ lóng trong những ngày Trạng đi mổ lợn. Cuối cùng, gió chuyển bốn bề,
trời tối sầm lại. Trạng thôi hò hét, tay cầm bát nước vẩy khắp bốn phương. Quả
nhiên, mây đen ùn ùn kéo tới. Một trận mưa như trút nước đổ tới.
Vua Tàu hết sức bái phục tài nghệ của Trạng.:
- Sứ An Nam quả là bậc phi thường chẳng những giỏi về từ
chương mà còn giỏi cả hô phong hoán vũ. Bao nhiêu tinh tú trên trời đều thuộc
làu làu. Gia Cát Lượng ngày xưa chủ giỏi thế là cùng. Vì phục Trạng tài giỏi
quá nên lưu Trạng lại dạy hoàng tử. Trạng phần thì nhớ nhà, nhớ nước, phần lại
sợ dạy học sẽ lòi cái dốt ra nên một mực xin về nước. Nhưng vua Tàu ép mãi
Trạng đành phải nhận.
Tuy vậy, Trạng lập mưu sẵn hòng thoát khỏi cảnh này.
Trạng thưa với vua:
- Học muốn chóng thành tài thì thứ nhất phải nghiêm, thứ
hai tâm phải tĩnh.
Thì trông thấy rất vui vẻ.
Khi đi qua đất Biện Kinh, quan sở tại thấy sứ đến ra
nghênh tiếp, có ý muốn lấy chữ nghĩa ra để thử. Quan ra câu đối:
- Nam Bắc lai triều dạ tể tể (người phương Nam, người
phương Bắc đến triều rất rầm rộ).
Vừa đọc khỏi miệng, Trạng quay lại bảo ông chánh sứ”
- Kìa! câu hôm nọ đâu, ngài đem ra đối đi.
Ông phó sứ cứ sẵn thế đưa ra thì quả nhiên là một câu đối
khá chỉnh. Quan Tàu thấy thế phục An Nam thần thông, có tài hiểu biết rộng.
Sang đến Yên Kinh, vào yết kiến vua Tàu. Vua rất muốn thử
sứ An Nam, ngầm sai người trang hoàng một chỗ trong cung quán rất lịch sự. Có
hai chữ “kính thiên” treo giữa nhà, đặt một đôi sập thất bảo rất cao, xung
quanh bày sang trọng lắm. Nó y như một chỗ giường ngự của thiên tử. Ngụ ý của
nhà vua xem Trạng có dám ngồi hay không?
Khi sắp đại tiệc, họ đưa Trạng và phó trạng đi xem khắp
nơi rồi mới đưa đến. Trạng tưởng chỗ ấy là để đãi mình, leo phắt lên ngồi. Ông
phó ngửa lên thấy hai chữ “kính thiên” khẽ trỏ tay bảo Trạng quay lên nhìn rồi
thủng thỉnh bảo:
- Đó chẳng phải là chỗ đợi chúng ta ngồi là gì? ngài cứ
lên đây.
Trạng dốt lên ngồi rất ung dung. Có một quan Tàu bước lại
quát mắng:
- Sao sứ An Nam dám ngỗ ngược vô lễ như vậy? Sao không
trông lên xem chỗ này là chỗ nào mà dám nhảy lên đây ngồi chễm trệ.
Trạng vẫn ôn tồn:
Vua Tàu thấy vậy gật gù nghe theo:
Trạng xin vua làm một tòa lầu rất cao để hoàng tử học cho
tĩnh. Vua bằng lòng. Ngày khai tâm, hoàng tử leo lên lầu thụ giáo. Xưa nay vốn
ở trong cung cấm, không quen leo trèo, nên hoàng tử leo được đến nửa lầu thì
mệt bở hơi tai, chỉ đứng thở dốc, quên cả chào thầy. Trạng liền lập uy nổi giận
quát to:
- “Tiên học lễ, nhi hậu học văn”. Vô lễ như thế thì còn
học hành gì.
Nói rồi Trạng cầm roi vụt cho hoàng tử một trận nên thân.
Hoàng tử bị đánh đau quá, lúc được tha lại quên lễ tạ thầy. Trạng liền quật
thêm cho một trận nữa. Quan hậu cần đi theo hoàng tử sợ xanh mặt, vội vàng cụp
xuống lạy Trạng xin tha cho hoàng tử. Lúc đó, Trạng mới thôi.
Từ đó, Trạng chỉ dạy toàn những phép tắc đứng ngồi, chào
thưa, xem xét từng ly từng tý. Hoàng tử sợ đòn về mách thái hậu. Hoàng hậu
thương con nên tâu với vua:
- Sứ An Nam xa xứ đã lâu, ý chừng nhớ nhà, nhớ nước nên
tính tình đâm ra nóng nảy, không yên tâm dạy học. Chi bằng vua cho về nước
quách đi là hơn. Nếu cứ giữ lại thì e rằng con ta sẽ ốm đòn mất.
Ngay ngày hôm sau, vua phải giáng chỉ cho Trạng về nước.
TRUYỆN BA GIAI - TÚ XUẤT
1. ẤY CHÍNH LÀ NÓ ĐẤY
Lý Sộp và Cụ Muỗm từ lâu đã nổi tiếng trong thiên hạ, đi
đâu họ cũng có nhau. Năm nay, nhân “tháng giêng là tháng ăn chơi”, Lý Sộp rủ cụ
Tổng Muỗm ra Hà Nội chơi. Họ quyết tâm đi để được nếm các hương vị chốn thị
thành. Lúc trời sẩm tối, hai cụ dắt nhau thơ thẩn ở ngã tư Cửa Nam, chưa biết
tìm vào nhà trọ nào cho tiện… Bỗng thấy có rất nhiều người lãng vảng gần đó. Lý
Sộp ghé tai nói nhỏ cụ Tổng lắng nghe họ nói chuyện:
- Đất Hà Nội này nhũng nhiễu lắm, chẳng chỗ nào là không
có bọn kẻ cắp du côn vào ra lẩn lút. ở đây, có nhà trọ Bình An gần miếu vọng
tiên là lịch sự vững chãi hơn cả. Nhà ấy nhiều thức ăn ngon lành mà giá cả rất
rẻ, chủ nhân lại vô cùng ngọt ngào, phong nhã…
Nghe thấy vậy hai cụ nhà ta lấy làm sung sướng, thích
chí. Trong lòng lâng lâng niềm vui không sao tả xiết:
- May quá, nếu không thì bà con mình đêm nay không biết
nghỉ ngơi ở đâu cho đỡ phấp phỏng, lo âu.
Hai cụ lần mò đến nơi thấy trong nhà đèn thắp sáng, mọi
thứ được trang hoàng sạch sẽ. Bên trong có một cụ bà và ba người ấy, có người
tướng mạo phong nhã, mặc áo trắng dại, khuôn mặt thông minh. Họ đoán ngay đó là
chủ nhà. Còn kẻ kia ăn mặc áo cộc quần nâu ắt hẳn là đầy tớ. Cả ba cùng bới
tóc, để đầu trần nên hai cụ biết ngay là người nhà chứ không phải là khách.
Thấy có khách, một người trong họ tên là Khóa Nhân vội
chạy ra mời chào đon đả. Cụ Tổng Muỗm vui vẻ nói:
- Chúng tôi từ xa đến đây định tìm nhà người quen để ngủ
tạm đêm nay. Nhưng chúng tôi nghe nói nhà đây cẩn thận tương đối, chủ quán lại
thật thà tử tế nên bọn lão quyết tìm đến đây.
Chủ quán đáp lại:
- Hàng nhà cháu nghiêm cẩn đã có tiếng nên bà con ai vào
một lần đều nhớ mãi.
Cụ Lý Sộp hồn nhiên nói:
- Lão có dám bước vào hàng khác đâu. Lão ở quê nghe bọn
“Ba Giai, Tú Xuất” lấy làm khiếp sợ.
- Tại sao cụ lại khiếp sợ chúng? Họ đồn bậy đó! Ba Giai,
Tú Xuất đều là bậc thánh sĩ thời nay. Chỉ vì sinh ra không gặp thời. Đường mây
lấp lối, anh hùng bó tay khiến cho ông ấy phải uất phẫn mà sinh ra ngông cuồng
rồ dại. Nghĩ thật đáng thương cho các cụ ấy! Với lại họ đối xử như vậy với bọn
hại dân hại nước chứ với bà con lương thiện như mình thì đối xử rất tử tế. Nhà
trọ gần đây thường vẫn sang tôi đánh cờ, uống rượu. Hay là tôi mời cả hai cụ
sang cho vui!
Cụ Tổng Muỗm vốn là người thích nghe chuyện lạ, nghe thấy
vậy khác nào “gãi đúng chỗ ngứa”. Cụ thích lắm. Cụ vỗ túi nói:
- Tiền mua thuốc thì khối đây! nhưng nhà mình có bàn đèn
lịch sự không?
- Được để tôi về lấy - nói đoạn, quay lại bảo tên hầu:
- Đây! tiền đây! Mày đi mau sang nhà ông Tú Xuất nhé. Bảo
ông ấy lấy hộ tao cái đèn của quan Huyện phưỡn. Rồi cầm mau. À! Nhớ gọi các cụ
ấy sang luôn đấy!
Thằng hầu “dạ” một tiếng rõ lớn rồi vội vàng chạy ra cửa.
Khóa nhãn bỗng gọi giật lại:
- Đến quan Huyện mà ăn mặc cộc lốc thế à? Cho mượn cái
khăn tao kìa…
Rồi vị chủ quán ngoảnh lại hỏi:
- Bẩm hai cụ, định dùng chè nụ ướp hoa sói?
Hai cụ luống cuống không biết thế nào vì ở quê người ta
chỉ quen dùng “chè vối” thôi. Hai cụ thấy nhà đãi mình trọng hậu như vậy bất
giác cười như tết.
Nhưng thằng hầu chạy mãi không thấy về.
Chủ nhà cứ hết đứng lại ngồi, sốt ruột đi ra cửa. Ông cau
mày nghiến răng rồi hậm hực:
- Hai cụ ngồi chờ tôi một lát nhé. Tôi phải chạy ra phố
xem hai “thằng ôn” này đi đâu?
Chủ nhà vừa chạy ra cửa… Bỗng lại trở vào… ngơ ngác nhìn
quanh một lúc:
- À! Đúng rồi… khăn mình cũng bị cái thằng “thổ tả” ấy
tha đi rồi.
Rồi chạy vào chỗ hai cụ vội vàng, hấp tấp nói:
- Thế không phải, phiền cụ cho tôi mượn cái khăn một
chút. Tôi quấn cái khăn lên đầu không thì ra đường gặp người quen thì ê quá!.
Cụ Tổng vội vàng lấy cái khăn mới trên đầu xuống đưa cho
chủ nhà. Ăn tàn từ miếng trầu này sang miếng trầu khác vẫn chưa thấy ai về cả.
Hai cụ dương cặp mắt “lỗ đáo”, vươn cái cổ “ba ba” nhìn mãi ra cửa nhưng chẳng
thấy động tĩnh gì.
Hai cụ hết nằm lại ngồi, hết thở dài rồi thở ngắn, chốc
chốc lại gắt lên:
- Ơ! Hay… quái chửa… thật kỳ lạ…
Hai cụ tức quá đập bàn quát thì có một gã thư sinh nọ gần
đấy chạy lại:
- Hai cụ cần truyền bảo gì cháu?
- Nhà này đãi khách thế hả? Miệng thơn thớt nói về ngay…
vậy mà đến giờ không thấy tăm hơi…
Cậu thư sinh vẫn bình tĩnh trả lời:
- Các cụ đưa tiền đưa khăn cho hắn à? Nếu vậy thì mất đứt
rồi… hắn không về nữa đâu.
- Không à?… Liệu hắn có dám bỏ nhà không?
- Dạ thưa! Đây là nhà cháu. Hắn chỉ là người khách trọ
thôi.
Cụ Tổng nghe xong phát hoảng!
- Ô hay! Chết chửa! Thế ra hắn không là chủ nhà. Ngươi có
biết hắn là ai không?
- Dạ! Đấy là Ba Giai, Tú Xuất- người mà hai cụ nhắc đấy ạ!
Cụ Tổng quay lại nói với nhà hàng:
- Nếu nhà bác không thông đồng với chúng thì làm sao lừa được
bọn tôi?
- Dạ! Ai có của thì phải giữ chứ làm sao nhà hàng dám
thóc mách chuyện bọn chúng để chuốc lấy thù oán à!.
Cụ Tổng đương tiếc của bỗng sực nhớ một điều, bất giác
reo to:
- À! Đúng rồi! Có cách rồi! Này, cái bàn đèn là của chúng
nó đem đến đấy chưa!
Chủ quán gật đầu:
- Phải, của thằng Ba Giai - tức thằng áo cộc đấy.
Cụ Tổng cười khà khà, vẻ đắc ý:
- Vậy thì được lắm! Ta nắm được cái chuôi của bọn mày
rồi! Cứ giữ lại cho tôi! Tôi nhờ bác giữ.
- Cụ bảo giữ lại cái gì ạ?
Cụ Tổng gắt lên:
- Lại cái gì nữa! Cái bàn đèn ấy!
- Chắc cụ lại ngủ mê rồi. Chúng có mang đèn đến thật
nhưng chỉ cho các cụ trông thoáng qua rồi lại bê đi mất. Bọn chúng chỉ trêu các
cụ để làm trò đùa thôi. Họ không phải bản tâm trục lợi đâu. Nay cụ muốn lấy lại
số đồ đó phải cho chúng một bữa chén.
- Thật ư! - Hai cụ đang ủ ê vì mất của thấy thế tỉnh
ngay.
Thế là hai cụ đành theo tên chủ quán đi tìm những tên kẻ
cắp để thương lượng. Cả ba đến một ngôi nhà, ngoài cửa quét vôi, trong thắp đèn
sáng, dưới ánh đèn lúc nhúc một đám đông gồm thổ mẹ, thổ con… đang ngồi.
Cụ Tổng trông thấy cảnh ấy càng ghê rợn hơn. Cả ba còn
ngơ ngác thì tên chủ quán gọi:
- Anh chị em ơi! Mau ra khiêng con lợn béo muỗm!
Đàn quỷ reo ầm lên và kéo ra cửa. Cả hai cụ hồn bay phách
lạc ù té chạy bán sống bán chết.
Hóa ra sau hai cụ mới biết rằng cái tên chủ quán trọ ấy
là Ba Giai, còn hai người trước chỉ là thầy trò Tú Xuất. Sau vụ ấy, hai cụ chừa
đến già không lên Hà Nội nữa.
2. BA GIAI BẮT BẠC
Tiếng đồn gần xa nghe nói rằng ở phủ Hoài Đức có một sòng
bạc rất lớn. Ba Giai và Tú Xuất liền tụ tập mấy tay anh em lại, kéo tới cùng
tham dự. Tú Xuất bảo lũ đàn em ki cóp tất cả vốn liếng còn lại cho mình rồi kéo
đi. Thế là Tú Xuất oai phong, bệ vệ đi trước kéo theo một đoàn đệ tử “xách
điếu” theo sau. Tú Xuất tự xưng là cậu ấm con ông án ở làng Đồng. Mấy tay chủ
sòng bạc thấy vậy liền mời cậu ấm ngồi lên sập cao nhất.
Cậu ấm ngồi xem rất say sưa rồi sau một tuần trà cậu đặt
thật lớn, một tiếng mấy trăm. Nhưng một lúc sau ở ngoài có chuyện xảy ra. Lũ
lính lệ từ đâu chui ra cùng quan phủ mặt đằng đằng sát khí tiến vào. Thế là
hết. Sòng bạc bị bể. Quan quân kéo đến, thế là cả sòng bạc như ong vỡ tổ, mạnh
ai người nấy chạy. Mọi người chạy toán loạn để thoát thân bỏ lại số tiền bạc
còn nằm ngổn ngang trên chiếu.
Trong lúc hỗn loạn ấy, vị quan thét lớn:
Bắt lấy tên chủ nhà và thu mọi tang vật cho ta!
Tay chủ sòng bạc nhanh chân chạy thoát còn vợ y thì bị
lọt vào tay lính lệ. Thị bị trói tay lại, miệng không ngớt kêu khóc thảm
thương. Thị lạy lục xin quan trên nhận mấy chục nén bạc rồi tha cho.
Vị quan phủ mặt lạnh tanh không nhận nhưng sau thấy mẹ
chồng già nua sụp lạy kêu van bèn nhận số tiền. Quan sai bọn lính thu gom tất
cả tiền bạc trên chiếu về làm tang chứng!
Sau khi mọi người đi hết tiếng quân lính đã khuất dần thì
các viên chức trong xã mới bảo nhau:
- Sao quan xã mà không báo cho lý dịch hay?
Mọi người bắt đầu xôn xao:
- Có phải quan không? Hay thằng nào giả mạo lừa chúng ta
trong lúc thần hồn nát thần tính mà không phân biệt được thật hay giả. Ai cũng
đặt ra mọi giả thiết. Rồi sáng hôm sau, viên lý trưởng lên phủ xin gặp quan để
mật trình sự thể. Đến giờ phút này thì mọi người mới vỡ lẽ ra rằng. Từ ngày
nhận chức đến nay, quan chưa hề đem lính đi bắt bạc lần nào.
Sau này mọi người mới hay rằng cậu ấm tự xưng là quan án
Sát ở Hàng Đồng không ai khác ngoài Tú Xuất, còn viên quan phủ đích thị là Ba
Giai. Nhưng than ôi, lúc này thì sự đã rồi!
3. MỜI CÁC ÔNG ĐI CHO
Hôm ấy, Ba Giai, Tú Xuất đang thong dong đi trên đường
thì gặp ngay một đám thò lò, kẻ đánh người xem xúm xít cả vòng trong vòng
ngoài. Trong người sẵn có tính máu mê cờ bạc, Tú Xuất bảo Ba Giai:
- Anh có đồng nào không? Ta đánh vài ván cho vui…
Nghe Tú Xuất nói bùi bùi tai, Ba Giai liền móc túi đếm đi
đếm lại chỉ còn vài chục bạc:
- Đây chỉ còn vài chục bạc để ăn trưa. Nhỡ đánh thua cả
lấy gì nhét vào bụng.
- Anh cứ đưa tôi đánh!… chưa nói dứt lời Tú Xuất đã giật
túi tiền trong tay Ba Giai rồi nhảy vào sòng bạc.
Đánh chừng vài phút thì mất toi mấy chục bạc. Hết lần này
qua lần khác mà Tú Xuất vẫn không thể lấy lại được đồng nào.
Trắng tay, Tú Xuất lách ra ngoài giương mắt nhìn Ba Giai.
- Thế nào? Được hay thua?
- Trắng tay rồi… hôm nay đen đủi quá. Nói xong, cậu kéo
tay Ba Giai đi.
Ba Giai thấy vậy thở dài, tiếc rẻ. Thế là toi mất bữa cơm
tối nay. Vừa đi Ba Giai vừa bàn.
Càng đi hai cậu lại càng thấy đói. Cơn đói mỗi lúc một
cồn cào hơn. Không thể bước tiếp được nữa thì thấy trước mặt có hai cô gái đang
tát nước dưới ruộng. Hai cậu mắt sáng lên khi thấy giỏ cơm để ở góc ruộng.
Tú Xuất liền kéo Ba Giai:
- Ta đi xuống đây tí đã.
Ba Giai chẳng hiểu Tú Xuất định giở trò gì nhưng cũng vén
quần theo:
Hai cô ả, mỗi người cầm hai đầu dây, rún ra rún rẩy không
thể tát nổi nước trước bốn con mắt của hai người đàn ông. Tuy vậy, hai cô vẫn
vờ như không thấy sự hiện diện của hai người và đang tiếp tục tát nước, miệng
cười nói bô bô.
Bỗng Tú Xuất cười to nói:
- Chà! Tôi trông thấy các cô tát nước thế ni thì thực là
chạng quá! Chạng quá!.
Hai cô nghe Tú Xuất trọ trẹ tiếng xứ Nghệ cứ ngây ra, cô
nọ hỏi cô kia rũ ra cười…
Hai cô ả liền ngừng tay, một cô đánh liều hỏi Bs Giai:
- Thế ông kia nói gì thế hả ông?
- À! Ông ấy bảo hai cô tát nước chán quá! Chán quá!
Cô gái tròn xoe mắt:
- Thế các ông tát thế nào thì không chán?
- Chúng tôi mà tát nước thì ruộng đình trên tràn xuống
ruộng dưới.
- Thế các ông ở đâu về chứ!
- Chúng tôi ở vùng Nghệ An - Hà Tĩnh.
Hai cô nhìn nhau mỉm cười, họ hiểu ý, định lợi dụng chàng
trai tát nước một lúc cho đỡ mệt:
- Vậy các ông thử tát nước cho chị em chúng tôi xem một
tý.
Tú Xuất quay lại Ba Giai, nhăn nhó nhìn… Ba Giai hiểu ý…
bèn nhận lời:
- Khổ lắm anh em cũng muốn tát giúp hai cô nhưng ngặt nỗi
là từ sáng đến giờ chưa có hạt cơm nào vào bụng. Anh em! Đói quá giúp cô được.
Hai cô bằng lòng vậy. Chúng tôi mà tát nước thì chỉ dập một miếng trầu là ruộng
trên tràn ruộng dưới.
Hai cô ả nghe nói vậy nghe bùi tai thì thào bảo:
- Hay là ta để cho hai ông ăn cơm của chúng ta rồi các
ông ấy giúp cho một lúc.
Cô kia thấy vậy mắt sáng long lanh:
- Ừ! Thì chị nói với ông ấy đi, tát hộ cho chúng ta xong
rồi chúng ta về nhà cho ăn cơm cũng được.
Tú Xuất thấy vậy làm bộ mặt nhăn nhó:
- Khổ lắm! Mần rứa coi răng được.
- Thôi anh em tôi ra hàng rồi chốc nữa sẽ quay lại vậy!
- Hai ông ạ! Sẵn có cơm đây thì hai ông cứ dùng. Ở đây
cách làng xa không có quán sá gì đâu. Các ông đừng ngại.
Ba Giai quay lại từ tốn bảo Tú Xuất:
- Họ nói vậy thì chúng ta ăn cơm đi. Sau đó anh em mình
sẽ tát hộ cho các cô một lúc.
Hai cô ả nghe thế mừng lắm, nói cười tíu tít rồi một cô
chạy ngay lên bờ lấy giỏ cơm và gói tôm rang ra mời khách. Sau khi ăn uống no
nê, Tú Xuất vỗ bụng bảo:
- Nào! Hai anh em xuống tát nước cho hai cô rồi không lại
muộn.
Nói xong cả hai cùng xắn quần, xắn áo lội ngay xuống
ruộng. Còn hai cô đứng trên bờ mắt nhìn chăm chú xem hai chàng thể hiện tài tát
nước như thế nào.
Tú Xuất vội vớ ngay chiếc gầu, tháo dây ra rồi bắt đầu
múc nước đưa cho Ba Giai đổ sang ruộng bên kia. Chiếc gàu mỏng manh quá, méo
xệch đi bẹp dúm.
- Hai cô ả thấy vậy giẫy nảy lên mắng um sùm:
- Trời là đất ơi! Các ông làm bẹp gàu chúng tôi rồi! Ai
lại tát nước thế này!
Nói vừa xong, chiếc gàu đã đứt cả cạp vành, bẹp dúm dó,
trông đến là thảm hại.
Nhìn thấy vậy hai cô nổi nóng nói:
- Thôi! Các ông để đấy! Làm nát cả gàu người ta rồi:
Tú Xuất chỉ chờ có vậy liền dừng tay, quăng chiếc gàu
xuống nổi lênh đênh rồi than vãn:
- Khổ quá! Gàu chi mà yếu! Tát chưa xong thì gàu đã bẹp.
Thế là hai cậu liền rửa tay chân sạch sẽ rồi chuồn thẳng.
Vừa đi hai cậu vừa ôm nhau cười đầy sảng khoái và no đủ.
4. MUA CHIM XANH
Tuy đã lừa lọc, chu du khắp mọi nơi trên đất nước nhưng
Tú Xuất lại rất yêu thích những người phụ nữ dịu dàng. Chính vì thế, Tú Xuất
ghét cay ghét đắng những người đàn bà chua ngoa, đanh đá. Một hôm, Tú Xuất tìm
đến một cô hàng bán chim xanh ở chợ quê. Cô này nổi tiếng lắm lời cả vùng ai
cũng biết. Ngay cả những người buôn bán ở quanh đó ngán không để đâu cho hết.
Họ cầu trời khấn phật cho có người nào tát ả một trận cho bõ ghét.
Tú Xuất nghe vậy muốn thử xem. Ông đến chọn mua chim và
nhờ chọn cho một đôi thật béo. Cô hàng đưa cho. Ông gật đầu, bảo cô cầm giúp để
chọn mua cặp nữa. Ông lại đưa cặp này cho cô hàng cầm. Rồi cứ thế cầm mãi, cầm
mãi. Cô hàng lấy tay trái cầm chim, tay phải cầm chim, tất cả cứ cuống cuồng cả
lên. Tú Xuất bèn giở giọng:
- Chim của cô béo quá. Còn con chim nào nữa tôi mua,
chẳng biết có béo không? Để tôi xem mới được.
Vừa nói Tú Xuất vừa rờ rẫm khắp người cô ả trước mặt bàn
dân thiên hạ. Cô hàng thét lên định chạy nhưng không dám vì sợ sổ mất chim mà
sổ mất thì không được trả tiền. Thành ra, cô ả cứ đành chín dừ mặt lên xấu hổ
trong tiếng vỗ tay của mọi người chung quanh.
Trong cuộc đời Tú Xuất, người ta nói rất nhiều đến các vụ
làm bao cô phải ê chề. Nhưng quả không sai bởi họ là những kẻ chua ngoa, đanh
đá.
Hồi đó, nhà vua mở khoa thi. Các sĩ tử khắp nơi kéo về
tranh tài thành thử chung quanh trường thi hàng quán mọc lên vô kể. Quán nào
cũng lên giá nhưng rất đắt hàng. Ở đây, có một người nổi tiếng đanh đá lắm
điều, tên là Tư Su. Không một ai dám động đến sọ mụ vắt róc, điếc tai.
Biết thế, Tú Xuất bèn trọ ở nhà bên cạnh và quyết tâm sẽ
chọc mụ đến cùng mới thôi. Tú Xuất đi đi lại lại trước cửa nhà mụ. Rình đúng
lúc các sĩ tử kéo đông vào quán mụ để trọ. Tú Xuất nhìn thẳng vào mặt Tư Su
chửi một câu thật to.
Bỗng dưng không làm gì lại bị chửi, mụ không kìm được
phẫn nộ tốc váy lên chửi Tú Xuất bằng mọi danh từ đặt thành vè nghe trầm bổng,
vần điệu rất hay. Mụ xông ra đòi đánh Tú Xuất, cậu co giò chạy. Khi bộ mặt tươi
cười của mụ đang mời chào khách thì Tú Xuất lại dẫn xác đến hống hách chửi mấy
câu. Thế là mụ chủ quán nổi cơn tam bành nhảy chồm chồm, vỗ đôm đốp khiến bao
người khiếp sợ.
Thế là bao nhiêu sĩ tử đều lảng đi nơi khác để tìm nhà
trọ. Và kết cục nhà mụ Tư Su chẳng có ma nào vào. Mụ càng tức, bỏ cả ngày ra
chửi tam đại Tú Xuất nhưng hắn có nghe đâu. Vì tai Tú Xuất bịt bông và chuồn đi
mất. Đợi cho lúc mụ chửi mỏi miệng, vừa ngồi im để nghỉ xả hơi thì Tú xuất hiện
chửi mụ. Thế là mụ chửi ngày, chửi đêm đinh tai nhức óc.
Chẳng có ai vào hàng mụ cả, Tư Su mệt quá nằm thẳng cẳng
như chết rồi. Tú Xuất không vì thế mà thôi. Sáng hôm sau mụ vừa dậy, Tú Xuất
lại làm cái bài hôm trước làm mụ khan cả giọng.
Cuối cùng thì mụ Tư Su cũng phải đem rượu chè sang giảng
hòa với Tú Xuất. Mụ xin Tú Xuất để mụ còn cơ hội làm ăn lấy tiền nuôi chồng
con.
TRUYỆN XIỂN BỘT
1. XIỂN LÀM NHÀ
Đã từ lâu, Xiển ao ước gia đình mình có một căn nhà bé
nhỏ, xinh xinh. Chính vì vậy, khi nghe tin vùng Yên Lược thuộc huyện Thọ Xuân
gồm rừng núi chưa có ai khai phá. Xiển hý hửng đem cả gia đình di cư từ quê lên
vùng đất mới.
Tuy vậy, ở đâu cũng có bọn cường hào, có tục lệ nhiêu
khê, Xiển phải chạy vạy lo liệu khắp nơi. Xiển mất một bữa rượu xin làng cho
trú ngụ, một mâm chầu rượu xin làng mở mảnh đất lấy chỗ làm ăn. Nhưng mọi việc
không dễ dàng gì. Lý trưởng đánh trống họp làng thực ra làng chỉ là bọn chức
sắc, cường hào mà thôi.
Suốt ngày, Xiển bị lão này đến lão khác hạch họe đủ điều.
Xiển nhiều lần căm lắm nhưng không thể làm cách nào cho hả giận. Lần thứ hai
mang rượu vào hầu, Xiển thấy đông đủ toàn bộ chức sắc trong làng. Xiển gãi đầu
thưa:
- Dạ, trình các cụ, con mới đến đây, ơn nhờ các cụ cho ở
để hầu hạ nhưng con chưa có nhà cửa gì. Vậy con muốn xin miếng đất đầu làng chó
ỉa, nhờ các cụ soi xét cho vợ chồng con được nhờ à!
Tay Lý trưởng ngửi ngay thấy rượu thì mắt cười híp lại,
liền nói:
- Tưởng gì chứ miếng đất chó ỉa đầu làng ấy thì được. Nào
xin mời các cụ nâng chén đi thôi.
2. MÓN CỨT SỐT
Xiển nghèo lắm, mọi thứ trong gia đình đều chật vật lo
từng bữa. Lại là dân ngụ cư, Xiển bị bọn chức sắc trong làng hạch họe đủ đường.
Xiển căm lắm.
Một hôm, các cụ đang họp bàn việc làm, bù khú no nê rượu
vào, lời ra, cãi nhau ỏm tỏi. Xiển thấy thế, Xiển bê một nồi đất vỡ đựng nước
đái và phân người lên chỗ đầu gió, bắc bếp vừa đun vừa khuấy. Tất cả mùi xú uế
theo gió thổi bay đến mũi các cụ. Chịu không nổi, có người chạy ra xem, quát
inh ỏi, Xiển thấy vậy phân bua:
- Bẩm các cụ, nhà có chó đẻ. Ổ chó con bỗng giở chứng đòi
ăn cứt sốt. Vì vậy con bây giờ phải tranh thủ nấu cho chúng một ít.
Lý trưởng thấy vậy trừng mắt quát:
- Sao mày biết chó con đòi ăn cứt sốt?
Xiển điềm nhiên:
- Bẩm các cụ! Tục ngữ có câu: “lâu nhâu như chó ăn cứt
sốt”. Vì thế, con mới nấu món cứt sốt cho “chúng nó” ăn ạ!
3.CHỮA BỆNH CHO NHÀ GIÀU
Ở làng Xiển, có một gia đình nổi tiếng giàu có nhất trong
vùng. Vì sung sướng quá nên thân thể lão trọc phú đâm to béo ục ịch. Hằng ngày,
y ăn thịt cá quá nhiều nên sinh ra chướng đầy hơi, khó tiêu, lúc nào bụng cũng
ì ạch. Hắn nghe mọi người trong làng bảo rằng Xiển Bột có tài chữa bệnh như
thần. Hắn hối hả mời Xiển đến. Xiển điềm nhiên hỏi:
- Một bữa ông ăn được mấy bát?
- Thưa thầy, chỉ mỗi hai bát ạ!
- Vậy ngày ông ăn mấy bữa?
- Dạ… dạ chỉ có năm bữa?
Xiển mỉm cười hỏi tiếp:
- Có ăn thịt bò, thịt gà không?
- Có chứ ạ! Nhưng tôi ăn không thấy ngon miệng gì cả.
- Được rồi! Ta hiểu loại bệnh này rồi. Sáng mai, hãy đem
tiền đến nhà ta rồi lấy thuốc nhé! Thuốc hết ba quan, uống trong mười ngày.
Chiều hôm ấy, Xiển lấy cám rang trộn với mật, viên lại
thành ba chục viên rồi phơi khô cho vào lọ.
Khi anh nhà giàu đến, Xiển đưa thuốc rồi dặn:
- Mỗi ngày uống ba viên. Uống liền trong mười ngày. Nhưng
trong khi uống phải kiêng mọi thứ, chỉ được húp cháo hoa loãng. Nếu làm sai
bệnh sẽ không khỏi đâu. Hết thuốc đến xem lại.
Cậu học trò từ nãy giờ đứng nhìn tò mò hỏi Xiển, cậu ung
dung đáp:
- Cám trộn mật chỉ đáng một tiền nhưng chữa cho đúng thì
phải đáng ba quan đấy. Cậu vẫn chưa hết thắc mắc:
- Nhưng đấy là bệnh gì mà ta lại trị bằng cám rang bột
thế ạ?
Xiển cười ha hả:
- Bọn chúng chẳng qua ăn nhiều, làm ít sinh ra đầy bụng.
Chỉ cần húp cháo hoa mười ngày là khỏi thôi.
Quả là mười ngày sau, lão trọc phú hết bệnh. Lão cứ khen
nức nở thầy Xiển mãi.
5. BỠN LÝ TRƯỞNG
Làng Xiển ở đứng đầu là một tên Lý trưởng nổi tiếng về
tài keo kiệt và tham lam. Đã thế, lão còn có vẻ ta đây hách dịch, ta đây lắm
chữ. Trước đây y có đi thi vài khóa nhưng đều trượt vỏ chuối cả. Nhưng khi về
làng, chạy vạy cho quan trên y lót cho mình cái chức Lý trưởng. Lão lấy cô vợ
rất trẻ, xinh đẹp nên rất sợ vợ.
Có hôm, vợ ốm mấy ngày liền không khỏi, y phải đến Xiển
xin thuốc. Nghe y kể bệnh, Xiển biết vợ y chỉ bị cảm hàn không có gì nặng.
Nhưng biết tính y hay sợ vợ nên Xiển nảy ra ý định:
- Ôi! Bệnh bà nhà khéo nguy mất.
Y thấy vậy mếu máo:
- Con lạy cụ, cụ giúp cho, cụ cần thuốc gì con xin chạy
lo đủ.
Xiển ra vẻ trầm tư nói:
- Thế này! Vị thuốc chữa bệnh của bà Lý thực tình tôi chỉ
còn ba thang thôi. Nó quý lắm, tôi giữ đã lâu, ai xin cũng không cho. Ông là
người nhiều chữ, tôi ra một vế đối. Nếu ông đối được tôi sẽ chữa cho bà Lý!
Lý trưởng thấy vậy kinh hãi nói:
- Bẩm cụ! Chữ nghĩa tôi được mấy hột mà cứu bệnh như cứu
hoả, xin cụ xét cho.
Xiển lắc đầu buồn bã:
- Vậy là bà Lý đã đến số rồi… thôi, ông về đi.
Lý trưởng hoảng hốt:
- Không, thưa cụ. Vậy cụ hãy ra vế đối đi.
Xiển bắt đầu đọc:
- Quyền rơm rạ đá long linh địa
Lý trưởng biết Xiển nói xỏ mình nhưng đành nghĩ cách đối
lại. Nhưng câu đối khó quá, lão vò đầu bứt tai mãi mới tìm ra được vế đối:
- Đít thớt đầu chày được thiện hóa thiên.
Xiển thấy câu đối chỉnh và đúng với hoàn cảnh anh Lý
trưởng nên bảo:
- Ông đối khá đấy. Vậy là số vợ ông chưa chết đâu. Hãy
cầm thuốc về đi, nhớ cho bà nhà uống như trong đơn thuốc.
Lý trưởng cầm bọc thuốc mừng mừng tủi tủi vội vàng chạy
về nhà như một cơn lốc.
6. ĐÁNH TRỐNG CẤM
Một thời gian sau, mẹ Xiển qua đời. Xiển Bột đã nghèo lại
càng nghèo hơn. Xiển phải đi ở cho một lão Chánh Tổng. Tên này, đang học làm
sang nên rất ta đây. Hắn luôn bắt Xiển cắp một cái tráp đi sau theo hầu.
Một lần đi theo hầu, họ đi đến một làng nọ, vì quá mỏi
chân Chánh tổng ghé vào đình nghỉ. Giữa đình có treo một chiếc trống rõ to.
Trên trống đề hai chữ: “trống cấm”, xung quanh họ cũng có rất nhiều người vào
nghỉ chân. Xiển Bột bỗng thốt lên:
- Có ai dám thách tôi đánh trống không?
Có một anh nhà giàu ngồi trong nghe Xiển nói quắc mắc
sáng long lanh:
- Đến cụ cố nhà mày cũng không dám đụng đến trống chứ không
phải là mày. Có giỏi thì đánh đi, tao cho mày năm chục quan tiền.
Xiển lắc đầu:
- Năm chục chẳng bõ.
Anh nhà giàu thấy vậy càng hăng máu hơn. Anh ta khoát tay
lên bảo:
- Trăm quan, ưng chưa?
Xiển vui vẻ nhận lời. Hai bên làm giấy giao kèo có sự
chứng giám của tất cả mọi người. Còn Xiển, nếu Xiển thua phải chấp nhận làm
không công cho anh nhà giàu.
Mọi việc xong xuôi, Xiển Bột lấy dùi, bắc thang trèo lên
đánh đủ ba hồi trống. Tiếng trống vang xa, rõ mồn một, cả làng ai cũng nghe
thấy. Theo đúng giao kèo, người kia phải trả cho Xiển đúng một trăm quan tiền.
Vừa nhận xong, Xiển thấy mọi người đã kéo chật cả sân đình. Lý trưởng hầm hầm
rẽ đám đông đi vào, Xiển vái chào Lý trưởng rồi chắp tay ôn tồn nói:
- Tôi là khách qua đường, thấy đình làng tôn nghiêm đẹp
đẽ, muốn ghóp chút công quả vào việc trông nom, sửa chữa sau này. Hiềm vì chẳng
biết cách nào để gặp tôn ông thành thử mới làm liều đánh trống. Xin tôn ông
nhận cho số tiền này.
Nói chưa dứt lời, Xiển chồng năm chục quan tiền trước mặt
Lý trưởng . Tất cả mọi người ở sân đình đều tròn mắt ngạc nhiên hết nhìn Xiển
lại nhìn số tiền. Họ xì xồ, chỉ trỏ rất lạ lẫm.
Còn Lý trưởng, nhìn thấy tiền hắn hớn hở:
- Ồ! Cảm ơn quý ngài, dân làng chúng tôi có phước quá.
Xiển Bột mở tay lấy ra năm mươi quan tiền còn lại bỏ vào
túi mình. Mặt cậu thản nhiên như chưa hề xảy ra chuyện gì. Còn tên nhà giàu
nhìn thấy vậy, miệng há hốc, không thốt nổi lên lời nào.
Xiển Bột ung dung có một số tiền lớn hí hửng cùng Chánh
tổng lên đường.
7. BỠN THẦY CỬ
Sáng hôm ấy, Xiển đi chợ Ba Đồn gặp thầy cử làng Di Luân
đang tán tỉnh cô Bình là kỹ sư quê làng Thổ Ngõa. Thầy cử đã già, thuộc vào bậc
trên của Xiển lại bị bắt gặp đang cợt nhả. Lão ngại ngùng đánh trống lảng vờ
hỏi:
- Chú em! Dạo này có làm được bài thơ nào không đọc lên
nghe thử coi.
- Dạ thưa thầy cử! Lâu nay con không nảy ra tứ thơ thành
thử ít làm. Song thầy đã hỏi, em xin phép hiến thầy mấy vần tức cảnh:
- Hay lắm, đọc nghe coi!
Xiển cao giọng:
- “Thầy cử Di Luân- cô Bình Thổ Ngõa.
Hai bên gặp gỡ tình cờ -
một quán chuyện trò thong thả”.
Thầy cứ khen tấm tắc: Hay!
Xiển tiếp luôn:
Khăn tay hồng đỏ chói,
vắt lên che hàm râu đen kịt
Quần lãnh bưởi làng Xầy,
thả xuống phủ bộ
vế trắng bong.
Lúc này thì thầy cử đỏ mặt tía tai, đứng dậy quát:
- Khăn tay đối với quần lãnh, hàm râu đen kịt đối với bộ
vế trắng bong. Sao anh xấc xược?
Hai người to tiếng, cô Bình nhảy ra can ngăn mãi. Thầy cử
mặt hầm hầm, vắt áo lên vai đi ra khỏi Quán. Còn Xiển ngồi cười tủm tỉm.
8. PHẬT CŨNG CÓ ĐÔI
Ở làng Xiển có hai ngôi chùa thờ Phật nghe nói rất linh
thiêng. Mọi người khắp nơi đều đổ về cúng bái, đốt vàng mã. Suốt ngày chùa nghi
nghút khói hương bởi những kẻ mê tín. Xiển thấy chuyện này thì không ưa chút
nào.
Sắp đến ngày mồng tám tháng tư, khi màn đêm buông xuống,
Xiển len lén đưa bức tượng chùa nọ sang chùa kia. Rồi Xiển ghé lại thành đôi
một: một ông phật, một bà phật, lại gài vào tượng một bản hôn thú nữa.
Ngày hôm sau, dân làng đi lễ thấy thế tức lắm, làm đơn
kiện lên quan. Quan mở tang vật ra xem, nhìn tờ hôn thú nhận ra chữ Xiển liền
gọi lên.
Quan đập bàn hỏi:
- Tại sao ngươi dám nhạo báng cả thần phật thế hả? ngươi
có biết thế là phạm tội gì không?
Xiển bình tĩnh thưa:
- Dạ bẩm quan, muôn vật trên đời này đều phải có lứa có
đôi mới có thể tồn tại được. Nếu không làm vậy thì làm sao có phật ra đời ngày
tám tháng tư. Vì con nghĩ thế mới xin phép được ghép đôi phật ông với phật bà.
Đó là hợp lẽ trời đấy ạ. Quan trên thấy thế có đúng không?
Quan ngồi ngẫm một lúc, nghĩ thấy cũng có cái lý của nó.
Ông gật gù không biết xử lý thế nào. Quan chỉ trách mắng Xiển Bột một lúc rồi
đành cho Xiển về nhà.
9. LỠM BÀ BANG
Bà Bang vốn là còn gái làng Bồi. Từ lâu, khi chưa lấy ông
Bang, bà đã nổi danh tài sắc và đa tình. Khắp mọi nơi, không ai là không biết
tiếng bà. Trước khi lấy quan Bang, bà đã bỏ hai ba đời chồng. Và thật may mắn,
sau khi lấy được một năm, ông Bang già về chầu trời để lại cho bà một gia tài
kếch sù.
Bà Bang vốn là người phô trương nên dọn về làng khoe mẽ
sự giàu có của mình. Bà đến người hay chữ nhất trong làng để xin chữ về treo.
Xiển lấy ngay giấy bút viết ngay hai chữ “đại dĩ” thật to
rồi đem tặng cho bà Bang. Xiển say sưa giải thích hai chữ này:
- Người đàn bà có phúc lấy được chồng quan giàu sang.
Bà Bang mừng lắm đem về treo ngay giữa nhà. Bà cứ nhìn
lên hai chữ mà tự đắc. Người làng thấy thế càng ghét bà Bang hơn và không phục
Xiển. Một hôm, có người hỏi Xiển:
- Bẩm cụ! Bà Bang tính tình lẳng lơ như thế mà cụ lại cho
hai chữ “đại dĩ” thì thật quá quắt!
Xiển thấy vậy cười khoái chí:
- Có gì mà quá. Đại dĩ là đĩ dại chả đúng là gì.
Nghe Xiển nói, dân làng mới vỡ lẽ. Họ ôm bụng cười sung
sướng. Còn bà Bang nghe được, vội vàng hạ ngay hai chữ xuống và từ đó mụ không
còn dám vênh vang nữa.
10. QUAN THANH TRA
Xiển hôm nay ghé thăm quê cũ, qua dinh Tổng Đốc Thanh
Hóa. Bỗng từ xa, Xiển nghe thấy tiếng đàn hát văng vẳng bên tai, nghĩ bụng:
“Nhà vua mới chết mấy tháng nay, việc nước đang rối ren thế mà lão này dám mở
nhạc đàn hát vui tươi. Mình phải trị cho bõ một trận mới được”.
Xiển gõ cửa nhà người lính gác cổng bẩm quan Tổng đốc có
học trò nghèo xin ít tiền bố thí. Đang còn lúc cao hứng Tổng đốc liền đòi vào
hầu. Lão bắt Xiển phải làm một bài thơ xem có thực là học trò không. Trò chắp
tay:
- Dạ thưa, con có thói quen là hễ tửu có nhập thì mới
xuất được xin quan lớn rộng lượng cho.
Tổng đốc sai mang ra một be rượu, một tờ giấy và nghiên
bút. Xiển ngồi rung đùi, uống hết cả be rượu mới viết bốn chữ: “ô hô! ô hô”
uống hết be thứ hai. Xiển viết thêm ba chữ “ô chữ thiên” rồi xin thêm rượu.
Tổng đốc nổi cáu:
- Mày làm được mấy câu rồi mà đòi rượu?
Xiển vờ sợ sệt:
- Dạ bẩm mới được một câu ạ!
Tổng đốc đòi xem, xem xong quát lớn:
- Thơ với chả thẩn. Liệu hồn! Tao cho thêm một be nữa mà
làm không xong thì đừng có trách.
Xiển ung dung uống be thứ ba, cắm đầu một mạch ba câu thơ
tiếp thành một bài thơ tứ tuyệt:
Ô hô! ô hô! Ô hô
thiên!
Hoàng đế băng hà vị
bán niên.
Thảo mộc quần sinh
giai tự khuất.
Thanh Châu đô đốc
xướng ca huyên.
Quan Tổng
đốc nghe mà tái cả mặt. Y bắt đầu run, Y tưởng Xiển là quan thanh tra của triều
đình Huế. Ngụ ý của mấy câu thơ như là kết tội. Quan Tổng đốc liền quỳ rạp
xuống lạy như tế sao. Xiển cố nhịn cười sai lính nọc Tổng đốc cóc ra đánh một
trận roi.
Các quan
trong làng, trong huyện nghe nói có quan thanh tra của triều đình tới lục đục
kéo nhau ra hầu. Các quan hỏi han tình hình triều đình ra sao. Xiển không trả
lời chỉ viết vào giấy hai câu thơ:
Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết.
Nhị nguyệt tam vương triệu bất tường.
Xong xuôi Xiển lẳng lặng ra đi. Các quan nhìn theo, ai
cũng lắc đầu thè lưỡi.
11. VẢ MỒM QUAN HUYỆN
Bấy giờ có một viên quan huyện hay nịnh hót cấp trên để
chóng được thăng chức. Một trong những quan trên mà hắn thường nịnh bợ đỡ là án
sát Nguyễn văn Tiêu, tức Án Tiêu. Muốn lấy lóng Án Tiêu, hắn ra lệnh cho dân
làng huyện không ai được nói tiếng “tiêu”. Hễ có ai trái lệnh, phạm húy thì
được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình nộp cho quan. Lệnh này
khiến cho dân chúng rất tức giận nhưng không làm gì được.
Một hôm, Xiển đem một ít quần áo rách mướp, tiều tuỵ xin
vào hầu quan. Quan trên hỏi, Xiển thưa vì nhà nghèo quá, gia tài chỉ có một ít
quần áo rách. Xiển xin quan cầm hộ để có chút tiền mưu sinh. Quan nghe xong,
nổi giận lôi đình, thét mắng đùng đùng. Xưa nay kẻ nào to gan dám bán quần áo
rách cho quan bao giờ.
Một lúc sau, khi quan nguôi giận, Xiển bẩm:
- Thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này,
không có gì cũng mang danh người quân tử.
Quan bực mình quát:
- Quân tử gì mày! Đồ quân tử cùng, quân tử cố.
Xiển ôn tồn:
- Dạ! Khổng Minh túng Khổng Minh cầm ạ!
Nghe câu nói của Xiển quan ngẫm nghĩ thấy hay. Nó trở
thành câu đối hay tuyệt. Quan phục tài Xiển, thưởng cho quan tiền nhưng lại
chọn quan tiền chôn dấu lâu ngày bị han rỉ hết cả. Xiển cầm lấy quan tiền dằn
mạnh xuống đất, tiếng kêu nghe cành cạch rồi nói:
- Bẩm quan, tiền không ớt ạ!
Quan hùng hổ mắng:
- Mày điên à! Tiền này mà không “tiêu” được ư?
Chờ có thế Xiển lại vả cho quan ba cái vào mồm như trời
giáng. Quan hô lính trói lại, Xiển ngăn:
- Chắc ngài chưa quên cái lệnh kiêng tên húy của quan Án
do ngài mới ban ra. Tôi làm vậy chỉ là thi hành cái lệnh của ngài thôi. Quan sợ
bọn lính biết chuyện thì mình càng thêm xấu hổ. Quan vội vàng đuổi Xiển ra
ngoài.
12. CHÁO THÓC
Cuộc sống của Xiển ngày càng khó khăn, vất vả. Cứ đến
cuối vụ, Xiển lại phải đi vay thóc để ăn. Xiển đến nhà Tổng Bân để vay thóc rồi
đầu mùa sau sẽ trả. Tổng Bân vui vẻ đồng ý. Tối hôm ấy, khi vợ Xiển đến vay,
Tổng suy nghĩ lại không cho Xiển vay nữa.
Hắn lẩn ra mặt, cho vợ ra tiếp. Bà vợ buồn bã nói:
- Tưởng còn nhiều thóc hóa ra chỉ còn ít để nấu cháo cho
đến khi gặt.
Vợ Xiển ra về tay không. Xiển nghe thấy thế tức lắm . Cậu
quyết sẽ cho lão keo kiệt này một vố.
Ít lâu sau, Xiển cho người sang nhà Tổng Bân nói là mời
đến ăn bữa cơm thanh đạm với cụ Xiển. Tổng Bân rất ngại vì sợ Xiển trách chuyện
hôm trước nhưng suy nghĩ lại vẫn quyết định sang.
Xiển vui vẻ mời cụ Tổng vào nói chuyện hàn huyên. Xiển
không nhắc gì tới chuyện cũ nên cụ cứ thế ba hoa. Mãi đến tối, chưa thấy mâm
bát dọn lên, Tổng Bân cứ đinh ninh chắc có cỗ to nên lâu thế!
Trong nhà, Xiển dặn vợ nấu hai nồi cháo. Một nồi cháo gạo
múc ra cho Xiển, một nồi cháo thóc múc ra cho Tổng Bân. Khi người nhà bê cháo
ra, Xiển đon đả:
- Nhà không có gì gọi là có bát cháo ngon mời ông xơi
cùng. Với lại, buổi tối ăn cháo dễ tiêu:
Đèn đóm chập choạng. Xiển húp cháo xì xoạp ngon lành. Còn
Tổng Bân ăn cháo thóc không thể nào nuốt nổi. Lão bỏ bát xuống kêu:
- Cháo gì mà toàn thóc, nuốt không nổi.
Bấy giờ, Xiển ăn hết bát cháo cười ngon lành:
- Ồ! Cháo đó là vợ tôi học bà chánh dạy cho khi sang vay
thóc ạ!
Tổng Bân ngã ngửa người. Lão vừa đói, vừa thẹn vội chuồn
lẹ.
13. CHỮ PHÚC
Mụ Tư Hồng vốn là gái “lầu xanh” nhờ thế lực quan lại và
thực dân Pháp mà được nhà vua ban cho bốn chữ “tiết hạnh khả phong”. Mụ bèn mở
hội ăn mừng, mời đông đủ anh em gần xa, gia tộc. Cụ Nguyễn Khuyến cũng được mời
nhưng không đến. Mụ cho người nhà mang lễ đến xin cụ đôi câu đối. Cụ chỉ cho
một chữ “phúc” to tướng. Bức tranh treo lên trong nhà thì mọi người đều hiểu
rằng nhờ có phúc đức tổ tiên nên chủ nhân mới được vinh hiển như ngày nay. Thực
ra, tuy biết chữ “phúc” là phúc đức, nhưng ý cụ Nguyễn Khuyến lại ám chỉ bụng
mụ Tư Hồng (chữ Hán có ba chữ nữa, đọc là “phúc”, nghĩa là bụng to lắm).
Dù không được mời, Xiển cứ ung dung đến nhà mụ Hồng chơi.
Cơm rượu xong, nhìn thấy chữ “phúc” trên tường, Xiển bò lăn ra cười. Ai nấy
ngạc nhiên, Xiển nói:
- Mời chủ nhân lại đây tôi mới nói:
Giữa ba quân thiên hạ đông đủ, Xiển giải thích:
- Như thế là chủ nhân đã khoe mình “bán trôn nuôi miệng”
rồi còn gì nữa. Đấy! Nửa bên này của chữ phúc là chữ “y” là áo, nửa bên kia chữ
“khẩu” là miệng và chữ “nhất điền” là một phần ruộng. Như thế có nghĩa chỉ một
phần ruộng thôi, tức chỉ có một cái trôn thôi. Vậy mà đủ cả cơm áo, ăn mặc.
Nghe Xiển giảng giải ai cũng khen hay và chí lý. Còn mụ
Tư Hồng xấu hổ không biết làm thế nào đành vờ cáo mệt xin vào buồng trong. Sau
đó, mụ sai người tháo vội bức trướng xuống.
14. BÀI THƠ HAY
Một hôm, nhân có quan phó sứ sơn phòng đến chơi, quan
huyện ngâm một câu đối, rồi hỏi thầy đồ rằng:
- Thế nào! Ta ngâm có hay không?
Thầy đồ gật gù:
- Bẩm quan lớn hay lắm ạ!
Đang lúc ấy có tên đầy tớ chạy vào bẩm có người muốn gặp
quan huyện. Quan huyện tưởng có bạn đến chơi nhưng trông xa thấy không phải
liền cau mặt nói với tên đầy tớ:
- Mày ra xem hỏi họ cần gì?
- Bẩm quan người ấy tự xưng là học trò ạ!
Đang lúc cao hứng bình văn, quan tức tốc cho gọi người
này vào:
Người học trò khép nép thưa:
- Bẩm cụ! Con là học trò nghèo, lỡ độ đường nhân đi qua
đây xin mừng cụ lớn.
Quan huyện tưởng người học trò chỉ vào kiếm bữa ăn nên
gật đầu. Thầy đồ vốn hay nịnh vội hỏi:
- Anh có hay chữ lắm không?
- Dạ! Dạ con biết một ít thôi ạ!
Thầy đồ thấy vậy tỉa tót:
- Bẩm quan cho anh làm một bài thơ mừng.
Quan gật đầu ưng ý, sai người làm cơm rượu, lấy giấy bút
cho học trò làm thơ. Anh học trò cầm bút những thuỗn mặt ra. Giữa lúc ấy tên
đầy tớ vào bẩm quan có khách. Cả hai người cùng đi ra để lại người học trò một
mình. Nghĩ một lúc, người học trò chép lia lịa. Viết xong, anh ta gấp tờ giấy
hồng lại làm tư, đút dưới đít mâm rượu rồi nói với tên đầy tớ:
- Nhờ anh bẩm quan, tôi xin ra ngoài một chút.
Khi quan bước vào phòng thấy duy nhất chỉ có mâm rượu.
Viên quan mai mỉa: “chắc tên này dốt, làm không được nên trốn rồi”. Tên thầy đồ
thấy vậy xun xoe: “làm sao hắn dám múa rìu qua mắt thợ ạ!”. Viên quan thấy vậy
cười lớn vui vẻ tán thưởng. Tên quan vội sai bọn đầy tớ dọn cơm rượu xuống nhà
dưới. Tên đầy tớ lúc bê mâm cơm lên, một tờ giấy rơi xuống.
Viên quan mở tờ giấy ra có bài thơ:
Cha tri huyện Yên
Thũng.
Con huyện Hào cai
tổng.
Phó sơn buôn mía
hổng.
Thầy đồ lay cột
tổng.
Vừa đọc xong, mặt quan từ từ biến sắc, đỏ như gấc rồi lại
tái. Quan sai tên lính đi tìm bắt tên học trò nhưng y đã cao chạy xa bay. Người
học trò ấy chính là Xiển.
15. NGÀY XUÂN CHÚC TẾT
Vì là dân ngụ cư nên Xiển bị các quan chức sách đầu làng
chèn ép. Tết năm ấy, Xiển được sai đi mời phường chèo về hát cho vui. Xiển nói
với đám phường hát cho hát câu đầu để chúc tết các cụ chức sắc trong làng.
Trống vừa điểm thì thùng, Xiển bước trịnh trọng lên chúc
tết các cụ:
Trên bãi mía dưới bãi dâu
Xin chúc các cụ đầu làng mỗi người một bãi.
Dân làng đứng dậy họ reo ầm ĩ. Duy chỉ có các cụ đầu làng
tuy có tức mà vẫn gõ trống khen hay!
16. CHIA PHẦN CHO CÁC CỤ
Sau khi gia nhập làng một thời gian, Xiển xin Lý trưởng
được làm mõ. Một hôm, Lý trưởng với được chị hàng bát đang ngồi ỉa bậy ở bãi
đầu làng. Xiển bắt được rồi vu vạ bắt lấy gánh bát đem về đình làng, Lý trưởng
sai Xiển đi rao mời làng ra đình để chia phần.
Xiển “dạ” rồi đi ngay. Tới mỗi xóm, Xiển đánh một hồi mõ
“cốc, cốc, cốc…” rồi rao lớn:
- Chiềng làng, chiềng chạ, nam bắc đông tây, lắng tai
nghe mõ rao: cụ Lý bắt được mụ hàng bát ỉa bậy làng ta. Mời làng mau ra đình
chia phần.
Nghe nói đến hai từ chia phần bao nhiêu các vị chức sắc
trong làng: chánh hội, trương tuần… lốc nhốc kéo nhau ra đình. Lúc gặp Xiển, họ
hý hửng:
- Chia phần gì thế? Nhiều không vậy?
Xiển lễ phép thưa:
- Bẩm cụ, con mẹ hàng bát ỉa bậy đầu làng, cụ Lý bắt
được. Dạ! nhiều lắm ạ, một đống to là là thế kia kìa. Chắc mỗi cụ phải được vài
ba bát đầy.
17. CHỬI QUAN HUYỆN TIỀN
Ở mọi nơi cũng ai biết viên tri huyện Thiệu Hóa tên là
Tiền tham lam có tiếng. Xiển từ lâu đã muốn ngấm ngầm phải chơi cho lão một vố
cho lão bớt cái thói ăn chặn của dân.
Hôm ấy, Xiển ăn mặc như một người nông phu, tay cầm một
nắm tiền ngồi đếm trước cổng huyện đếm từng đồng. Xiển cứ lẩm bẩm, nhìn dáng
vóc Xiển, ai cũng nghĩ là thằng gàn dỡ. Tên gác cổng quan sát một lúc rồi chạy
lại cướp trong tay Xiển mấy đồng. Hắn chạy vội chạy vàng vào trong.
Xiển vội đuổi theo hắn, kêu cướp ầm ĩ. Quan huyện nghe
thấy chạy ra xem, bắt Xiển vào tận cung đường để truy xét. Xiển vờ ấp úng, hết
chỉ vào quan , chỉ vào lính chỉ vào mình:
- Dạ… dạ… bẩm quan quân ăn cướp. Con đang đếm tiền tên
này vội cướp. Chao ôi! Thấy tiền, tiền là ăn cướp. Tiền, tiền mả cha thằng ăn
cướp.
Lúc này, quan huyện biết ngay là Xiển nên vội đánh trống
lảng. Quan quát tháo ầm ĩ, bắt tên lính phải trả tiền Xiển mấy đồng rồi lôi
Xiển khỏi phủ.
Nhưng vừa đi Xiển vừa ngoái lại chửi:
- Tiền, tiền, thấy tiền là cướp, mả cha thằng ăn cướp
tiền.
18. QUAN ĐẤY
Viên tri huyện này không những keo kiệt, tham lam mà còn
hay huênh hoang, hay lên mặt. Hôm gần tết, Xiển thấy lính dẹp đường cho quan
cùng vợ con đi chợ. Xiển vội chạy về nhà đem một con chó ra đứng chễm trệ ngay
ở cửa gần vợ chồng quan huyện.
Ai cũng tưởng Xiển bán chó, hỏi bao nhiêu thì Xiển chỉ
tay vào con chó nói:
- Quan đấy! Quan đấy.
(quan vừa là tiền vừa có nghĩa là ông quan).
Quan huyện nghe thấy giận tím người, biết ngay Xiển lại
chơi xỏ mình. Quan sai lính đến bắt Xiển:
- Tại sao mày dám ăn nói thô lỗ thế?
- Bẩm! Con là chắt cụ Trạng Quỳnh ạ!
Quan càng hạnh họe hơn, quát ngay:
- Chắt cụ Trạng Quỳnh chắc phải hay chữ. Ta cho một vế
đối, đối được ta tha, không đánh đòn:
Quan cất cao giọng:
- Roi thất phân đánh đít mẹ học trò.
Xiển từ tốn hỏi:
- Bẩm lọng đối với roi có được không?
- Được!
- Thế đầu đối với đít, cha đối với mẹ có được không ạ?
- Được rồi! Mày đối đi, cứ hỏi lèo nhèo mãi.
Xiển đọc rõ to:
- Lọng bát cống che đầu cha quan lớn.
Quả là vế đối rất chuẩn mà còn ý chửi cha quan lớn nữa.
Quan đã tức lại càng tức hơn. Nhưng quan không nói được gì. Hắn ậm ừ rồi cùng
vợ chuồn thẳng.
19. LỜI TRỐI CỦA CỤ CỐ
Chẳng mấy chốc, tiếng đồn Xiển là chắt nội của Trạng
Quỳnh bay xa, bay đến tận tai nhà vua. Nhân chuyến du hành ra bắc, qua tỉnh
Thanh, vua đòi Xiển đến hầu.
Vì còn nghi ngờ Xiển, nhà vua bắt phải kể lại hàng trang
truyện cụ cố Trạng Quỳnh. Nào là thuở bé Trạng ra sao, đỗ đạt năm nào, mất bao
nhiêu tuổi… cuối cùng, vì muốn biết chuyện của Trạng Quỳnh trước khi chết nên
vua hỏi:
Trước khi mất cụ cố Quỳnh có trăng trối gì không?
Xiển thưa:
- Tâu Chúa thượng, có ạ!
- Ngươi hãy kể cho ta nghe.
- Bẩm ! chúa …
- Cứ nói đi, ngươi đừng ngại.
- Bẩm, con không dám!
Vua cứ hỏi, Xiển lại không nói gì. Xiển cứ ậm à ậm ừ. Bực
quá, vua thét lớn:
- Ta ra lệnh cho ngươi phải nói.
Trạng Ngộ mới bắt đầu bình tĩnh kể:
- Biết thế nào cũng bị Chúa Trình đầu độc, cụ cố nhà con
đã giặn dò người nhà cẩn thận và rồi mới đi. Khi người trở về, cả nhà đau xót
xúm quanh. Ông nội con hỏi cụ cố trăng trối điều gì không, cố chỉ lặng thinh.
Ông con khóc lóc, van vỉ, gặng mãi thì cụ cố con đang lầm lì bỗng nổi khùng
quát lớn:
- Mả mẹ chúng bay, hỏi chi hỏi lắm quá!
Nói xong, cụ cố con ngừng thở luôn.
Nhà vua biết mình bị chửi nhưng đành ngậm miệng.
20. ĐỐI
Để khoe trương danh thế của mình, mỗi lần sinh nhật quan
phủ Thọ đều bày vẽ ăn uống linh đình, mời bạn bè gần xa đàn đúm. Nhưng khổ nỗi,
các quan cứ chè chén còn dân cứ hứng chịu.
Năm ấy, khi mọi người đang rôm rả nâng cốc chúc mừng thì
Xiển đến. Thấy Xiển ăn mặc lếch thếch, quan sai lính đuổi Xiển không cho vào.
Xiển vội vàng bỏ khăn gói, quỳ xuống lạy ba lạy rồi nói:
- Bẩm quan, con là học trò đi thi. Hôm nay, con nghe tin
quan mừng thọ nên con vội vàng đến chúc mừng quan đấy ạ!
Nghe có vẻ bùi tai, quan nguôi giận bảo:
- Được, ta tha cho ngươi. Nhưng ta ra một vế đối, đối
không xong thì liệu chừng.
Nói xong, quan phủ Thọ nhìn hai bên quan bạn có ý mời hai
vế đối. Một quan rung đùi đọc:
- Ba quan ngồi uống rượu.
Quan phủ Thọ giục Xiển:
- Đối đi!
Xiển nhìn xuống thấy bốn con chó đang chồm hổm chịu cơm
đáp liền:
- Bốn chó đứng chịu cơm.
Các quan nghe mà ngửa người. Họ lặng thinh nhìn nhau mà
cục tức lên đến tận cổ.
21. TRI HUYỆN THẰNG
Hôm ấy, cả làng Xiển nhốn nháo khi hay tin có quan tri
huyện Lê Kim Thằng đến thăm. Vốn là kẻ hống hách, hắn sai dân chúng phải đón
rước linh định. Xiển hôm ấy cũng có mặt. Xiển chạy về nhà, lấy áo thụng đỏ của
cố nội mặc vào. Lúc quan đến, Xiển cứ chạy lăng xăng.
Quan thấy Xiển cứ là lạ, ngồ ngộ nên bắt lính đem đến
hỏi. Thấy người này tướng mạo khôi ngô lại mặc áo đỏ. Quan hứng khởi đọc:
- Áo đỏ phết cứt trâu.
Xiển đốp ngay:
- Lọng xanh che đít ngựa.
Quan nghe như bị đấm vào tai: nhưng miệng vẫn cố mỉm
cười:
- Hãy đối tiếp câu này cho ta.
Liếc thấy tóc Xiển đỏ hoe. Quan đọc:
- Học trò là học trò con,
tóc đỏ như son là con học trò.
Xiển mỉm cười đáp:
- Tri huyện là tri huyện thằng,
miệng nói lằng nhằng là thằng tri huyện.
Đến lúc này thì cục uất không thể chịu được nữa. Quan
đứng ngơ người, câm lặng.
22. CÓ THẾ MÀ CŨNG KHÔNG HIỂU
Có một thời gian, Xiển trở thành thầy giáo dạy học và học
trò của Xiển đỗ đạt rất nhiều.
Có một cậu học trò của Xiển đỗ tú tài. Cậu ta về làng mở
tiệc ăn khao. Cậu mời cả Xiển sang để tạ ơn thầy dạy dỗ. Xiển vui vẻ đến, sau
khi cơm rượu say sưa Xiển viết tặng một bức trướng đề bốn chữ: “thượng đẳng tối
linh”(bậc trên anh linh nhất).
Anh học trò được thầy ban tặng cho bốn chữ mừng lắm, hãnh
diện treo giữa nhà. Hôm ấy, có rất nhiều quan khách đến chơi, ai cũng lắc đầu:
- Chỉ có đức vua mới là thượng đẳng tối linh. Tôi e việc
này mà đến tai triều đình thì nguy đấy.
Cậu học trò nghe vậy hoảng hốt, thú thật đó là bức trướng
thầy tặng. Liền mời thầy đến hỏi xem ý tứ thế nào. Xiển được mời đến ung dung
mỉm cười đáp:
- Có thế mà cũng không hiểu à? Thượng đẳng là bậc trên.
Anh ấy thi đỗ làm quan là bậc trên của tôi. Còn “tối linh” là lính tôi. Vì anh
ấy là học trò của tôi nên dù sao cũng là quân của tôi. Có thế mà không hiểu!
TRUYỆN PHỦ THUẤN
Ngày xưa, ở các tỉnh miền trung ai cũng truyền tụng câu
truyện về ông phủ Thuấn. Tiếng lành đồn xa, ông phủ Thuấn trở thành tấm gương
cho người đời trải nghiệm.
Truyền rằng, ông phủ Thuấn học cao, đỗ đạt ra làm quan
dưới triều Tự Đức. Nếu như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Bột… đều đi thi nếm
trải đủ mùi cay đắng thì với ông phủ Thuấn lại khác. Ông có đường công danh
rộng mở và phẳng lặng. Tuy vậy, những giai thoại về phủ Thuấn truyền tụng chứng
tỏ ông là người cương trực, có tính hài hước và biết lấy đó để răn đời.
Truyện phủ Thuấn kế thừa truyền thống dân gian từ ngàn
xưa. Đồng thời, ông biết cách vận dụng nét trào lộng của người miền Trung như
nói lái, chơi chữ… chính điều này đã tạo nên tiếng cười rất sảng khoái, ý nhị
nhưng không kém phần sắc sảo, sâu xa…
1. CHỮ THỜ ... TÁO!
Vùng miền Trung ngày xửa, ngày xưa người dân có tục thờ
chữ. Điều này có nghĩa thờ các câu chữ nho đẹp, do những người hay chữ và có
hoa tay viết ra. Người học chữ nho, gọi học trò là “thầy khoá”. Khi ấy khóa
Thuấn đang ở rể nhà cha vợ. Một hôm, cha vợ lập một cái bàn thờ nhỏ dưới bếp,
rồi nói:
- Nào! khóa Thuấn học hành xưa nay giờ viết cho thầy mấy
chữ để thờ thần bếp được chứ?
Được cha vợ sai thì ai dám cãi? Khóa Thuấn liền đem bút
lông mực tàu ra ngay và viết hai chữ, ông thấy con rể viết chữ đẹp thì mừng
lắm. Ông kính cẩn đem treo nó lên bàn thờ ông Táo.
Một hôm có người khách đến chơi. Ông ta thấy như vậy ngạc
nhiên hỏi:
- Ủa ! Sao lại thờ chữ Tuấn cao? Anh ấy đâu mà nhà bác
lại thờ?
Ông bố vợ hốt hoảng, kêu khóa Thuấn đến mắng té tát:
- Tôi tưởng anh học đàng hoàng. Vậy mà anh dám bỡn cợt
viết tên anh cho tôi thờ. Thật quá đáng!
Thuấn gãi đầu, lễ phép thưa:
- Thưa thầy. Ai nói là họ chẳng hiểu gì chữ Thánh hiền.
Con viết theo ý thầy đó mà.
- Anh nói viết theo ý tôi? Bố vợ tròn mắt ngạc nhiên.
- Dạ! tại thầy chưa hiểu thôi. Con viết hai chữ “Tuấn
cao” có nghĩa là “táo quân” là không sai ạ. Bếp thì thờ ông táo quân chứ thờ ai
nữa. Cha vợ Thuấn nghe thấy thế đành chịu thua chàng rể.
2. NHẬN HỐI LỘ
Chuyện xảy ra khi khóa Thuấn đã làm đến chức tri huyện.
Thời ấy, chuyện nhận hối lộ của các quan diễn ra như cơm bữa. Một lần, có lão
phú hộ đánh một người tá điền gây thương tích. Nạn nhân phát đơn kiện và lão
kia đã nhiều lần đánh người nên bị tống giam và chờ ngày xét xử.
Quen thói cũ, lão tìm cách nhắn người nhà đến phủ đường
lo lót. Phủ Thuấn hẹn rằng:
- Cũng không có gì là khó lắm. Muốn dứt tội đánh người
thì phải chịu cho ta mười nén bạc. Nội hoàng hôn ngày mai phải có đủ. Nói xong
ông tha hắn về ngay.
Hắn đã lung lạc được quan với mười nén bạc, tên này hí
hửng mò đến quan đúng hẹn. Không thấy đâu cả, hắn hỏi thì tên lính bảo quan
đang ở chuồng lợn. Hắn hí hửng mò ra chuồng lợn, thấy quan đang ăn mặc chỉnh
tề, mang theo hia đội mão. Tên này khúm núm dâng mười nén bạc. Phủ Thuấn bảo:
- Mi luồn vào tay áo thụng cho ta!
Mấy ngày hôm sau, ngồi ghế chánh án. Ông tuyên phạt tên
này năm năm khổ sai về tội đánh người trọng thương. Hắn chưng hửng. Hắn biết
mình bị lừa nên đút tiền lên quan tỉnh kiện phủ Thuấn nhận hối lộ. Thế là phủ
Thuấn bị gọi lên tỉnh để đối chất. Phủ Thuấn cứ chối tội và đòi tên này khai
đưa vào lúc nào, ở đâu. Tên này sang sảng kể lại đầu đuôi một cách rành rọt.
Tòa vặn vẹo:
- Thế mi giao bạc cho quan phủ ở đâu?
- Dạ… nơi chuồng lợn nhà ông ấy.
Quan trố mắt ngạc nhiên:
- Thế nào hả?
- Dạ… lúc đó quan đội mũ, đi hia, mặc áo quan và đang cho
heo ăn. Chính con đã nhét mười nén bạc vào tay áo thụng của quan.
Phủ Thuấn lúc ấy mới phì cười:
- Bẩm các cụ lớn, rõ ràng tên này bịa đặt lại còn xấc
xược. Có đời nào ai cho lợn ăn lại mặc phẩm phục? Tôi đề nghị tòa tăng án phạt
hắn thêm năm năm nữa về tội khinh đạo thánh hiền, vu khống quan trường…
Lão phú khóc lóc bù lu bù loa nhưng có ai nghe hắn đâu.
3. TRẢ TRÂU VỀ ĐÚNG CHỦ
Thời làm quan, có lần phủ Thuấn xử kiện mất trộm trâu.
Bên nguyên là một nông dân kiện, còn bên trộm trâu là một phú hào có thế lực.
Tên trọc phú cứ quả quyết rằng đấy là trâu nhà mình. Phủ Thuấn liền đến tận nơi
thị sát. Sau khi bắt cả hai lên công đường, quan hỏi bên bị:
- Nhà anh có bao nhiêu trâu?
- Thưa, nhà con có năm con tất cả ạ!
Tên trọc phú mặt vênh quả quyết.
- Thế anh có biết đặc điểm gì về con trâu này không?
- Bẩm có ạ!
Thế là lão trọc phú đọc vanh vách khá chi tiết từng đặc
điểm của con trâu ấy: Cao ba thước, dài sáu thước năm phân, lông thế nào, mắt
thế nào. Con trâu có tám khoáy, một khoáy trước trán, một khoáy đỉnh đầu, hai
khoáy dọc sống lưng, hai khoáy bên bả vai, hai khoáy hai mông, trâu có bốn
răng. Sừng cong, cái bên trái dài hơn cái bên phải hai phân. Mỗi sừng có sáu lỗ
lõm, nông khác nhau.
Quan phủ Thuấn quay sang hỏi bên nguyên. Bên nguyên chậm
rãi thưa:
- Bẩm quan, nhà con chỉ có mỗi con trâu nớ. Khi đặt ách
cày vào cổ con trâu, con lấy tay gãi gãi bên má con trâu là hắn lè lưỡi ra liếm
tay con.
Phủ Thuấn gật gù:
- Vậy anh làm thử trước mặt ta và có đông đủ bà con trong
làng cùng xem.
Anh nông dân đặt ách vào cổ trâu, đoạn xoa xoa vào má nó.
Con trâu lè lưỡi liếm mãi vào tay anh.
Mọi người ai nấy đều reo lên.
- Bên bị, còn đặc điểm của con trâu của anh?
Phủ Thuấn quay sang hỏi tên trọc phú:
Gã cứ lúng ta lúng túng, thuỗn mặt ra như ngỗng. Phủ
Thuấn đập bàn quát:
- Thế là trắng đen đã rõ! Xưa nay có ai nuôi trâu đếm đo
tỉ mỉ thế đâu. Mi quả là tên lừa đảo.
Vậy là kẻ trộm trâu đành cúi đầu nhận tội.
TRUYỆN BÁC BA PHI
1. CÂU CÁ SẤU
Bác Ba Phi ngồi nói chuyện bên ấm trà với khách mới xứ U
Minh. Đang thưởng thức tách trà ấm nóng thì người khách hỏi:
- Xứ mình có nhiều Cá Sấu không bác Ba?
Bác Ba Phi nhấp một ngụm trà rồi xuýt xoa:
- Ôi! Cá sấu ở đây thì trời nắng chúng lên nằm hai bờ
sông như củi lụt.
Người khách tròn mắt ngạc nhiên:
- Vậy làm sao để bắt được nó ạ?
Bác Ba phi đáp với một thái độ rất hý hửng:
- Khó gì đâu, cậu bắt nó thôi. Bữa hôm, tôi và bả đi câu.
Tui làm một cái roi thiệt bự rồi hai vợ chồng chèo thuyền đi. Tới sông Quảng
Phú, gặp một con Cá Sấu lớn. Nó mắc sợi câu, hai sợi doi nổi lên ở một khúc eo
sông. Tui thử kéo lên. Chà! Một con Cá Sấu thiệt lớn. Tui quấn sợi doi trước
mũi thuyền. Thế là sấu chạy, kéo luôn cả thuyền, tui vội vàng la bả: “cầm lái
cho ngay kẻo chìm”. Con Sấu kéo thuyền của vợ chồng tui từ sông Quảng Phú tới
vàm Cái Đôi mới bắt được nó đấy chứ!
Người khách chép miệng:
- Thế thì làm sao đi ngang đập cây dừa?
Bác Ba Phi thản nhiên:
- Thì nó kéo thuyền qua đập luôn mà.
2. CHIM CHUỘT Ở U MINH
Năm đó, tui làm đám mạ ở gần mé rừng. Nói là làm “đám mạ”
chớ có làm gì đâu. Ở xứ này, tháng hạn chặm một mũi lửa mặt đất bị cháy sạch,
chờ tới sau mưa, đợi lúa giống ra, coi chỗ nào ưng ý là gieo.
Giống lúa tôi đã ngâm đủ ba ngày, một mộng đàng hoàng, từ
trong nhà đội ra. Bữa đó trời trong, im gió. Nhưng tôi nghe như có mây che mù
mịt trên đầu. Cả tiếng gió rì rầm đâu xa nữa . Ra đến ruộng mạ, tôi để thúng
giống lúa trên đầu xuống. Thì … trời ôi! Chim dòng dọc với chim lá rụng nằm đầy
một thúng. Chúng đã ăn sạch giống lúa của tui, không còn một hạt để nhổ râu.
Nghe động, chúng bay lên cái rần, chỉ còn lại cái thúng không.
Tức quá, tui về nhà ngâm thêm một giạ lúa giống nữa. Vài
ngày sau, tôi cũng đội lúa ra gieo y nền cũ. Lần này, tôi cũng đội lúa không để
chim ăn mất. Một tay tui vịn thúng lúa, một tay cầm nhánh chà quơ phía trên
đầu. Vậy mà tới đám rạ, thúng lúa cũng bị chim ăn hết.
Bây giờ mới bắt đầu gieo hột. Tôi cặp thúng lúa rách, đi
thụt lùi vãi rào rào. Vãi hết thúng lúa giống, đến chừng coi lại thì không còn
hột nào rớt được tới đất.
Trời! Chuột, chuột đứng sắp hàng. Con nào cũng vậy, một
tay chắp sau đít, một tay đưa ra hứng lúa. Chúng vừa ăn, vừa vuốt râu. Chỉ có
mấy con Chuột già không hứng được lúa để ăn, ngồi ngoài rìa đám rạ mặt mày buồn
thiu.
3. ẾCH ĐỜN VỌNG CỔ
Tui có bầy vịt, hễ cứ bum búp lông cánh là bị mất sạch
trơn. Tức quá, rình mò mấy bữa, tui mới biết là bị Ếch ăn. Chỗ đuôi đìa, dưới
gốc bụi tre, có một hang ếch lớn quá cỡ.
Nghĩ thế, tui lấy sợi dây thép quai thùng uốn thành một
lưỡi câu, lấy sáu sợi dây chì bện lại thành nhợ, một đầu buộc con Vịt Xiêm vừa
ra ràng, một đầu buộc vào bụi tre. Mặt trời lên độ một con sào. Tui ngồi rình,
thấy một con Ếch bà từ trong gốc tre lù lù lộ ra. Con Vịt thấy con Ếch men lại
ngửi ngửi rồi lắc đầu bỏ đi. Biết nó chê con Vịt này còn hôi lông chưa chịu ăn.
Bữa sau, tui đổi một con Vịt mái ta đang đẻ, mập sà đít. Hừng sáng là tôi đến
chỗ hôm qua ngồi rình.
Cũng đến lúc mặt trời lên độ một con sào, con ếch béo đó
cũng vạch bèo lộ ra. Trông thấy con Vịt mập ú, nó ngó dáo dác, mặt mày hớn hở,
gật đầu mấy cái. Con Ếch súc miệng ào ào, phun ra cái bèo rồi chồm đến bên con
Vịt. Nó nhớn mắt, táp bụp rồi nhai rau ráu một cái ực. Nhưng vướng phải lưỡi
câu, nó nhộn trở ra. Thấy tình hình không xong, tui vụt đứng dậy, la “ếch” một
tiếng. Con Ếch giật mình ngang, bị lưỡi câu xóc hàm, nó giãy đùng đùng. Nó lúc
lắc cái đầu, sáu sợi dây rẽ quạt ra, cùng bật ra tiếng kêu trầm bổng “tằng,
tăng, tẳng” rất vui tai. Tui ngồi nghe, thấy mà thích mắt. Ngồi ngắm ngứa
miệng, tui liền ca một hồi vọng cổ nghe chơi.
4. MÔ ĐẤT BIẾT ĐI
Đang mùa phát đất, nước lại đầy ắp cánh đồng. Đúng là
thiệt kỳ cục. Nước sông Đốc màu ngà ngà dâng lên, nước U Minh đỏ thẫm như nước
trà, chảy ngập tới đâu thì cây cỏ èo ọt tới đó. Lợi dụng lúc này phát đất là
tốt nhất.
Hôm ấy, tui vác cuốc ra đồng. Đồng nước mênh mông ngập
nước, tui lạnh run lên. Không tìm được mô đất để viên đá mài phẳng. Tui lại
vòng vo cho đến hừng đông. May thay, gặp một mô đất thật cứng, cao hơn mặt nước
độ hai gang tay. Tui để viên đá mài lên rồi mài xong, tui mở gói thuốc ra vấn
một điếu hút phì phèo.
Đến khi trời sáng rõ, tui trực nhìn lên. Trời ơi! ở đâu
mà vườn tược rậm rạp trông lạ quá kìa. Quái lạ! tại sao ở ngay hè nhà mình. Rõ
ràng bên tay phải tui là cái chuồng trâu, tay trái chuồng heo, chính giữa có
cái bếp. Bà vợ tui đang lom khom chụm bếp. Thiệt là như một chiêm bao, tui
không tài nào hiểu được.
Cuối cùng tui kêu bả. Bà ngẩng lên la oai oái:
- Bớ người ta cứu chồng tôi!
- Bộ bà điên rồi à?
- Ông ơi ông bước xuống, lại đây mau.
Tui thủng thỉnh bước xuống mô đất. Tui nhìn lại. Uý trời
đất thánh thần ơi! Con rùa! Con rùa vàng lớn quá. Té ra tui ngồi mài phẳng trên
lưng nó từ hôm qua đến giờ.
5. CON CHÓ SĂN DŨNG CẢM
Trời mới rạng đông, nghe con heo nái trong chuồng hộc
hộc, tui biết là con heo rừng vô ăn thịt đây. Tui chụp lấy cây mác thông, kêu
con chó Nô nhảy ra. Con chó Nô là loại chó nòi, giỏi vô cùng. Nhưng lúc này nó
đang có chửa gần đẻ.
Lúc tui chạy tới thì con heo rừng cũng vừa bỏ ra. Nó to
cỡ con bò, màu lông vàng hực, da lăn đầu chai. Vừa đi nó vừa ghếch cái mõm như
đàn bầu lên táp lốp đốp, nghe chẳng khác gì cầm cái mủng dừa dập úp lại. Hai
cục bọt trắng xóa bên mép miệng, gần cặp nanh trắng ởn.
Thấy tui với con Nô đuổi sát, nó quay lại, mài đít ngồi
nhìn. Mũi nó khụt khịt. Biết gặp đối thủ, tui đứng chân chữ đinh, cầm cái mác.
Con lợn tưởng tôi đâm thiệt nên hất mõm qua bên. Tui đâm một nhát vào nách nó.
Con lợn liền hất trở lại một cái, cái mác của tui gãy làm hai. Tôi chơi vơi.
Thấy chủ gặp nguy, con Nô nhảy ra, nhưng vừa nhập vào bị
con lợn đánh một cái văng ra, làm “ẳng” một tiếng, quỳ xuống đẻ ra một bầy con.
Tám con chó mới đẻ chạy tới cắn vào bốn chân con heo. Con Nô tuy đau nhưng vẫn
xông vào. Con lợn bị đánh cho một cái đầu vỡ làm tư. Nó nằm dãy tê tê. Thấy vậy
tôi chạy lại bứt nắm cỏ thuốc hàn đắp vào vết thương. lần này, con lợn rừng
chạy đằng trời. Tám con chó con táp bốn cẳng giò kéo ra. Con Nô kéo đuôi còn
tôi sách cán mác nhằm đầu nó mà bổ xuống. Quần nhau một lúc, con lợn thở dốc.
Nhanh như chớp, tui thọc cho nó một cán mác vô họng, thấu tuốt ra sau đít.
10. BẮT CÁ KÈO
- Hồi xưa! Bác cũng có đi bắt cá kèo hả bác ba?
Bác Ba Phi đang cùng với mấy đứa cháu trong xóm ngồi
chuyện trò cả trưa dưới gốc tre trước nhà. Gió thổi xào xạc cành lá. Ngồi thấy
bác Ba mệt mỏi, không muốn kể thêm nữa, thằng Kiên hỏi thêm:
- Ừ! Cá kèo tao bắt giữ lắm. Có hôm lấy ghe mà chở- bác
Ba trả lời.
- Thiệt hả? Ủa! Hồi ấy bác Ba bắt cá kèo ở đâu vậy?
- Nè! Coi tao bắt đây.
Bác Ba đứng dậy trỏ một ngón xuống đất. Tụi con nên nhớ
vùng biển đá bạc của mình hồi đó vô tới tận con kinh Long Tràm này. Cá kèo lội
đặc như bán tôm trong nồi. Ngày xưa, đâu có phương tiện gì để bắt như bây giờ.
Chủ yếu bắt bằng tay thôi. Không phải ai cũng bắt bằng tay giỏi như tao. Mỗi
lần tao thò tay xuống sông rồi giở tay lên là bắt được mười con. Mỗi ngón tay
một con, ìm im không giãy giụa được.
Mấy đứa nhỏ nghe chợt thấy thấm ý, bật cười. Chỉ có thằng
Tuyên không nói, chỉ ngồi im. Nó lẩm bẩm một lúc rồi hỏi bác Ba phi:
- Bác vừa nói mỗi kẽ tay bắt một con. Hai bàn tay có tám
kẽ tất cả. Vậy làm sao bác bắt được mười con một lần?
Chưa bao giờ bác Ba bị hỏi “trẹo” như vậy nên đờ người
một lúc. Rồi bác vỗ vào người nó dịu giọng;
- Đúng thế! Thường thì không bắt được một lúc mười con.
Nhưng vì tay tao bắt cá dính quá. Vì thế có một số cá kèo chực sẵn bên ngoài,
chờ tao thò tay xuống là lao vào. Vì thế mà mỗi lần tao giơ lên thì có mười con
dính đấy!
11. GÁC KÈO MẬT ONG
Mùa hạn năm đó, tui quảy gùi, vác mác lội rừng ăn ong. Đi
suốt từ sáng cho tới trưa mà vẫn chưa cạo được ổ nào. Ông đóng kéo bạ thì chẳng
được bao nhiêu còn đóng kèo gác toàn là loại mới ốp lưỡi mèo, mật mới tráng
ống. Buồn tình, tui mới gật gù, để mác với dao tre một bên, lấy tấm vải nhựa
ra. Tui ngủ một giấc ngon lành.
Bỗng tui nghe nóng nóng bên tai, tui giật mình thức dậy.
Nằm nguyên tư thế cũ, tui móc thuốc ra vấn hút. Đang lúc
nhả khói, phun mây phì phèo. Tôi nghe đâu đây tiếng ong mật vỗ cánh vèo vèo.
Ngó dáo dác, tôi ngồi dậy đi tìm. Nhưng chợt nhìn xuống cái chân mình. Thì trời
ơi! Ổ ong đang đóng dưới bụng ống chân tôi. Thấy mình nằm ngủ ngoéo chân, bọn
chúng tưởng cây kèo nên áp lại đóng.
“Mày đem nạp mạng, sẵn đây tao cạo luôn”. Nghĩ vậy tui
hút mạnh mấy hơi thuốc, phà khói thuốc vào tổ ong. Bị khói thuốc Gò Vấp cay
mắt, bầy ong bỏ ổ chạy tán loạn. Tui vớ cây dao tre bên cạnh, xắn tấm tàng bỏ
đi.
Một khối mật ong bằng trái dừa khô từ trong tấm tàng rơi
ra. Nhìn thật ngon và lạ mắt.
TRUYỆN ÔNG Ó
1. MƯỢN TRÂU
Ở trong làng, ông Ó là người nổi tiếng nói dóc số một. Từ
trẻ con, người già, quan lớn, quan bé đều bị mắc lừa ông Ó. Chính vì vậy, người
ta đặt tên cho ông là thánh Trạng.
Một hôm, ông Ó đến làng kia, thấy một anh nhà giàu đang
làm đất để cấy. Ông Ó dừng lại hỏi:
- Cha chả! Hôm nay mà chưa cấy cơ à?
Anh nhà giàu trả lời:
- Năm nay làm nhiều ruộng, thuê người làm được còn ít,
trâu thì bệnh nên thiếu trâu làm. Còn vài chục công nữa mà không có công thì
phải làm tay, như vậy thiệt khó quá. Nhưng thuê người thì tốn tiền.
Ông Ó vừa cười vừa nói:
- Nhà tôi ở gần mé rừng nên có anh em gửi trâu cho chúng
nó ăn ở trong rừng. Đồng ở bên làng thì cấy xong cả rồi, anh có chỗ nhốt thì
cho mượn vài con mà làm thêm.
Anh nhà giàu nghe thế tưởng thật, hớn hở, đon đả mời ông
Ó vào nhà uống nước thoải mái. Sau đó anh ta sai người đến mượn trâu ông Ó.
Vừa về đến nhà, ông Ó liền ra nói với mấy đứa trẻ chăn
trâu cho mượn bốn con trâu tơ chưa xỏ mũi, lấy dây chuối cột vào cổ, giao cho
mấy tay đầy tớ kia mang về. Mấy chú nghé vừa đi xa một đoạn, nghe tiếng bầy
nghé ọ, thì dựt dây chạy trở lại. Mấy tên đầy tớ đành bó tay trở về không. Anh
nhà giàu tiếc nuối lắm. Hôm sau gặp ông Ó, hắn cứ trách ông Ó lừa hắn. Ông Ó
cười ha hả:
- Vậy không biết tiếng ông Ó xóm Dưa hay sao?
2. BỮA NAY BỂ ĐẬP KỲ HÀ
Một buổi sáng đẹp trời, ông Ó thong dong đi ngang qua
đình rắn. Thấy ông, các ông hương chức hội tề mới rủ:
- Này! ông Ó, hãy vào đây nói láo nghe chơi.
Ông Ó điềm đạm nói:
- Thưa các cụ, phải để lần khác vậy. Tôi đang phải về gấp
để bắt hôi ở đập Kỳ Hà. Đập Kỳ Hà vừa bị bể đấy!
Nói dứt lời, ông Ó quay đi ngay. Các cụ thì há hốc mồm vì
ngạc nhiên. Ai cũng nóng mặt vì cái tin vừa được nhận. Máu trong người trỗi
dậy, các hương chức trong làng ban hội tề liền sai những người phụ việc ở đình:
- Quân đâu! đến đập Kỳ Hà kiếm vài con cá về nhậu lai
rai.
Ai nấy cũng hớn hở, đợi chờ, chắc năm nay đập Kỳ Hà có cá
lớn lắm đây.
Nghe lệnh, anh em giúp việc trong đình lục đục kéo nhau
ra đập Kỳ Hà rất đông. người thì giỏ, kẻ thì rổ rá lăng xăng chạy thật nhanh
kẻo hết.
Nhưng đến nơi, đập nước vẫn nguyên, nước vẫn đầy. Cả bọn
trố mắt ra nhìn mà không hiểu nổi. Sực nhớ ra, họ lục tục kéo về làng tức tối
vì bị ông Ó lừa cho vố đau.
Vài ngày sau, ông Ó có việc ra đình, các hương chức hội
tề lên tiếng chỉ trích gay gắt:
- Sao chú mày dám gạt tụi tao, báo hại chúng nó đi mất
công.
Ông Ó lúc ấy mới mặt mày hớn hở:
- Tại các cụ bảo tôi vô nói láo nghe chơi, tôi nói láo
cho các ông nghe đó thôi!
3. TÁT ĐÌA
Trong làng có một tên nhà giàu cực kỳ keo kiệt và bủn
xỉn. Hắn có ngót ngét chục cái đìa trong khoảnh đất của hắn.
Tuy cực kỳ giàu có, nhưng y trả công cho người làm đìa
rất rẻ mạt. Bữa ấy, nhà y đang tát một cái đìa lớn sát bìa rừng vông. Đìa này
nổi tiếng xưa nay rất nhiều cá, vì vậy khi tát đìa chủ hay đứng canh chừng sợ
người tát thuê lấy mất cá. Lúc đìa sắp tát cạn, bỗng đâu ông Ó hớt hơ hải từ
trong làng chạy ra.
- Trời đất! Tôi kiếm ông muốn hụt hơi. Ông cả nhờ tôi mời
ông ra đình quan huyện về gặp ông kìa.
Gã nhà giàu quay lại:
- Kiếm ta có việc gì?
- Tôi hổng rành. Nhưng nghe ông cả nói nghe đâu quan
huyện định mời ông làm chánh tổng Minh Đạo hay sao ấy.
Nghe vậy, hắn vội vàng chạy về đình mà không quên nhờ ông
Ó canh giùm người tát thuê. Thừa dịp, ông Ó bảo người làm xúc hết cá to giấu vô
rừng. Lão nhà giàu tất tả chạy tới đình nhưng trống trơn không một bóng người.
Vừa thấy mặt y, ông Ó đã lên tiếng:
- Ủa, quan huyện gặp ông sao lẹ vậy? Thôi chết rồi, chắc
quan kiếm ông mãi hổng được nên về rồi. Nhưng ông lên huyện coi.
Vừa lúc ấy, đìa cũng cạn, dưới lòng đìa chỉ còn ít cá. Gã
nhà giàu ngỡ ngàng thốt lên:
- Lạ thật! Cái đìa này sao năm nay ít cá quá, lại toàn cá
nhỏ nữa. Ông Ó và người tá thuê không nói gì chỉ cười hỉ hả trong bụng.
4. CHẠY VỀ MÀ COI
Có hai vợ chồng nhà giàu nọ, làm ăn buôn bán nổi tiếng cả
một vùng. Tiền bạc cứ thế chảy vào như nước. Tuy vậy, vì mải lo làm giàu, họ
không đoái hoài đến con cái. Mặc cho chúng sống hay chết, hai vợ chồng vẫn điềm
nhiên để mặc.
Một hôm thấy ông ó đang đi ngoài chợ, vợ chồng nọ nhân
lúc vắng khách kêu ông Ó vào:
- Nè! Nói láo nghe chơi đi ông Ó.
Ông Ó lặng thinh như không nghe thấy gì. Người vợ nhà nọ
lại kêu toáng lên:
- Vô đây!
Ông Ó lúc này chợt giật mình quay lại và làm như chợt nhớ
ra một điều gì.
- Trời! Tưởng ai kêu tôi. Té ra nhà chị, con cái ở nhà bị
té sặc nước, dân làng người ta đang cứu giùm, sắp chết đến nơi rồi mà cha mẹ cứ
gọi tôi vào nghe nói láo. Chỉ lo làm giàu mà hổng ngó gì tới con cái hết trọi.
Vợ chồng nhà nọ nghe thế lính quýnh nhờ người coi giùm
hàng rồi chạy hụt hơi về nhà. Về đến nhà, họ thấy mấy đứa đang thơ thẩn ngoài
vườn. Mặt mũi đứa nào đứa nấy lấm lem. Nhưng không đứa nào té vũng nước cả.
Chúng vẫn vui đùa không đoái hoài gì đến bố mẹ về.
Sợ mất đồ ngoài chợ, hai vợ chồng vội chảy trở ra. Vừa
trông thấy ông Ó, cả hai đều trách móc:
- Ông báo hại vợ chồng tui, để chúng tôi chạy hụt hơi.
- Tại anh chị bảo tôi nói láo mà lị. Mà anh chị chạy về
lo lắng con cái một chút thì sao. Cứ bỏ bê con cái là không được.
Hai vợ chồng nọ hôm nay bỗng im lặng và hiểu ra mọi
chuyện.
5. CON GÀ CHỌI NHÀ PHÓ TỔNG
Phó tổng Minh Đạt rất giàu, lại có thói máu mê gà chọi. Y
chăm sóc con gà chọi và xem nó còn quý hơn người ăn kẻ ở trong nhà. Đã thế, y
còn ta đây phách lối nên dân làng rất căm ghét.
Sáng hôm ấy, chợ Vàm đông người, người ta thấy ông Ó tay
cầm sợi dây chuối, quần ống cao ống thấp, đứng cạnh hàng rào bông bụt nhà ông
phó tổng la lớn:
- Ối! Bà con, bắt giùm tôi con gà kia với! Tôi cột chân
không kỹ nên nó bị tuột dây, nó chạy vô nhà này. Tôi đuổi nó mệt quá chừng, kia
kìa! nó kia kìa.
Vừa nói, ông Ó chỉ tay vào con gà chọi cao to ở góc sân
rồi ngồi xuống bù lu bù loa.
- Tôi về, bả la dữ lắm.
Thấy thương ông già mọi người liền nhảy vô nhà nhè con gà
đầu đàn đuổi bắt. Đàn gà chạy tứ tán. Con gà chọi lớn nhất chạy ra cổng. Ông Ó
vớ ngay đòn gánh vọt một cái. Con gà bật cánh nằm ngay tại chỗ.
Ở trong nhà, phó tổng ra tới nơi thấy vậy la lớn:
- Sao các ngươi dám đánh què gà quý của ta?
Ông Ó trả lời:
- Đâu có, mấy ông ngoài chợ đuổi gà chạy lại chỗ tui, bắt
hộ hoặc đánh chết cũng được. Chẳng dè, nó…
Phó tổng cắt lời:
- Các người kia đâu hết?
- Họ ở ngoài kia, đó…
Vừa nói, ông Ó vừa chỉ tay ra chợ lúc ấy rất đông người.
Viên phó tổng liền hỏi:
- Thế còn ông là ai?
Ông Ó bình tĩnh đáp:
- Tui là ông Ó xóm Dưa, ông không biết sao?
Nói rồi ông quay ngoắt đi luôn. Thế là phó tổng đành ôm
con gà què vào nhà, tiếc ngẩn ngơ.
6. HÀNG DỪA CỦA BÀ HUYỆN
Bà huyện ở tận Cái Quao, nhưng có một sở đất tại vùng
này. Ranh đất là một hàng dừa thẳng tắp. Một hôm, thấy ông Ó đứng ngắm hàng dừa
mấy người qua đường bèn hỏi:
- Hàng dừa của ông đó à?
ông Ó trả lời:
- Các ngươi không biết đây là hàng dừa của bà huyện hay
sao?
Mọi người ai cũng tấm tắc khen hàng dừa trồng hồi nào mà
ngay hàng thẳng lối. Ông Ó bèn kể: “hồi đó! Chỗ đất này rất hoang vu, chỉ có
một cây dừa thôi, ngoài kia là rừng, rất nhiều cọp. Hàng ngày cọp vẫn từ trong
rừng ra ăn dừa rụng. Ông nắm chặt đuôi cọp đá mạnh một cái. Cọp đau quá, la eo
éo, ỉa vọt ra những trái dừa thẳng tắp rồi cong đuôi chạy. Nơi những trái dừa
do cọp ỉa mọc lên hàng dừa mà ông bà thấy đó.”
Nghe xong, mọi người lại hỏi:
- Ủa, sao hồi nãy ông bảo dừa này là của bà huyện.
Ông Ó thủng thỉnh đáp:
- Ừ! Bà huyện bảo vùng đất này của quan ông trắm nhận nên
dừa mọc trên đất ấy là của bà ấy chứ sao.
- Thế còn hàng dừa?
- Chứ sao nữa, bà huyện bà ăn ơn huệ đất này thì bả chiếm
hàng dừa luôn. Cứt cọp ỉa ra chứ cái gì đâu mà bả chê!
7. LỜI DẶN CỦA THẦY TÔI
Đông cung hay bày đặt những trò chơi để tiêu khiển mất
thì giờ, một bữa bắt ông Ó cùng đi ngoạn cảnh với mình. Đông cung chỉ ra ngoài
xa hỏi ông Ó:
- Nhà ngươi coi dân xứ này với dân xứ người làm ăn có
khác nhau không?
Ông Ó trả lời:
- Tôi coi dân xứ này ít làm lắm, dân trong xứ tôi không
phải vậy.
Đông cung ngạc nhiên lắm:
- Sao gọi là ít làm?
- Dân trong tôi cày cuốc cả năm, không cho đất ở không
chỗ nào. Còn ngoài này, bởi họ ít làm nên để đất chai hóa đá, lâu năm nó sinh
sản thành núi. Bởi vậy, bản xứ này núi nhiều ruộng ít.
Đông cung cười ngất rồi bảo:
- Ngươi nói láo giỏi vậy là do ai dạy, hay ngươi tự bày
đặt ra mà nói.
Ông Ó trả lời một cách cung kính:
- Thưa, dẫu là chuyện nhỏ mọn cũng phải có thầy. Thầy tôi
dạy thường có năm bảy mươi học trò. Cách đây mười năm, vua bên Tàu cho rước
thầy tôi qua Bắc Kinh nói láo cho vua Tàu nghe. Khi thầy tôi về, vua Tàu có ban
cho thầy tôi trăm lạng vàng. Rủi thay dọc đường bị ăn cướp, bọn cướp giết thầy
tôi để lấy của. Sau này vua Tàu có gửi thơ sang hỏi thăm vợ thầy tôi và phong
là tổ sư nói láo.
Đông cung ngạc nhiên hỏi:
- Vậy khi còn là học trò thầy ngươi, điều gì thầy ngươi
dạy kỹ nhất.
- Dạ có, nhưng tôi e không dám nói.
Đông cung nhăn mặt rồi mỉm cười bảo:
- Ngươi nói cái gì ta cũng tha lỗi cho.
Ông Ó chậm rãi đáp:
- Nói láo thì nói cho người ham làm nghe cho vui, chớ kẻ
ham chơi mà đòi nghe nói láo thì chửi cha nó lên.
Rất giận ông Ó nhưng đã lỡ hứa rồi nên Đông cung không
làm chi được.
8. QUAN HƯU TRÍ MẮC LỪA
Có một viên quan hay đút lót, nay già về ở Huế. Trong
nhà, vợ con làm nghề dệt lụa. Bữa nọ, trong khi đi dạo chợ, thình lình trông
thấy ông Ó bèn kêu lại hỏi:
- Ông có phải là người xứ Đồng Nai không?
Ông Ó quay lại thấy một người giống như một viên quan,
ông đã nghe danh từ lúc chưa ra Huế. Liền chào và hỏi:
- Dạ phải?
- Ông có phải là ông Ó không? Viên quan lại hỏi:
- Dạ phải!
Nghe vậy, tên quan có vẻ giễu cợt:
- Ở trỏng không có việc gì nên ông ra ngoài này nói láo
sao?
Ông Ó nghe xong tức giận lắm. Ông nghĩ phải cho viên quan
này một trận mới được. Ông Ó bình tĩnh đáp:
- Không phải. Năm vừa rồi trong Đồng Nai dâu tằm khá lắm.
Vợ tôi ở nhà trúng mùa tằm phải nói luôn. Nhưng tơ không bán được. Nhưng có
người lái ở cửa hàng tơ rủ tôi ra đây chơi. Trước là cho biết xứ người, sau là
bán tơ luôn thể. Mà hôm nay chưa bán được.
Ông quan tuy nghe danh ông Ó nổi tiếng nói láo, song thấy
ông có vẻ nói thiệt bèn bảo:
- Vậy thì tôi cho thằng nhỏ này theo ông dắt đến nhà để
vợ tôi mua giúp cho.
Ông Ó bằng lòng. Viên quan khấp khởi mừng thầm. Tự nhiên
mình kiếm được mối hàng, phen này phải ép giá để mua rẻ mới được. Ông Ó đi với
tên hầu một đoạn rồi quay lại nói:
- Thôi chú về và bẩm ông biết ông Ó nói láo đó, không có
tơ nào đâu.
9. TÔI LÀ DÂN MẦN ĂN MÀ
Sau mấy lần mắc mưu ông Ó, quan huyện Cái Quao cho ông Ó
lên để phạt tội vì đã gạt quan. Vừa thấy ông ó bước vào công đường, quan đập
bàn quát lớn:
- Lính đâu, trói ông già này lại. Đánh ông ta mấy chục
roi vì tội gạt quan nghe chưa.
Ông Ó phân trần:
- Tôi biết tôi có tội với quan. Nhưng quan biểu tôi nói
láo tôi mới nói chớ bộ. Tự dưng tôi đâu dám gạt quan. Thiệt khổ, nhà tôi đơn
chiếc, mong quan soi xét.
Nghe vậy, quan biểu:
- Ông chỉ biết nói láo chớ mần chi?
Thấy quan đã dịu giọng, ông Ó đã nhẹ nhàng:
- Trời đất ơi! Tôi là dân mần ăn thiệt mà, sáng nay quan
đòi sớm quá, phải chi tôi đã bắt được con cua đinh rồi. Hồi sớm, đi ngang qua
chỗ tôi, tôi thấy con cua đinh đang dập dềnh, lúc nổi lúc chìm nhưng không vơ
nó được vì nó lớn quá. Tôi không dám lội xuống để bắt sợ chậm đến công đường.
Nghe nói cua đinh, quan mừng lắm: “ta phải bảo ông già
này bắt cua đinh để nhậu. Nghe mấy ông thầy thuốc bảo cua đinh quý lắm”.
Quan có vẻ rộng lượng:
- Thương ông là dân mần ăn, ta không nỡ bắt tội. Chiều
nay ông nhớ bắt cho ta cua đinh nghe.
Ông Ó vâng dạ liên hồi rồi ra về. Quan huyện chờ dài cổ
mấy ngày mà cũng không thấy ông Ó đâu. Lúc này, ông mới biết là mình bị lừa.
TRUYỆN TRẠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI CAO TIÊU
Biên tập:
HỒ PHƯƠNG
Sắp chữ:
HUỲNH MINH HƯNG
Sửa bản in thử: ĐỖ KIM NAM
Trình bày bìa: HẠ VINH THI
IN 700 CUỐN, KHỔ 13X19, TẠI XƯỞNG IN NHÀ XUẤT BẢN THỐNG
KÊ
GP SỐ:75/25 QLXB - CXB CẤP NGÀY 12 THÁNG 01 NĂM 2005
NXB THANH HÓA CẤP TRÍCH NGANG NGÀY 16 THÁNG 03 NĂM 2005
IN XONG VÀ NỘP LƯU CHIỂU QUÝ II NĂM 2005.
0 comments:
Đăng nhận xét