TRẬN CHIẾN CẦU KHÁNH KHÊ
VÀ GIỜ HỌC LỊCH SỬ
*
1. CÁCH TRUNG QUỐC DẠY MÔN LỊCH
SỬ. TỶ LỆ 8:1 VÀ PHÉP BIẾN HÌNH THÀNH TỶ LỆ 2:1 (Tác giả Nguyễn Ngọc Chu)
Không biết hiệp ước Thành Đô hạn
chế những điều gì, nhưng riêng về ca ngợi chiến thắng của quân giải phóng Trung
Quốc trong chiến tranh với Việt Nam thì phía Trung Quốc không có “làn ranh đỏ”.
Thời gian sẽ bóc dần sự thật.
Theo tiết lộ của phía Trung Quốc thì Trung Quốc đã lên kế hoạch tập trung tấn
công Việt Nam với tỷ lệ 8:1 trong cuộc chiến tranh tháng 2/1979.
Trung Quốc áp dụng chiến thuật
“biển người” theo phương châm của Mao là: “trong mọi trận đánh, tập trung một
lực lượng vượt trội tuyệt đối chống lại kẻ thù”. Bởi thế lãnh đạo Trung Quốc
yêu cầu các tướng lĩnh chỉ huy phái áp dụng chiến thuật “dùng đao mổ trâu để
giết gà” (niudao chaji).
Theo nguồn tin của Trung Quốc thì
vào giữa tháng 1/1979 Trung Quốc đã tập trung tại biên giới Trung – Việt hơn
320 000 quân chính quy, chiếm ¼ toàn bộ quân đội chính quy Trung Quốc. Chưa kể
đến lực lượng quân địa phương và dân quân.
Lãnh đạo Trung Quốc lệnh cho tám
quân đoàn trực tiếp tấn công ở 2 mặt trận Lào Cai và Lạng Sơn. Để một quân đoàn
dự bị. Trung Quốc thừa nhận chỉ riêng ở Quảng Tây đã huy động đến 26 000 dân
quân trực tiếp đánh trận và huy động 215 000 dân công phục vụ cho chiến trường.
Nhưng sau chiến tranh, vì bị
thương vong nặng nề (như Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận là gấp 4 lần Việt Nam),
lại không đạt được mục tiêu đánh nhanh thắng nhanh, nên Trung Quốc đã đổ lỗi
cho sự tính toán nhầm – rằng đã không đưa lực lượng dân quân của Việt Nam vào
thế trận hai bên. Trung Quốc đã thổi phồng số liệu của lực lượng dân quân của
Việt Nam, chỉ riêng ở Cao Bằng lên đến 40 000 - 50 000 người. Và Trung Quốc
tuyên truyền là tỷ lệ 2:1. Trung Quốc gọi đó là bài học sai sót về thống kê số
lượng quân đối phương, mưu toan che đậy sự thất bại nhục nhã về khả năng chiến
đấu của quân giải phóng Trung Quốc.
Chẳng ai tin vào số liệu tuyên
truyền của Trung Quốc - ngay chính cả người đọc tin và người đưa tin của Trung
Quốc. Vì họ biết, tìm hiểu sự thật ở Trung Quốc là tự mình tìm đến phiền phức,
lao tù và thậm chí là mất mạng.
Cho nên các hãng thông tấn và báo
chí Trung Quốc ra rả đưa tin làm bé nhỏ số thương vong của quân Trung Quốc.
Rằng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam tháng 2/1979, dù huy động đến 600
000 quân sĩ - thì số thương vong của binh lính Trung Quốc rất nhỏ bé, chỉ có 6
900 lính bị chết và 15 000 lính bị thương, tức là chỉ có 21 900 lính Trung Quốc
bị thương vong. Trong khi đó, các nguồn tin khác của Trung Quốc đưa ra là 25
000 lính Trung Quốc bị chết và 37 000 lính Trung Quốc bị thương. Tổng cộng là
có 62 000 lính Trung Quốc bị thương vong.
Con số là một chuyện. Hãy nhìn
đến thực tế tuyên truyền của Trung Quốc. Những thập niên 60 của thế kỷ 20, phim
ảnh và sử sách Trung Quốc luôn ngợi ca thắng lợi của quân giải phóng Trung Quốc
như là một đội quân “bách chiến bách thắng”. Tư liệu dẫn là những cuộc chiến
với quân đội Tưởng Giới Thạch trong cuộc rút chạy thảm bại núp dưới hai từ mỹ
miều “trường chinh”. Một phần nữa là ngợi ca quân đội Trung Quốc trong cuộc
chiến Triều Tiên – nơi Trung Quốc lúc cao điểm sử dụng đến 700 000 quân trong
tổng số 2,97 triệu lượt huy động quân nhân, để đối phó với 220 000 liên quân Mỹ
- Nam Hàn.
Từ thập niên 90 thế kỷ 20 cho đến
bây giờ, Trung Quốc ra rả đưa tin chiến thắng ở Lão Sơn (điểm cao 1509 núi Đất)
như là thắng lợi điển hình của quân giải phóng Trung Quốc. Vì trong cuộc chiến
tranh tháng 2/1979 Trung Quốc đại bại toàn bộ, không có một trận đánh nào có
thể đưa ra ca ngợi, nên Trung Quốc phải viện vào trận đánh ở Lão Sơn năm 1984.
Về Hải quân, Trung Quốc lấy trận
thảm sát dã man nã pháo từ tàu chiến vào 64 chiến sĩ công binh vây quanh cờ Việt
Nam làm chiến công ca ngợi. Đoạn phim thảm sát này được Trung Quốc đê tiện công
chiếu trong lịch sử của 70 năm Hải quân Trung Quốc.
Hãy hỏi bất kỳ học sinh phổ thông
nào của Trung Quốc, từ Nam Ninh ở Quảng Tây phia Nam cho đến Cáp Nhĩ Tân
(Habinh) ở Hắc Long Giang phía Bắc, không học sinh nào biết Trung Quốc xâm lược
Việt Nam tháng 2/1979, không học sinh nào biết 10 năm (1979-1989) Trung Quốc
đánh chiếm biên giới Việt Nam, mà chỉ biết Trung Quốc phản công tự vệ - chống
lại sự xâm lược của Việt Nam. Trong giảng dạy cho học sinh, từ sách giáo khoa
cho đến giáo viên đều truyền đi thông điệp rằng Việt Nam xâm chiếm Trung Quốc
và Việt Nam là lãnh thổ của Trung Quốc.
Cho đến bây giờ, hướng dẫn viên
du lịch người Trung Quốc vẫn tuyên truyền cho khách du lịch Trung Quốc đến Đà
Nẵng, rằng Đà Nẵng là của Trung Quốc. Đó là cách Trung Quốc dạy môn lịch sử.
Gần đây, vào năm 2009 Trung Quốc
chính thức đưa ra yêu sách đường chín đoạn hình chữ U. Dù năm 2016 Toà trọng
tài quốc tế PCA đã bác bỏ yêu sách của Trung Quốc, nhưng hình chữ U đã ngập
tràn trong sách giáo khoa và bản đồ Trung Quốc. Hình chữ U còn in chính thức
trong hộ chiếu Trung Quốc. Đó là cách Trung Quốc dạy môn lịch sử.
2. TRẬN CHIẾN CẦU KHÁNH KHÊ VÀ
GIỜ HỌC LỊCH SỬ
Trong một bức tranh tương phản,
khác với sự công khai rầm rộ của Trung Quốc, thì cuộc chiến tranh vệ quốc của
Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979 ít khi được nhắc đến trên
phương tiện truyền thông và trong sách báo. Nếu nhắc đến thì rất giản lược dưới
cái tên mập mờ Chiến tranh biên giới phía Bắc. Trong sách giáo khoa học sinh
phổ thông, không có nhiều dòng nói về chiến tranh tháng 12/1979 chống quân
Trung Quốc xâm lược.
Nhưng dẫu không có nhiều trong
sách giáo khoa, thì giáo viên dạy môn lịch sử vẫn có cách để dạy cho học sinh
biết về cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979. Học lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc thì không học sinh nào không thích. Nó cuộn chảy
trong máu. Nhưng thay vì được học những trang sử vẻ vang, những sự kiện hấp
dẫn, mà lại phải học những điều buồn tẻ - thì chán học lịch sử không phải là
lỗi của học sinh.
Cuộc chiến tranh chống quân Trung
Quốc xâm lược tháng 2/1979 là một chương sử hào hùng - cần được giảng giạy
trong trường học ngang bằng như các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm khác của
dân tộc. Cần hàng chục giờ học cũng không lột tả hết các khía cạnh của cuộc
chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979. Một trong những chủ đề
có thể cho giờ học lịch sử là Đoàn Khánh Khê – cánh cửa thép bảo vệ tổ quốc ở
mặt trận Lạng Sơn.
Đầu năm 1979, quân chủ lực của
Việt Nam phải tập trung cho chiến trường Campuchia, nên ở mặt trận Lạng Sơn chỉ
có sư đoàn 3 thuộc quân chủ lực. Bởi thế, ngay sau khi chiến tranh bùng nổ, sư
đoàn 337 của Quân khu 4 đã được điều động ra mặt trận Lạng Sơn. Sư 337 đã hành
quân thần tốc vượt 500 km từ Nghệ An ra Lạng Sơn. Là hậu duệ của vua Quang
Trung, trên đường hành quân sư 337 ôn lại lịch sử vẻ vang vua Quang Trung hành
quân đánh tan 20 vạn quân Thanh mùa xuân năm 1789. Đến chiều ngày 25/2/1979 sư
337 đã vào vị trí chiến đấu trên tuyến phòng thủ Khánh Khê - Điềm He - Tu Đồn
với khẩu hiệu: "Một tấc không đi, một ly không rời, đánh thắng ngay trận
đầu trên tuyến đầu Tổ quốc".
Trận chiến ở cầu Khánh Khê vô
cùng quan trọng cho việc phòng thủ Lạng Sơn và đã đi vào lịch sử là một trận
chiến oai hùng, bẻ gẫy mục tiêu xâm lược của quân Trung Quốc với số lượng đông
gấp 5-7 lần. Đại tá Đỗ Phấn Đấu, nguyên Chính uỷ sư đoàn 337 đã ghi lại như
dưới đây:
“Chiều ngày 26/2, bộ phận cảnh
giới của Trung đoàn 4 trong khi làm nhiệm vụ đã chạm trán địch ở phía Tây Nam
điểm cao 649, bộ đội ta đã nổ súng tiêu diệt địch và bắt được thám báo của
chúng ở Nhạc Kỳ. Đây là chiến công đầu tiên của Sư đoàn trong chống giặc xâm
lược trên tuyến biên giới phía Bắc.
Rạng sáng ngày 28/2, quân địch
bắt đầu tiến công trên toàn chính diện phòng ngự của Sư đoàn từ Khánh Khê đến
Điềm He, chúng áp dụng chiến thuật đầu nhọn đuôi dài, kết hợp đánh chính diện
và vu hồi, bao vây, chia cắt, ỷ thế đông quân ồ ạt bao vây tấn công ta. Sư đoàn
chỉ thị cho Trung đoàn 4 kiên quyết chặn đánh tiêu diệt địch với quyết tâm “một
tấc không đi, một ly không rời”; Điều Trung đoàn 52 cơ động phản kích địch
chiếm giữ cao điểm 559 - Ba Pách, đánh mạnh vào sườn trái của địch, yểm hộ cho
Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 4 giữ vững cầu Khánh Khê và cao điểm 649; lệnh cho cụm
pháo Trung đoàn 108 ở Đại An bắn vào đội hình địch chi viện cho Trung đoàn 4 và
Trung đoàn 52 chiến đấu.
Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt,
đặc biệt là ở điểm cao 649, cầu Khánh Khê, khu vực Pa Pách và điểm cao 559. Tại
điểm cao 649, địch dùng 1 tiểu đoàn bộ binh có hỏa lực yểm trợ ồ ạt tiến công
đánh chiếm điểm cao. Suốt ngày 28/2 và 1/3, địch tổ chức hàng chục đợt tiến
công. Nhưng đã bị Trung đội 1, Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, do Trung đội trưởng Trần
Minh Lệ chỉ huy đẩy lùi 18 đợt tiến công lớn nhỏ tiêu diệt hàng trăm tên địch
trứớc khi cả trung đội anh dũng hy sinh.
Với quyết tâm giành lại điểm cao
khống chế. Đồng chí Nguyễn Xuân Hòa, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 trực tiếp chỉ
huy Đại đội 11, vượt sông phản kích. Cuộc chiến đấu không cân sức lại diễn ra
vô cùng ác liệt nên đồng chí Nguyễn Xuân Hòa cùng phần lớn lực lượng Đại đội 11
đã anh dũng hy sinh ngay bên mép chiến hào quân địch.
Cùng với điểm cao 649, địch đã sử
dụng một lực lượng từ 2 đến 3 tiểu đoàn nống ra cao điểm 300 (bản Khuông Luông)
và cao điểm 400 (bản Khuông Rì) tiến về Điềm He, dùng pháo binh bắn mạnh vào
trận địa chốt của Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Bộ binh 4. Đây là hướng
phòng ngự chủ yếu của Trung đoàn. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Xuân
Hồng, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 và đồng chí Hà Đăng Ninh, Đại đội trưởng Đại
đội 2, bộ đội ta bám sát mục tiêu; xử lý kịp thời hậu quả của từng đợt pháo
kích; sau đó dùng 1 Đại đội, được hỏa lực chi viện giữ chốt; 2 Đại đội còn lại
tiến xuống sườn thung lũng, vu hồi đánh tạt sườn vào phía sau đội hình co cụm
của đối phương, tiêu diệt tại chỗ hơn 200 tên, phá hủy 1 khẩu ĐKZ, thu 1 khẩu
Trung liên, 4 CKC và một số quân trang, quân dụng khác của địch.
Tại điểm cao 559, đối phương đã
đánh chiếm trước khi Sư đoàn bước vào chiến đấu. Đây là một trong những điểm
cao lợi hại nhất mà đối phương dùng để khống chế điểm cao 649 và chốt đầu cầu,
giữ đường 1B từ Khánh Khê đi Đồng Đăng. Nhận thấy vị trí quan trọng này, chủ
trương của trên là quyết tâm phản kích đánh chiếm lại cao điểm 559, lực lượng
được sử dụng chủ yếu là Tiểu đoàn 6, Trung đoàn Bộ binh 52. 17 giờ ngày 1/3, ta
tổ chức tiến công. Các chiến sĩ Đại đội 10, Đại đội 11, Đại đội 12 của Tiểu
đoàn 6 chiến đấu anh dũng trong 5 giờ liền, tiêu diệt trên 300 tên. Sáng ngày 2/3,
ta tiếp tục đánh chiếm, trận chiến đấu kéo dài tới 21 giờ đêm, ta tiêu diệt hơn
350 tên địch, thu 1 khẩu ĐKZ và một số phương tiện chiến tranh khác, buộc đối
phương phải co cụm lại ở trên đỉnh.
Sau khi Tiểu đoàn 6, Trung đoàn
52 phản kích không thành, Sư đoàn điều Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 4 tổ
chức tiến công địch ở Pa Pách, đối diện chân cầu Khánh Khê. Đại đội 5 đã tổ
chức 3 mũi tấn công và chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do hỏa lực của địch mạnh
và khống chế từ trên cao, nên ta không đánh chiếm được, đồng chí Nạp, Đại đội
trưởng anh dũng hy sinh ở phía cánh trái cao điểm. Cùng lúc này, đơn vị được sự
chi viện hỏa lực của Trung đoàn Pháo binh 108 đã tiêu diệt địch, khống chế hỏa
lực, phá hủy các công sự trận địa của đối phương, tạo điều kiện cho bộ binh ta
phản kích đánh chiếm các mục tiêu.
Tại khu vực cầu và ngầm Khánh
Khê, sau khi đánh bật một phân đội của Trung đoàn 52 ở cao điểm Pa Pách, địch
sử dụng 3 tiểu đoàn lần lượt vượt cầu Khánh Khê sang phía Nam, nhưng đều bị Đại
đội 10 thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 4 và hỏa lực của ta đánh bật trở lại. Cuộc
chiến đấu giằng co, quyết liệt giữa một bên là bộ đội ta quyết giữ cầu và đối
phương quyết vượt cầu kéo dài suốt nhiều ngày, quân địch bị thiệt hại nặng. Về
phía ta, Đại đội 10 cũng bị tổn thất khá nặng, 2 lần phải thay đại đội trưởng,
3 lần thay chính trị viên, nhưng “chốt” trận địa Khánh Khê vẫn được giữ vững.
Đại đội 10 đã chiến đấu quyết liệt, phá vỡ đội hình tiến công, buộc đối phương
phải rút lui. Trước khi rút lui, đối phương đã dùng bộc phá đánh sập cầu Khánh
Khê để ngăn chặn ta truy kích. Chiến công này góp phần để Sư đoàn hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ chặn đứng và đánh bại mũi vu hồi chiến dịch của đối phương.
Trên hướng Nhạc Kỳ, huyện Văn
Lãng, chiều ngày 23/2, khi quân địch tiến công, Tiểu đoàn 2 đã cùng lực lượng
của Trung đoàn 12, Quân khu 1 bước vào chiến đấu, giữ vững trận địa, tạo thế
trận cho Trung đoàn Bộ binh 4 tổ chức chiến đấu ngay khi vừa đặt chân đến khu
vực đảm nhiệm từ 14 giờ ngày 25/2. Từ 27/2 đến 4/3, Tiểu đoàn 1 đã ngoan cường
chiến đấu, đánh lui hàng chục đợt tiến công, tiêu diệt hàng trăm tên địch, thu
nhiều vũ khí. Chính trị viên đại đội Nguyễn Văn Cúc, Đại đội trưởng Nguyễn Kim
Tượng, Tiểu đội trưởng Vi Văn Thắng; chiến sĩ Nguyễn Văn Phúc, Trần Quốc Thể đã
anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Sau 12 ngày đêm chiến đấu liên
tục, giành giật quyết liệt với địch từng tấc đất, chiến hào, Sư đoàn cùng các
đơn vị bạn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng ngự chiến dịch được giao góp
phần đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của địch. Sự hy sinh anh dũng đó mãi
mãi ghi danh vào lịch sử dân tộc như những bài ca bất tử.
Đó là Trung đội trưởng Trần Minh
Lệ đã anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; chiến sĩ Nguyễn Đức Nga, một
mình cũng xuất kích; Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Tình, bám trụ trận địa đến
cùng; Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Xuân Hòa anh dũng, mưu trí linh hoạt, luôn nêu
cao tư tưởng tiến công, tìm địch mà diệt; Tiểu đội trưởng Chu Minh Mỹ dũng cảm,
sáng tạo dùng súng máy 12,7mm đánh lui hàng chục đợt tiến công của địch trên
một hướng, diệt 63 tên địch tại cao điểm 649; Y tá Nguyễn Xuân Sang, vừa cứu
chữa thương binh vừa mưu trí tiêu diệt 12 tên địch tại cao điểm 649; Phó đại
đội trưởng Lê Tất Thắng, Chính trị viên Nguyễn Thái Hoà cùng bộ đội chiến đấu
đánh lui 16 đợt tiến công của một trung đoàn địch; Chiến sĩ thông tin Lê Đức
Thân mưu trí vượt qua vòng vây lửa đạn để truyền mệnh lệnh của cấp trên lên đơn
vị trên chốt, góp phần giữ vững trận địa…
Ngày 18/3/1979, quân xâm lược rút
về bên kia biên giới. Sư đoàn vinh dự được đón nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước và Quân đội như Tổng bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường
Chinh, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Đoàn Khuê... lên thăm, động viên,
khen ngợi. Sư đoàn 337 vinh dự được mang tên Đoàn Khánh Khê với 10 chữ vàng
truyền thống: “Khẩn trương - Nghiêm túc - Đoàn kết - Kiên cường - Quyết thắng”
(trích bài viết của đại tá Đỗ Phấn Đấu, nguyên Chính ủy sư đoàn 337,
http://baoquankhu4.com.vn/.../su-doan-337-canh-cua-thep-o...).
Không tuyên truyền để gây hận
thù, nhưng kỷ niệm ghi nhớ chiến công của của các chiến sỹ và đồng bào đã hy
sinh vì bảo vệ tổ quốc là điều phải làm. Không nên để cho kẻ xấu đục bỏ tấm bia
ghi công của Sư 337- Đoàn Khánh Khê anh hùng.
CHIA SẺ
Người thầy không chỉ dạy cho học
sinh theo sách giáo khoa. Nếu theo sách giáo khoa thì có nhiều học sinh tự học
mà không cần thầy giáo. Tầm sư học đạo là học cái ngoài sách giáo khoa.
Hai lý do làm cho đa phần học
sinh hiện nay không thích học môn lịch sử là vì nội dung sách giáo khoa và vì
thầy giáo. Trong đó lỗi của thầy giáo có phần lớn hơn. Thầy giáo đã không có
khả năng làm cho nội dung sách giáo khoa hấp dẫn hơn những chữ viết trong sách
giáo khoa; và đã không dạy cho học sinh điều nằm ngoài chữ viết của sách giáo khoa.
Minh chứng là vẫn có những giáo viên lôi cuốn học sinh khi dạy môn lịch sử.
Lịch sử là văn học, là địa lý, là
sinh học, là thiên văn học, là triết học, là số học… là toàn bộ cuộc sống quá
khứ. Vậy còn đòi hỏi gì nữa mà không hấp dẫn? Nếu học sinh không muốn học môn
lịch sử thì không thể là lỗi của học sinh.
Lịch sử dân tộc là di truyền của
tổ tiên - cuồn cuộn chảy trong dòng máu của mỗi con người. Dù sinh ra ở đâu -
cuối chân trời góc bể, ở trên đảo hoang vu, trong lạnh giá của băng tuyết, thậm
chí trong vỏ bọc của tàu vũ trụ trên mặt trăng hay trên sao hoả - thì con người
sẽ biết về tổ tiên, không quên nguồn gốc, nên tự mình mà ngộ được lịch sử.
Dù chỉ có mấy dòng hay thậm chí
không có dòng nào trong sách giáo khoa, thì vẫn có cách truyền đạt được toàn bộ
cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược tháng 12/1979 cho học trò.
----------
P/S:
Trong ảnh là Đại tá Đỗ Phấn Đấu, nguyên Chính ủy Sư đoàn 337, bên cạnh bia ghi
công Đoàn Khánh Khê bị đục bỏ một phần.
-------------
MỜI
NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
- Cuộc chiến tranh
biến giới 1979l
- Đặc khu 99 năm -
Tiếng nói của người Dânl
- Sách: Sự thật về
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qual
- Sử dụng vũ khí
sinh học quét sách nước Mỹl
- Cộng sản Trung
Quốc và Thế chiến thứ 3l
- Miếng bả Chủ nghĩa
Quốc tế Vô sản trong tay Trung Quốcl
- Tôi thấy.. (Thơ
Đặng Xuân Xuyến)l
*.
NGUYỄN NGỌC CHU
Địa
chỉ: Viện Toán Học-A5/18 Hoàng
Quốc Việt
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
.
......................................................................................................
- Cập nhật từ
email: quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 23.02.2021
- Bài viết không
thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi
rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
LỜI BỘC BẠCH CỦA NGHỆ SĨ THÀNH LỘC VỚI NHỮNG NGƯỜI MẾN MỘ
Trả lờiXóa"Hồi còn làm Ban Giám Khảo của VN’s Got Talent đến mùa thứ 2 thì có một bạn hâm mộ tại Hà Nội đã lấy chân dung tôi, Huy Tuấn, Thuý Hạnh và MC Thanh Bạch ghép vào hình ảnh nhóm thầy trò đường tăng Tam Tạng đi thỉnh kinh trong Tây Du Ký để bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Tôi có nói với bạn ấy (qua facebook thôi) rằng tôi cảm kích lòng ngưỡng mộ của bạn ấy dành cho chương trình và riêng BGK&MC, nhưng xin đừng ghép tôi vào cái nhóm văn hoá Trung Quốc vì tôi không muốn trông thấy hình ảnh chính mình lại khoác bộ trang phục của họ để cổ suý cho một nền văn hoá của một quốc gia đang xâm lấn lãnh thổ và làm hại người dân nước tôi mỗi ngày trên biển đảo!
Bạn ấy bảo tôi cực đoan, chính trị là chính trị mà nghệ thuật là nghệ thuật! Tôi nói trước đây tôi cũng đã từng nghĩ như vậy nhưng bây giờ thì không vì chính Trung Quốc cũng đã không nghĩ như vậy, họ là những kẻ xảo ngôn nên ta không cần phải tôn trọng và hãy lấy hình ảnh tôi ra khỏi bức ảnh ấy, người bạn này đã tỏ ra thất vọng và miệt thị tôi khá nặng! Lúc đó tôi có nghĩ chắc bạn này là một dư luận viên.
Trong đợt kỷ niệm cho sự kiện của một hội chuyên ngành về sân khấu, người ta muốn dựng lại một số vở kịch lừng danh của nhà hát sân khấu nhỏ 5B mà một thời tôi đã gắn bó tài nghệ mình nơi đó, chỉ là một đợt hoạt động mang tính sự kiện thôi nhưng trong đó có vở Lôi Vũ (tác giả Tào Ngu - Trung Quốc) mà tôi đã thành công nhiều với vai Chu Xung. Tôi từ chối tham gia cũng vì lý do trên, không thể khác!
Không thể viện lý do nghệ thuật khác với chính trị để chính mình tự làm tổn thương lòng tự trọng dân tộc của mình. Khi hai quốc gia còn là bạn bè tôn trọng chủ quyền của nhau thì nghệ thuật còn làm thăng hoa nhau được, chứ ai lại có thể đi tôn vinh văn hoá của một quốc gia nó bắn giết dân ta, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của ta từng ngày từng giờ được? Tôi đã nói rõ quan điểm của mình như vậy với ban tổ chức và không hiểu sao sau đó đợt sự kiện đó cũng ngưng lại luôn, chắc vì không có kinh phí chứ không phải là từ tôi, tôi chỉ là hạt cát trong cái sa mạc showbiz Việt nhu nhược nầy!
Cũng như có lần tôi từ chối làm đại sứ hình ảnh cho một sản phẩm của Trung Quốc (họ đài thọ tôi du lịch miễn phí bên đó) thì cũng có vài người bảo tôi dại đã để vuột khỏi tay 1 cây cờ!!!
Rồi bây giờ là một danh sách dài ngoằng các tài tử minh tinh điện ảnh và nghệ sĩ của Trung Hoa lục địa mà “thần dân” xứ Việt chết mê chết mệt đã lên tiếng ủng hộ cái gọi là “đường lưỡi bò” láo xược trên biển Đông của chính quyền Trung Quốc, họ phản đối phán quyết của toà án quốc tế, bất chấp luật pháp và đi ngược lại với lương tri thế giới. Những cái tên như Phạm Băng Băng, Triệu Vy, Huỳnh Hiểu Minh, Lục Tiểu Linh Đồng… vốn đã xem chúng ta là thần dân của họ, tài nguyên nước ta là tài sản của quốc gia họ từ bao đời nay rồi! Vậy có đúng là nghệ thuật kinh tế đi trước để lót đường cho chính trị và xâm lược đi sau không?
Các văn nghệ sĩ, các fans hâm mộ những soái ca, tỉ tỉ, những thứ ngôn tình hay nam thần ngọc nữ gì đó…..hãy tỉnh táo và sáng suốt mà lo bảo vệ những giá trị văn hoá Việt còn sót lại trong mong manh và chỉ có chúng ta mới là những người phải thể hiện lòng tự tôn dân tộc mình. Tôi không kêu gọi kỳ thị mà tôi kêu gọi sự thức tỉnh!"
Thành Lộc