MỘT CHÚT VỀ THƠ CỦA NHÀ THƠ THÍCH TUỆ SĨ - Tác giả: Nguyễn Thế Duyên (Hà Nội)

Leave a Comment

 


MỘT CHÚT VỀ THƠ

CỦA NHÀ THƠ THÍCH TUỆ SĨ

*

(Tác giả Nguyễn Thế Duyên)

Đã bao giờ bạn nghe nhạc không lời? Đừng suy nghĩ gì cả, nhắm mắt lại và thả hồn cho nó quay về bản ngã của chính mình. Hãy để cho hồn mình bồng bềnh trôi trên những con sóng của âm thanh mà đừng hỏi “NÓ là cái gì?”. Nó không là gì cả hoặc giả, nếu bạn là người có đầu óc logic một cách mạnh mẽ muốn hiểu biết đến tận cùng tất cả những sự việc thì có thể trả lời với bạn rằng: Nó không là gì cả hoặc có thể nó là bất cứ thứ gì? Tất cả những gì bạn có thể nghĩ ra để tương ứng với bản nhạc đó đều chinh là nó đấy

Có người hỏi tôi: Thơ siêu thực nghĩa là gì? Anh hãy phân tích một bài thơ siêu thực của Hàn mặc tử để cho tôi thấy được cái hay, cái đẹp của bài thơ thử xem” Tôi chịu! Và trong tôi luôn luôn trăn trở một câu hỏi: “Thơ siêu thực là gì? Nó hay ở đâu?” Mãi tôi không trả lời được câu hỏi đó cho đến tận hôm nay khi đọc tập thơ mỏng của thiền sư Tuệ sĩ tôi chợt bừng tỉnh.

Âm nhạc chính là siêu thực đấy. Âm thanh không có hình hài thế nhưng ta vẫn có thể nhìn thấy nó nhưng ta chỉ có thể nhìn thấy nó trong vô thức, trong bản ngã của chính mình. Phải tách nó ra khỏi lí trí đừng hỏi “Nó là cái gì?” Vì khi câu hỏi ấy bật ra chính là lúc tất cả cái hay, cái đẹp đều biến mất và trong ta chỉ còn lại một mớ hỗn độn.

Có một thứ rất gần với nhạc không lời đó chính là thơ siêu thực. Với thơ siêu thực bạn cũng đừng hỏi “Nó diễn tả cái gì?” Không ai có thể trả lời cho bạn điều đó vì nó chẳng là cái gì cả. Nó không có thực thì lấy gì để mà diễn tả?

Ta bay theo đốm lửa lập lòe

Chập chờn trên hoang mạc mùa hè

Khung trời nghiêng xuống nửa

Bên rèm nhung đôi mắt đỏ hoe

Thăm thẳm chòm sao Chức nữ

Heo hút đường về

Cái gì đây? Dù cho trí tưởng tượng của ta phong phú đến đâu thì ta cũng không thể nghĩ ra được một văn cảnh cho khổ thơ này vì chỉ có sáu câu thôi nhưng thi sĩ đã đưa ra ba hình tượng hoàn toàn độc lập với nhau. Nếu ta phân tích bài thơ này theo lối bẻ câu, chẻ chữ thông thường thì đây là một bài thơ vô nghĩa. Nhưng hay nhắm mắt lại khe khẽ đọc thầm (Chỉ đọc thầm thôi) trong đầu vài lần, ta sẽ thấy hình như có một hoang mạc mênh mông vô tận trải ra trong ta. Có những đốm sáng lập lòe, không phải là đom đóm, cũng không phải là những ánh sáng lân tinh mà có lẽ là những đốm sáng của ảo giác cứ chạy xa dần về phía một ngôi sao đục úa đang xuống thấp dần cuối đường chân trời, thăm thẳm như một ánh mắt. Thế thôi! Nhưng khi ta đọc đến câu cuối cùng “Heo hút đường về” thì tất cả những hình ảnh ấy chợt biến mất. Bốn từ ngắn và cộc của câu kết bài thơ đã làm lí trí của ta bừng tỉnh giấc và thế là hết!. Chỉ còn đọng lại trong ta một chút gì đó ngẩn ngơ luyến tiếc một không gian mênh mông, buồn tẻ và hoang vắng. Hư vô và tĩnh lặng. Nó ở đâu trong cuộc đời này? Ta đã bắt gặp nó chưa? Chưa đâu. Vì nó chỉ có trong tâm trạng của con người.

Tuệ sĩ là một thiền sư mà đạo hạnh đã vượt ra ngoài cõi tục nên không gian trong thơ ông luôn là một không gian mênh mông và vô định. Tôi chợt nhớ đến Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử cũng là một nhà thơ siêu thực nhưng khác với Tuệ Sĩ, Họ Hàn là người vẫn đang trong cõi tục với những khao khát cháy bỏng nên không gian trong thơ ông lại ngược lại nhỏ bé và sôi sục:

Đang khi màu nhiệm phủ ban đêm.

Có thứ gì rơi giữa khoảng im.

Rơi từ thượng tầng không khí xuống.

Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim

Cái “Khoảng im” của họ Hàn giông bão lắm nó không như cái tĩnh lặng của một thiền sư để rồi tiếng vang của một cái gì đó mà chính nhà thơ cũng không rõ nữa dội vào một con tim đang quằn quại đau khổ.

Chúng ta hãy thử xem xét đến một tình cảm khác của con người mà luôn được thi ca nhắc đến “Tình yêu” của hai nhà thơ siêu thực Hàn Mặc Tử và Tuệ Sĩ xem chúng có gì khác nhau và khác gì với chúng ta:

Giăng mộ cổ

Mưa chiều hoen ngấn lệ

Bóng điêu tàn

Huyền sử đứng trơ vơ

Sương thấm lạnh

Làn vai hờn nguyệt quế

Ôm tượng đài

Yêu suốt cõi hoang sơ.

            Tuệ sĩ.

Bài thơ này viết về tình yêu ư? Tôi đã nghi ngờ cái cảm nhận ban đầu của mình. Nhưng những từ “Hoen ngấn lệ” “Hờn nguyệt quế” và nhất là câu cuối “Yêu suốt cõi hoang sơ” đã buộc tôi phải quay lại cái nhận định ban đầu. Tôi lại dùng phương pháp cũ, nhắm mắt lại thầm đọc đi đọc lại bài thơ ở trong đầu. Trong tâm trí tôi hiện lên một mặt hồ thu trong vắt, tĩnh lặng. Nước chỉ gợn lên rất nhỏ theo cái cách mà Nguyễn Khuyến đã nói “Hơi gợn tí” và dưới đáy của cái hồ thu đó một hình bóng nhòe lắm không rõ nổi hình người lúc tan, lúc hợp theo những đường gợn của mặt hồ. Tôi bừng tỉnh. Tròi ơi đúng là tình yêu rồi. Nhưng đó là một tình yêu đã xa lắm rồi, xa đến cái mức không còn đủ cho một nỗi buồn, không còn đủ để thắp lên một nỗi nhớ. Nhưng nó vẫn đủ sức để làm gợn lên trên mặt hồ tĩnh lặng của một người đắc đạo những gợn sóng. Ôi! Tình yêu ấy quả thật là mạnh mẽ. Nó làm cho chữ “Xả” của một nhà sư đắc đạo không thành.

Ngược hẳn lại với cái tĩnh lặng trong tình yêu của Tuệ Sĩ, tình yêu của Hàn Mặc Tử là một tình yêu điên cuồng, cào xé và đau đớn. và thậm chí là muốn phá phách:

Ta căm với tiếng reo khô.

Ta buồn với liễu bên hồ ngẩn ngơ.

Ngông cuồng đi hái vần thơ.

Yêu đương rót nước để chờ trăng lên.

Bóng hằng trong chén nằm nghiêng.

Lả lơi tắm mắt làm duyên gợi tình.

Có lẽ họ Hàn và Tuệ Sĩ là hai thái cực ngược hẳn nhau trong thơ siêu thực. một bên là cái tĩnh lặng đến mênh mông, một bên là cái sục sôi gào thét.

Cảm nhận một bài thơ siêu thực quả thật là khó. Có lẽ, người ta chỉ có thể nói thích một bài thơ siêu thực nhưng để nói hay thì rất khó nói. Nhưng không phải lúc nào nhà thơ cũng viết trong trạng thái siêu thực. Thậm chí có những bài thơ mà ta không thể nói rõ được nó có phải là siêu thực hay không. Hàn Mặc Tử có rất nhiều bài thơ không phải là siêu thực. Và Tuệ Sĩ cũng vậy. Thí dụ như bài này:

Đạo sỹ soi hình bên suối

Quên đâu con mắt giữa đêm

Vội bước gập ghềnh khe núi

Vơi mòn triền đá chân chim.

Tôi không cho bài thơ này là siêu thực vì nếu dùng lí trí ta hoàn toàn có thể hiểu bài thơ này.

Người đạo sĩ này chưa thoát tục. khi ngồi nghỉ bên bờ suối cái tục xưa ùa về “Quên đâu con mắt giữa đêm”. Và người đạo sĩ trốn chạy chính mình “Vội bước gấp ghềnh khe núi” và đau đớn để nhận ra rằng cuộc trốn chạy chính mình đó là một quá trình đầy đau đớn và gian khổ “Vơi mòn triền đá chân chim”.

Nói “Thoát tục” chỉ là một cách nói thôi chứ làm sao thoát được tục. Là một con người, ai ai cũng gắn bó với đất nước, với quê hương, với dòng tộc, với gia đình. Làm sao mà thoát ra được. Và nếu như có một ai đó thoát ra được thật thì chắc chắn người ấy không thể làm thi sĩ. Chao ôi! Vừa là thi sĩ, vừa là thiền sư. Cái con người thi sĩ lôi ông quay về cõi tục, cái con người thiền sư đẩy ông ra ngoài cõi hư vô. Chữ “Xả” phải đâu ai cũng hiểu?. Con người ông như bị chẻ làm đôi. Cái đau đớn khiến cho câu thơ trở nên trúc trắc:

Chiều tôi về

em tô màu vàng ố

Màu bụi đường khô quạnh bóng

trăng

Đường ngã màu

bóng trăng vò võ

Em có chờ

rêu sạm trong đêm?

Và câu thơ cuối cùng làm cho lòng ta thắt lại. “Rêu sạm trong đêm”, mọi thứ chỉ có thể sạm đi dưới nắng mặt trời thiêu đốt. Chỉ có em, bụi rêu bé nhỏ, lại sạm đi trong sự thiêu đốt lúc đêm về.

Lên cao mãi

đường mây khép chặt.

Để xoi mòn

ảo tượng thiên chân.

Ồ, nguyệt quế!

trăng mờ đôi mắt.

Ồ, sao Em?

sao ấn mãi cung đàn.

Giai điệu cổ

thoáng buồn

u uất.

Xưa yêu Em

xao động trăng ngàn.

Tiếng đàn ấy cứ vang vọng mãi “Làm xói mòn” nhưng “ảo tượng thiên chân”. Còn gì đau đớn hơn một thân xác có hai con người cùng trú ẩn?

Tôi đã tìm hiểu về cuộc đời ông và được biết ông thuộc diện được chính quyền hiện nay liệt vào dạng “Bất đồng chính kiến”. Ông bị bắt và cầm tù nhiều năm và thậm chí đã từng bị kết án tử hình nhưng trong thơ ông tuyệt nhiên không có sự hận thù. Ông sợ và phải giấu kín sự thù hận của mình chăng? Tôi không nghĩ vậy. Một người đã từ chối đơn xin ân xá và dõng dạc nói với nhà cầm quyền: “Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi” thì người ấy hẳn không biết sợ. Thơ ông không có sự thù hận vì trong ông không có sự hận thù, chỉ có một chút gì đó nặng lòng với đất nước:

Ngoài biên cương

Cây cao chói đỏ

Chiến binh già cổ mộ

Nắng tắt chiến trường

Giọt máu quạnh hơi sương.

Một nỗi hoài cảm mang mác, vô định. Nó vô định vì trong cái hoài cảm này trong ông không có giới tuyến. Người chiến binh và ngôi cổ mộ có thể là bất cứ của phía nào. Phía nào cũng gieo vào lòng ông một hoài cảm mênh mông. Một chút tĩnh lặng để cho một ngọn cây vương màu đỏ của máu chói lên trong ánh chiều tà. Trong ông không có địch ta. Cái “BI” trong ông đã xóa nhòa ranh giới. Phải chăng dưới chân phật tổ, họ, những người đã chết vì chiến tranh tất cả đều là những chúng sinh lầm lạc? Nhưng ông chưa phải là người đã bước ra ngoài tam giới. nên ông vẫn là một thiền sư đất việt. Hai từ “Biên cương” đã nói cho ta điều đó. Trong ông không có giới tuyến nhưng vẫn còn có biên cương.

Đừng đọc thơ Tuệ Sĩ bằng cái đầu háo hức tìm kiếm một chút gì mới lạ vì thơ ông không hề có cái đó.

Đừng đọc thơ Tuệ Sĩ bằng con tim cuồng nhiệt đắm say vì thơ ông không có sự cuồng nhiệt mê dắm.

Thơ ông chỉ có sự tĩnh lặng. Hãy thả lỏng mình, từ từ đọc để cho sự tĩnh lặng ấy len lỏi vào trong hồn ta và ròi sẽ đến một lúc chính cái tĩnh lặng ấy lại làm cho hồn ta dậy sóng

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài phê bình, cảm nhận thơ0

- Các bài viết về Chuyện làng văn0

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l


Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ VỀ ĐI EM:

*.

NGUYỄN THẾ DUYÊN

Địa chỉ: số nhà 19 ngõ 695 phố Bạch Đằng,

Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

 

 

 

 

 

.............................................................................................................

- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 21.09.2023.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến      

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét