MƯU TOAN THÂM HIỂM VỀ NGUỒN GỐC
NGƯỜI VIỆT:
TRUNG QUỐC NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
PHỤC VỤ MƯU ĐỒ CHÍNH TRỊ
Những năm qua, giới sử học Trung Quốc đã và đang
ráo riết tiến hành các nghiên cứu nhằm phục vụ âm mưu bành trướng lãnh thổ, lấn
chiếm Biển Đông. Cho rằng Việt Nam là trở ngại lớn nhất ngăn cản âm mưu đó, gần
đây Trung Quốc một mặt công kích lập trường của Việt Nam coi Hoàng Sa, Trường
Sa là của mình, một mặt tìm cách lôi kéo nước ta «trở về» «đại gia đình Bách
Việt».
Một số hướng dẫn viên du lịch người Trung Quốc
khi dẫn du khách nước họ thăm nước ta đã ra sức tuyên truyền thuyết VN ngày xưa
vốn thuộc Trung Quốc, sau tách ra thành một quốc gia.
Trong Lời giới thiệu bài «Tổ tiên người Trung Quốc là ai»
của ông Hà Văn Thùy có viết: Theo ông Thùy…. những khảo cứu sai lầm và xuyên
tạc sự thật của học giới Trung Quốc, cho rằng người từ châu Phi tới Hoa lục làm
nên cộng đồng Bách Việt mà người Hán là trung tâm, còn Việt Nam là đám ly khai
khỏi đất mẹ. Từ ý tưởng này, báo chí Trung Quốc có lần kêu gọi người Việt Nam
“lãng tử hồi đầu” (đứa con đi hoang trở về nhà). Ông Thùy cho rằng đáng buồn là
người Việt Nam không hiểu chiều sâu của ý tứ này. [1]
Vì sao Trung Quốc lại gọi Việt Nam là "đứa
con đi hoang" và kêu gọi Việt Nam hãy "trở về nhà"? Phải chăng Trung
Quốc muốn nhắc nhở người Việt Nam nhớ rằng tổ tiên các người vốn là một bộ phận
trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc, sống trên đất Trung Quốc, về sau lợi
dụng cơ hội Trung Quốc có rối loạn, Việt Nam tách riêng thành một quốc gia độc
lập ; nay đã đến lúc Việt Nam nên ăn năn hối lỗi trở về với đại gia đình xưa
kia, chớ nên chống lại chính sách Biển Đông của Trung Quốc?
Qua đây có thể thấy một số học giả Trung Quốc
đang lợi dụng những tư liệu sử học tù mù về cộng đồng Bách Việt và Lạc Việt xa
xưa, nhất là sự nhập nhèm giữa người «Việt» trong Bách Việt với người Việt Nam,
và sự phụ thuộc của giới sử học Việt Nam vào các thư tịch cổ Trung Hoa để dẫn
dắt dư luận Trung Quốc, Việt Nam và thế giới hiểu sai về mối quan hệ Trung Quốc
- Việt Nam thời cổ đại, cho rằng Việt Nam thời xưa vốn là một bộ phận của Trung
Quốc, có quan hệ khăng khít phụ thuộc vào chủng tộc và văn hóa Trung Quốc ; mối
quan hệ lịch sử lâu đời đó định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện
nay là phải thân Trung Quốc.
Nước ta thời cổ chưa có chữ viết, cho nên chưa có
sử ; mọi chuyện của thời tiền sử ấy đều là truyền thuyết, thuộc loại dã sử,
huyền sử.
Sau khi một cựu tướng của nhà Tần là Triệu Đà
chiếm Việt Nam (khoảng năm 203 TCN, có tài liệu nói 179 TCN), nhân cơ hội dân
ta buộc phải học chữ Hán, tổ tiên ta đã biến chữ Hán thành chữ Nho, tức chữ Hán
đọc theo âm tiếng Việt, nhờ thế người Việt Nam có chữ viết để dùng vào các việc
giao tiếp bút đàm với người Trung Quốc, học văn minh Trung Quốc, viết văn thơ,
chép sử, giao dịch hành chính, dạy học... Giới sử học Việt Nam thời xưa chỉ
biết chữ Hán, chỉ tham khảo các thư tịch Trung Quốc, cho nên sử sách nước ta không
thể không chịu ảnh hưởng của sách sử Trung Quốc ; ví dụ quan điểm cho rằng dân
tộc Việt Nam là một bộ phận của cộng đồng Bách Việt...
Dưới đây nêu một ví dụ cho thấy giới sử học Trung
Quốc đang tiến hành «nghiên cứu khoa học» nhằm phục vụ chính sách bành trướng
của chủ nghĩa Đại Hán.
Năm 2016, truyền thông Trung Quốc đưa tin về một
đề tài nghiên cứu khoa học có tên «Nghiên cứu Phương quốc Lạc Việt» [2] do sử
gia nổi tiếng Trung Quốc là Lương Đình Vọng chỉ đạo.
Bản tin của một trang mạng Trung Quốc viết :
Cuộc tranh chấp Nam Hải [Việt Nam gọi là Biển
Đông] không vì Phán quyết của Tòa án Quốc tế La Haye [tức phán quyết về Biển
Đông của Tòa Trọng tài PCA năm 2016] mà thay đổi hiện trạng ; phía Trung Quốc
vẫn không ngừng dùng các sự thực lịch sử để trình bày chủ quyền không thể tranh
cãi của Trung Quốc đối với vùng lãnh thổ này.
Giáo sư Lương Đình Vọng tiến hành nghiên cứu
Phương quốc Lạc Việt trong điều kiện khó khăn và dưới sức ép lớn, ví dụ sách
«Sử cổ đại Việt Nam» do Việt Nam xuất bản tuyên bố thủy tổ người Việt Nam là
Hùng Vương từng khai phá phần lớn vùng Quảng Tây, và lên án Tần Thủy Hoàng là
kẻ xâm lược.
Để phản bác luận điệu kể trên của phía Việt Nam,
Lương Đình Vọng dựa vào niềm tin «Phải giữ gìn lãnh thổ quý giá tổ tiên ta để
lại cho chúng ta» đã tiến hành dự án kể trên với phương châm «dốc hết sức mình
bảo vệ sự nguyên vẹn lãnh thổ của Trung Quốc».
Nhóm nghiên cứu Lương Đình Vọng đã sử dụng các
tài liệu điều tra điền dã và các ghi chép trong thư tịch cổ cũng như các di vật
khảo cổ khai quật được, kết hợp nghiên cứu các sách «Hán thư», «Sử ký», «Dật
chu thư»…
Lương Đình Vọng (Liang Tingwang 梁 庭 望 ) sinh
1937, dân tộc Tráng [ta gọi là Choang], nguyên Phó Hiệu trưởng trường Đại học Dân
tộc trung ương, giáo sư, sử gia nổi tiếng chuyên về văn hóa lịch sử các dân tộc
thuộc ngữ tộc Tráng-Đồng [3], tức ngữ tộc của tộc Lạc Việt.
Tuy đã lập Nhà Bảo tàng Lạc Việt ở Liễu Châu,
trưng bày hàng nghìn hiện vật khảo cổ cùng các thành tựu nghiên cứu văn hóa Lạc
Việt nhưng người Tráng vẫn triển khai các nghiên cứu quy mô lớn về tổ tiên họ.
Lương Đình Vọng dẫn đầu công việc này.
Sau 8 năm tiến hành, năm 2016 đề tài «Nghiên cứu
Phương quốc Lạc Việt» đã hoàn thành. Kết quả nghiên cứu in thành bộ sách 2 tập
cùng tên « 骆 越 方 国 研 究 » (xuất bản 4/2018) [chúng tôi hiện có 2 tập này] .
Nhóm nghiên cứu đã chứng minh vùng Đại Minh Sơn ở
gần Nam Ninh là địa điểm sở tại của Phương quốc Lạc Việt. Vùng đất này rất
rộng, gồm các phần đất phía nam sông Tây Giang, tây nam Quảng Đông, các quần
đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa, Trung Sa (Việt Nam gọi là Pratas, Hoàng Sa, Trường
Sa, bãi ngầm Macclesfield), một thời từng quản lý đến các quận Giao Chỉ và Cửu
Chân, tức toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thời đó.[4]
Nhóm nghiên cứu còn chứng minh người Lạc Việt
từng giương buồm đi đến tận châu Mỹ và là chủ lực khai phá « con đường tơ lụa
trên biển » đi về phía tây. Trạm dừng đầu tiên của họ là đông bắc đảo Sumatra
(Indonesia). Trạm thứ 2 ở gần Bago (Myanmar). Trạm thứ 3 ở ven sông Ayeyarwady
(Myanmar). Trạm thứ 4 và 5 tại Ấn Độ, Malaca, Sri Lanka. Con đường này kéo dài
tới Tanzania ở châu Phi.
Kết luận quan trọng nhất mà công trình nghiên cứu
này đưa ra là:
Ngay từ thời Thương-Chu (khoảng năm 1300 TCN), tổ
tiên chung của các dân tộc thuộc ngữ tộc Tráng-Đồng là người Lạc Việt đã xây
dựng một chính quyền địa phương gọi là «Phương quốc Lạc Việt» ở vùng Lĩnh Nam
[5], và tuân theo lệnh của các vương triều trung ương, «Phương quốc» này đã
khai phá và quản lý vùng Lĩnh Nam và Nam Hải.
Ở đây "vương triều trung ương" là vương
triều của người Hoa Hạ (về sau gọi là người Hán) ở vùng Trung nguyên (vùng hạ
lưu Hoàng Hà, nghĩa hẹp là tỉnh Hà Nam hiện nay). Quản lý có thể hiểu là cai
trị.
Theo kết luận trên, 8 dân tộc thuộc ngữ tộc
Tráng-Đồng (Tráng, Đồng, Bố Y, Lê, Thái, Thủy, Mục Lão, Mao Nam) là hậu duệ của
người Lạc Việt và từ 3300 năm trước họ đã tổ chức một nhà nước (Phương quốc) ;
nhà nước này tuân theo lệnh của các vương triều Hoa Hạ đã khai phá và cai trị
vùng Lĩnh Nam cũng như Biển Đông.
Thiết nghĩ nhận định này ít nhất có ba điểm cần
lưu ý :
1- Từ năm 1300 TCN vùng Lĩnh Nam, trong đó có Việt
Nam, chịu sự cai trị của Phương quốc Lạc Việt và các vương triều Hoa Hạ. Như
vậy nghĩa là thời kỳ Bắc thuộc của Việt Nam bắt đầu sớm 1100 năm và kéo dài
2300 năm – một thời gian quá lâu đủ để dân tộc ta bị đồng hóa. Điều này trái
với quan điểm của sử học Trung Quốc và Việt Nam cho rằng chỉ sau khi bị Triệu
Đà chiếm [203 TCN], nước ta mới bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm.
2- Từ 3300 năm trước, người Lạc Việt đã khai thác
và quản lý Biển Đông. Điều này mâu thuẫn với quan điểm của sử học Trung Quốc
cho rằng người Trung Quốc chậm chinh phục biển, 1500 năm trước mới có chuyến
thám hiểm hàng hải đầu tiên của Trịnh Hòa (1405-1433).
3- Dân tộc Việt Nam không thuộc ngữ tộc
Tráng-Đồng (vì tiếng Việt thuộc ngữ hệ Môn-Khmer, khác ngữ hệ Hán-Tạng), do đó
không phải là hậu duệ của người Lạc Việt. Điều này mâu thuẫn với quan điểm của
chính Lương Đình Vọng khi ông cho rằng cuối thời Chiến Quốc (khoảng 220 TCN)
một bộ phận người Lạc Việt di cư về phía nam đến Việt Nam, lập ra nước Âu Lạc,
là tổ tiên của người Kinh Việt Nam và làm nên nền văn hóa Đông Sơn - tức ông
cho rằng người Việt Nam là hậu duệ của người Lạc Việt. Quan điểm này trái với
một sự thật là khi Trung Quốc chiếm Việt Nam (203 TCN) bắt dân ta học chữ Hán,
tổ tiên ta đã Việt hóa được phần ngữ âm của chữ Hán, biến nó thành chữ Nho.
Điều đó chứng tỏ thời ấy tiếng Việt đã phát triển
tới mức tổ tiên ta có thể đặt cho mỗi chữ Hán một cái tên tiếng Việt, - nghĩa
là cũng chứng tỏ người Việt đã có từ hàng nghìn năm trước ; tiếng Việt là ngôn
ngữ do người Việt cổ - một dân tộc bản địa (như người Mường), không phải người
nơi khác di cư đến - sáng tạo nên. Nếu người Việt Nam là người Lạc Việt di cư
thì hiển nhiên người Việt Nam phải nói một thứ tiếng của ngữ tộc Tráng-Đồng,
chứ sao lại nói tiếng Việt thuộc ngữ hệ Môn-Khmer ở phương Nam xa tít? Ngôn ngữ
là linh hồn của một dân tộc; các dân tộc khác nhau chủ yếu ở ngôn ngữ và ngôn
ngữ rất khó biến đổi theo thời gian. Dân tộc Việt Nam có ngôn ngữ và phong tục
khác hẳn dân tộc Tráng hậu duệ của tộc Lạc Việt cổ Trung Quốc, riêng điều đó đã
chứng tỏ dân tộc ta không có chung nguồn gốc với dân tộc Tráng. [năm 1951-52,
chúng tôi sống trong làng của người Tráng thấy họ có những phong tục rất lạ,
như cha mẹ chết, họ không chôn ngay mà để nằm hàng tháng trong quan tài đặt
ngoài vườn đầu nhà, chúng tôi hàng ngày đi qua phải bịt mũi chạy cho nhanh vì
nước màu vàng chảy từ quan tài ra rất hôi thối. Họ cũng không có tục đào giếng
lấy nước, mà ăn uống nước ao xanh rêu....].
Dư luận Trung Quốc cho rằng kết luận của dự án «Nghiên
cứu Phương quốc Lạc Việt» có ý nghĩa tượng trưng cho sự giữ gìn chủ quyền lãnh
thổ của Trung Quốc. Chính Lương Đình Vọng đã nói Trung Quốc muốn giải quyết vấn
đề Nam Hải (tức độc chiếm Biển Đông) thì phải coi trọng nghiên cứu văn hóa Lạc
Việt, điều đó "có liên quan tới an ninh văn hóa quốc gia, an ninh vùng
biển và lãnh thổ Trung Quốc ". Để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc ở Nam
Hải, ngoài việc xây dựng lực lượng hải quân hiện đại còn phải tăng tốc nghiên
cứu văn hóa lịch sử, đặc biệt văn hóa Lạc Việt. Ý kiến này hoàn toàn ăn nhập
với chủ trương Trung Quốc có chủ quyền bên trong «Đường 9 đoạn» , tức âm mưu
chiếm 90% Biển Đông.
Theo chúng tôi, kết luận nghiên cứu nói trên chỉ
là sự hưởng ứng chính sách bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán thời nay, mâu
thuẫn với quan điểm trước đây của sử học Trung Quốc.
*
Để xem xét mối quan hệ giữa người Việt Nam với
người Lạc Việt, thiển nghĩ có thể xem xét mối quan hệ giữa dân tộc ta với dân
tộc Tráng tự nhận là hậu duệ của người Lạc Việt.
Dân tộc Tráng hiện có 18 triệu người, là dân tộc
thiểu số lớn nhất ở Trung Quốc. Trước kia họ có tên chữ Hán là 僮, chữ này có
hai âm đọc là [zhuàng] và [tóng], khi đọc [tóng] thì có nghĩa «đầy tớ trẻ con»,
dễ gây hiểu lầm. Vì thế năm 1965 Thủ tướng Chu Ân Lai đề nghị đổi 僮 thành 壯
[zhuàng] với nghĩa «cường tráng».
Năm 221 TCN quân nhà Tần chia 5 lộ xâm chiếm vùng
Lĩnh Nam, riêng lộ quân phía Tây gặp sự chống trả của tổ tiên người Tráng, mãi
đến năm 214 TCN nhà Tần mới chiếm được toàn bộ Lĩnh Nam.
Trước đây giới sử học Trung Quốc cho rằng người
Tráng không có chữ viết, tới đời Đường-Tống mới có một loại chữ vuông dựa trên
cơ sở chữ Hán. Nhưng loại chữ này mỗi vùng một khác nên khó sử dụng ; trên thực
tế người Tráng chủ yếu vẫn dùng chữ Hán. Năm 1955, Nhà nước Trung Quốc làm ra
một loại chữ Tráng trên cơ sở chữ cái Latin; hiện đã được dùng rộng rãi. Qua
mấy chữ Tráng in trên đồng bạc Trung Quốc [6], có thể thấy tiếng Tráng khác
tiếng Việt Nam.
Các phát hiện khảo cổ gần đây cho thấy khoảng
4000 năm trước người Lạc Việt đã có chữ viết, cùng thời với chữ Hán. Tháng
10/2011 tại thành cổ Cảm Tang (Gansang) Quảng Tây phát hiện thấy nhiều tấm đá
và mảnh xẻng đá lớn khắc chữ cổ. Các chuyên gia chữ viết Trung Quốc, trong đó
có Lương Đình Vọng, xác định đó là văn tự cổ của người Lạc Việt. Hội trưởng Hội
Nghiên cứu văn hóa Lạc Việt Tạ Thọ Cầu nói đây là loại chữ biểu ý. Khám phá nói
trên chứng tỏ người Lạc Việt từng có một nền văn minh sán lạn. [nhưng chưa thấy
nói về việc đã giải mã được các chữ cổ ấy hay chưa].
Trong 55 dân tộc thiểu số của Trung Quốc cũng có
dân tộc Việt Nam, mà Trung Quốc gọi là dân tộc Kinh, hiện có khoảng 22.000
người, sống ở 3 đảo nhỏ ngoài biển Quảng Tây. Họ nói tiếng Việt Nam, viết chữ
Quốc ngữ, khác ngôn ngữ Tráng, tuy cũng phổ biến dùng Hán ngữ. Họ vốn là dân
đánh cả Việt Nam sống ở Đồ Sơn Hải Phòng, thời xưa đánh cá biển xa, do bị bão
phải tạm trú ở 3 đảo trên, lâu đời trở thành một dân tộc cuả Trung Quốc. [cuối
năm 2018 chúng tôi sang Quảng Châu mới biết vùng Quảng Châu Loan ngày xưa là
đất thuộc Pháp!]
Theo nghiên cứu của Lương Đình Vọng, dân tộc
Tày-Nùng ở Việt Nam chính là con cháu của người Lạc Việt thời xưa di cư sang.
Họ nói một thứ tiếng khác tiếng Việt và có phong tục tập quán khác người Việt.
Tóm lại có thể thấy dân tộc Việt Nam không có mối
quan hệ gần gũi về ngôn ngữ và phong tục tập quán với dân tộc Tráng tự nhận là
hậu duệ chính gốc của người Lạc Việt.
*
Trong tình hình giới học giả Trung Quốc ráo riết
tiến hành các nghiên cứu nhằm phục vụ dã tâm bành trướng của Bắc Kinh, thiển
nghĩ giới sử học nước ta nên triển khai công tác nghiên cứu tương ứng nhằm bác
bỏ các kết luận vô lý của họ. Chúng ta cũng cần bàn thảo đi tới kết luận xác
định dân tộc Việt Nam có phải là hậu duệ của người Lạc Việt hay không. Vấn đề
này rất hệ trọng, bởi lẽ nếu là người Lạc Việt thì người ta có thể suy ra, như
cách nghĩ của người Trung Quốc hiện nay, vùng đất tổ tiên người Việt Nam từng
sống là thuộc lãnh thổ Trung Quốc, sau đó Việt Nam tách ra thành một quốc gia
độc lập.
----------
Ghi chú:
[1] http://nghiencuuquocte.org/.../to-tien-nguoi-trung-quoc.../
[2] Các
thực thể chính trị độc lập ở Trung Quốc thời xưa chia làm 3 loại. Cổ quốc là
quốc gia nguyên thủy kiểu Thành-bang thời kỳ đầu, cao cấp hơn bộ lạc. Sau đó
tiến sang thời kỳ Bang quốc rồi đến thời kỳ Phương quốc, tương đương đời
Thương-Chu, khi Trung Quốc có chữ viết trên mai rùa. Phương quốc đầu tiên xuất
hiện trước đời nhà Hạ. Lạc Việt cổ quốc (chữ Tráng Latin là Luegvet) do người
Lạc Việt xây dựng tại vùng Lĩnh Nam; phạm vi lãnh thổ: phía bắc từ lưu vực sông
Hồng Thủy (Quảng Tây), phía tây từ đông nam cao nguyên Vân Nam-Quý Châu, phía
đông đến Lôi Châu ở đông nam Quảng Đông, phía nam đến đảo Hải Nam và lưu vực
sông Hồng Việt Nam. Nguồn gốc và trung tâm của văn hóa Lạc Việt là ở Trung Quốc,
kinh đô ban đầu ở Vũ Minh (Đại Minh sơn, Nam Lộc) Quảng Tây.
[3] Ngữ tộc là
nhóm các dân tộc có ngôn ngữ giống nhau. Ngữ tộc Tráng-Đồng ( 壮 侗 语 族
Zhuang-Dong group) gồm các dân tộc Tráng, Đồng, Bố Y, Lê, Thái, Thủy, Mục Lão,
Mao Nam (壮, 侗, 布 依, 黎, 傣, 水, 仫 佬, 毛 南). Ngôn ngữ của ngữ tộc này thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
Thời xưa một bộ phận người Tráng di cư sang Việt Nam, làm nên dân tộc Tày-Nùng
( 岱 侬 ), hiện có 2,7 triệu người, là dân tộc thiểu số đông nhất ở Việt Nam.
[4] Trong sách
"Đất nước Việt Nam qua các đời", sử gia Việt Nam Đào Duy Anh dựa thư
tịch cổ viết : quận Giao Chỉ phủ kín Bắc Bộ, trừ vùng thượng lưu sông Đà và
thượng lưu sông Mã, ăn sang cả vùng tây nam Quảng Tây ngày nay. Góc tây nam
Ninh Bình là địa đầu quận Cửu Chân (nay là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Về sau
nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam ở phía nam quận Cửu Chân (từ đèo Ngang đến Bình
Định). (Theo wikipedia).
[5] Lĩnh Nam là
vùng đất ở phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh, thời nhà Đường là khu vực hành chính có
tên Lĩnh Nam Đạo, do vương triều Trung Quốc cai trị, trong đó có cả đồng bằng
Bắc Bộ Việt Nam, đến thời Ngũ Đại (khoảng năm 900) thì Việt Nam độc lập tách
ra.
[6] Dòng chữ
Trung Quốc Nhân dân Ngân hàng (Zhongguo Renmin Yinhang) và 100 Yuan (Yi bai
Yuan), chữ Tráng Latin viết là Cunghgoz Yinzminz Yinzhangz và it bak maenz.
Ảnh: Lương Đình
Vọng đang báo cáo "Thành quả nghiên cứu văn hoá Lạc Việt"
Nội dung bảng
điện tử trong ảnh như sau:
"Thành quả
nghiên cứu văn hoá Lạc Việt":
- Lĩnh Nam thời
Tiên Tần là lãnh thổ của vương triều trung ương thời Thương-Chu, chứ không phải
là sau khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Lĩnh Nam rồi thì Lĩnh Nam mới gia nhập bản
đồ Trung Quốc;
- Lĩnh Nam thời
Tiên Tần đúng là có tồn tại Phương quốc Tây Âu và Phương quốc Lạc Việt. Thời
gian lập quốc của 2 Phương quốc này đại để vào thời kỳ cuối đời nhà Thương, tức
khoảng năm 1300 TCN;
- Phương quốc
Lạc Việt là do người Lạc Việt, tức tổ tiên chung của các dân tộc Tráng, Bố Y,
Đồng, Mục Lão, Lê, Tái [dải], Thuỷ, Mao Nam xây dựng nên.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:
*
NGUYỄN HẢI HOÀNH
Địa chỉ: phố Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà
Nội.
........................................................................................
- Cập nhật từ
email: quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 17.04.2021
- Ảnh dùng minh
họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết
không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét