SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM & TRUNG QUỐC
TRONG 30 NĂM QUA
Nhà Xuất Bản Sự Thật
Phụ
trách bản thảo đưa in
PHẠM XUYÊN
ĐÌNH LAI
Trình
bày và bìa
NGHIÊM THÀNH
CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua là một văn kiện quan
trọng của Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được công bố
ngày 4 tháng 10 năm 1979 nhằm vạch trần bộ mặt phản động của bọn bành
trướng Bắc Kinh đối với nước ta trong suốt một thời gian dài. Cuốn sách
này gồm toàn văn bản văn kiện nói trên.
Tháng 10 năm 1979
Nhà Xuất Bản Sự Thật
- Hà Nội 10/1979 gồm 5 phần tổng cộng 108 trang
*
Mục lục
Phần Thứ Nhất : Việt Nam trong
chiến lược của Trung Quốc
I -
Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc
II -
Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc.
Phần Thứ Hai: Trung Quốc với việc kết
thúc cuộc chiến tranh Đông Dương năm 1954.
I - Sau Điện Biên Phủ,
nhân dân Việt Nam có khả năng hoàn toàn giải phóng đất
nước
II - Lập trường của Trung
Quốc ở Giơnevơ khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng phù hợp với lập
trường của Pháp.
III - Hiệp Định Giơnevơ năm
1954 về Đông Dương và sự phản bội của những người lãnh đạo Trung Quốc.
Phần Thứ Ba: Trung Quốc với cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam để giải phóng Miền Nam, thống nhất
nước nhà (1954-1975)
I - Thời kỳ 1954-1964:
Những người cầm quyền Trung Quốc ngăn cản nhân dân Việt Nam đấu tranh
để thực hiện thống nhất nước nhà.
II - Thời kỳ 1965-1969: Làm
yếu và kéo dài cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
III - Thời kỳ 1969-1973 : Đàm
phán với Mỹ trên lưng nhân dân Việt Nam
IV - Thời kỳ 1973-1975: Cản
trở nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn Miền Nam
Phần Thứ Tư: Trung Quốc với nước
Việt Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất (từ tháng 5 năm
1975 đến nay)
I - Trung Quốc sau thất bại của Mỹ ở Việt Nam
II - Điên cuồng chống Việt Nam nhưng còn
cố giấu mặt
III - Điên cuồng chống Việt Nam một cách
công khai
Phần Thứ Năm: Chính sách bành trướng
của Bắc Kinh mối đe doạ đối với độc lập dân tộc, hoà bình và ổn định ở
Đông Nam Châu Á.
I. Hòa bình ổn định ở Đông
nam châu Á và trên thế giới
II. Tóm lại trong 30 năm
qua…
III. Cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam
(hết)
PHẦN THỨ NHẤT:
VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG
QUỐC
Những
hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt
Nam, mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17 tháng 2 năm 1979,
đã làm cho dư luận thế giới ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột về chính sách
của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Sự
thay đổi đó không phải là điều bất ngờ, mà là sự phát triển lô-gích của
chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của những người lãnh
đạo Trung Quốc trong 30 năm qua.
Trên
thế giới chưa có những người lãnh đạo một nước nào về mặt chiến lược đã lật
ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và
toàn diện như những người lãnh đạo Trung Quốc.
Từ chỗ
coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy
hiểm nhất.
Từ chỗ
coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ
đi đến chỗ coi đế quốc Mỹ là đồng minh tin cậy, câu kết với đế quốc Mỹ và trắng
trợn tuyên bố Trung Quốc là NATO (1) ở
phương đông.
Từ chỗ
coi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh là “bão
táp cách mạng” trực tiếp đánh vào chủ nghĩa đế quốc và cho rằng rốt cuộc sự
nghiệp cách mạng của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc vào cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân ở khu vực này (2), họ
đi đến chỗ cùng với đế quốc chống lại và phá hoại phong trào giải phóng dân
tộc, ủng hộ những lực lượng phản động, như tên độc tài Pinôchê ở Chilê, các tổ
chức FNLA và UNITA do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) giật dây ở Angôla, vua
Palêvi ở Iran, nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng PônPốt-Iêngxary v..v…Họ ngang nhiên
xuyên tạc nguyên nhân và tính chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
trên thế giới hiện nay, coi các cuộc đấu tranh này là sản phẩm của sự tranh
giành bá quyền giữa các nước lớn, chứ không phải là sự nghiệp cách mạng của
nhân dân các nước.
Cùng
với sự lật ngược chính sách liên minh của họ trên thế giới là những cuộc thanh
trừng tàn bạo và đẫm máu ở trong nước, đàn áp những người chống đối, làm đảo
lộn nhiều lần vai trò của những người trong giới cầm quyền. Có người hôm nay
được coi là nhà lãnh đạo cách mạng chân chính, ngày mai trở thành kẻ thù, kẻ
phản bội của cách mạng Trung Quốc; có người trong vòng mấy năm lần lượt bị đổ
và được phục hồi đến hai ba lần.
Chiến
lược của những người lãnh đạo Trung Quốc có những thay đổi rất lớn. Nhưng có
một điều không thay đổi: đó là mục tiêu chiến lược muốn nhanh chóng đưa Trung
Quốc trở thành một cường quốc bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng
đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ đối với các nước khác.
Tại
Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Chủ tich
Mao Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về
phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghiệp…Không thể chấp nhận rằng
sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số một trên thế
giới”
Sau
đó, tháng 9 năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, chủ tịch Mao
Trạch Đông lại nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục
tiêu của chúng ta”
Ngay
từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, những
người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu chiến
lược của họ. Mặc dầu nền kinh tế của Trung Quốc còn lạc hậu, từ cuối những năm
1950 họ đã ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược và hiện nay đang đẩy
mạnh việc thực hiện “hiện đại hoá” về quân sự, về sản xuất và tích trữ vũ khí
hạt nhân. Trong lĩnh vực kinh tế, điều giống nhau giữa “đại nhảy vọt” năm 1958
và “bốn hiện đại hoá” mới nêu ra vài ba năm nay là cả hai kế hoạch đó đều nhằm
mục tiêu chiến lược bành trướng và bá quyền của những người lãnh đạo Trung
Quốc.
(2) Cần nhắc lại rằng tại hội nghị đại biểu các Đảng Cộng Sản và Công
Nhân tháng 11 năm 1960. Đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đồng ý với
nhận định sự phát triển của xã hội loài người.
I - VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU
CỦA TRUNG QUỐC
Trong
chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và
Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một
đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích
chiến lược của họ.
Bước
vào những năm 1950, khi bắt đầu công cuộc xây dựng lại hòng đưa nước Trung Hoa
nhanh chóng trở thành cường quốc trên thế giới, những người lãnh đạo Trung Quốc
phải đối phó với cuộc chiến tranh của Mỹ xâm lược Triều Tiên ở phía bắc và mối
nguy cơ đe doạ an ninh của Trung Quốc ở phía nam do cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp ở Việt Nam gây ra. Đồng thời đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu
sỏ và tên sen đầm quốc tế, thi hành một chính sách thù địch đối với Trung Quốc
và đang ra sức tiến hành kế hoạch bao vây, cô lập Trung Quốc.
Cuộc
kháng chiến thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia
chống thực dân Pháp đã đưa đến Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương.
Pháp lo sợ thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam sẽ dẫn đến sự sụp đổ của
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trung Quốc là nước cung cấp
nhiều vũ khí nhất cho Việt Nam vào
cuối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Những
người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó để đứng ra làm người thương
lượng chủ yếu đối với đế quốc Pháp, câu kết với chúng và cùng nhau thoả hiệp về
một giải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt
Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba
nước ở Đông Dương để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để thực hiện
mưu đồ nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn
trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Trong Hội nghị
Giơnevơ năm 1954 mà phần đầu dành cho vấn đề Triều Tiên, nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa lần đầu tiên xuất hiện ngang hàng với bốn cường quốc uỷ viên thường
trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Đó là một cơ hội tốt cho những người
lãnh đạo Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực châu Á và châu Phi.
Đồng thời, họ tìm cách bắt tay với đế quốc Mỹ qua các cuộc thương lượng trực
tiếp bắt đầu Giơnevơ, về sau chuyển sang Vacsava.
Từ sau
khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu
vào Việt Nam, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới và một
căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam châu Á. Những người cầm quyền ở Bắc Kinh muốn
duy trì lâu dài tình trạng Việt Nam bị chia cắt. Nhưng nhân dân Việt Nam đã anh
dũng đứng lên chống Mỹ cứu nước và ngày càng giành được nhiều thắng lợi.
Cuối
những năm 1960, đế quốc Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh xâm lược chống
Việt Nam ,
một cuộc chiến tranh đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính
trị và xã hội của nước Mỹ, đồng thời làm suy yếu thêm vị trí của đế quốc Mỹ trên
thế giới. Tình hình đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xã hội chủ nghĩa
và phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ và tạo cho các nước
Tây Âu, Nhật Bản có cơ hội ngoi lên thành những lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ
với Mỹ. Trước tình thế ngày càng tuyệt vọng, tổng thống Nichxơn đã đề ra kế
hoạch “Việt Nam hoá” chiến tranh và theo kinh nghiệm của đế quốc Pháp năm 1954,
dùng Trung Quốc hòng giải quyết vấn đề Việt Nam với những điều kiện có lợi cho
đế quốc Mỹ: rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam mà vẫn giữ được chế độ bù nhìn Nguyễn
Văn Thiệu ở miền nam Việt Nam. Đồng thời, chính quyền Nichxơn chơi con bài
Trung Quốc để gây sức ép đối với Liên Xô, chống phong trào cách mạng thế giới.
Lợi
dụng sự suy yếu của đế quốc Mỹ và chiều hướng chính sách của chính quyền
Nichxơn, những người lãnh đạo Trung Quốc tăng cường chống Liên Xô và thoả hiệp
với Mỹ, giúp Mỹ giải quyết vấn đề Việt Nam để cố tạo nên thế ba nước lớn trên
thế giới theo công thức của Kitxinhgơ về “thế giới nhiều cực”, trong đó một
trong ba cực lớn là Trung Quốc, xoá bỏ “thế hai cực” Mỹ và Liên Xô đã hình
thành sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời dùng vấn đề Việt Nam để đổi
lấy việc Mỹ rút khỏi Đài Loan. Do đó, họ lật ngược chính sách liên minh, bắt
đầu từ việc coi Liên Xô là kẻ thù chủ yếu, gây ra xung đột biên giới với Liên
Xô tháng 3 năm 1969, đến việc phản bội Việt Nam lần
thứ hai, buôn bán với Mỹ để ngăn cản thắng lợi hoàn toàn của nhân dân
Việt Nam .
Trong năm 1971, họ lần lượt tiến hành chính sách “ngoại giao bóng bàn”, đón
tiếp Kitxinhgơ ở Bắc Kinh. Tiếp đó là việc khôi phục địa vị của Trung Quốc ở
Liên hợp quốc và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trở thành một trong năm uỷ
viên thường trực của Hội đồng bảo an. Đỉnh cao là việc Trung Quốc tiếp
tổng thống Mỹ Nichxơn và hai bên ra Thông cáo Thượng Hải tháng 2 năm 1972. Đối
với những người cầm quyền Bắc Kinh, sự câu kết với đế quốc Mỹ là một bước có ý
nghĩa quyết định đối với việc triển khai chiến lược toàn cầu của họ.
Cũng
như sau Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, những người lãnh đạo Trung Quốc
sau Hiệp định Pari tháng 1 năm 1973 về Việt Nam, muốn duy trì nguyên trạng ở
miền nam Việt Nam. “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc” của chủ tịch Mao Trạch Đông viết năm 1939
do hiệu sách Tân Hoa thư điếm (Dực Nam ) tái bản tháng 6 năm 1949.
Trong đó có đoạn viết: “Sau khi dùng
chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ
thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan,
Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và
Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”
Đường
vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng
đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài
“chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số
1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số 7),
Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…
Vì vậy
thắng lợi của nhân dân Việt Nam năm 1975 đánh sụp hoàn toàn chính quyền tay sai
của Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà không chỉ là một thất bại lớn
của đế quốc Mỹ mà còn là một thất bại lớn của những người cầm quyền Bắc Kinh
trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu và mưu đố bành trướng, bá quyền của
họ. Từ đó, họ công khai thi hành chính sách thù địch chống Việt Nam ,
kể cả bằng biện pháp quân sự.
Như
vậy, trong 30 năm qua, Việt Nam là
một trong những nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu của Trung
Quốc. Vì Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong chiến lược của Pháp giữa những
năm 1950 cũng như trong chiến lược của Mỹ đầu những năm 1970, những người lãnh
đạo Trung Quốc đã dùng “con bài” Việt Nam để câu kết với bọn đế quốc, phục vụ
cho ý đồ chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ. Đồng
thời họ mưu toan một mình nắm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
Việt Nam, một vấn đề trung tâm của đời sống chính trị quốc tế lúc bấy giờ để
giương cao chiêu bài “chống chủ nghĩa đế quốc” hòng nắm quyền “lãnh đạo cách
mạng thế giới”, dìm ảnh hưởng của Liên Xô.
II- VIỆT NAM TRONG
CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA TRUNG QUỐC.
Đông Nam châu
Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu
những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.
Trong
năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An
về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến
việc Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở
Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác: “Đọc
xong, tôi lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận
thức rằng bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước”. (Ét-ga Xnâu: Ngôi sao đỏ trên đất Trung Hoa,
Nhà xuất bản Pen-guyn, Lân đơn, 1972, tr. 159)
Tài
liệu của Đảng cộng sản Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết: “Các
nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung
Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận.
Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
Cuốn
sách Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẻ
lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông Nam châu Á
và vùng biển Đông.
Ý đồ
bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của
chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam
ở Vũ Hán năm 1963: “Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu
bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu
Á”
Cũng trong dịp này, chủ tịch Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.
Cũng trong dịp này, chủ tịch Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.
Chủ
tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp
hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng
ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan,
Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có
nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành
được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở
vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu,
gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.
So với
các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam châu Á là khu vực mà Trung Quốc
có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn
20 triệu Hoa kiều, các chính đảng lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc, Đông
Nam châu Á có đường đất liền với Trung Quốc…) để thực hiện chính sách bành
trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30 năm qua, những người
lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện
chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ.
Họ xây
dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước
lớn, đe doạ bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo
hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi
vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ các nước và gây ra xung đột biên giới,
dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ
bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu vực. Họ không từ bất kỳ
một hành động tàn bạo nào, như họ đã dùng tập đoàn Pônpốt- Iêngxary thực hiện
chính sách diệt chủng ở Campuchia. Họ dùng nhiều công cụ ở các nước Đông Nam
châu Á: lực lượng Hoa kiều làm “đạo quân thứ năm”, các tổ chức gọi là “cộng
sản” theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, các dân tộc thiểu số ở cấc nước thuộc khu vực
này có ít nhiều nguồn gốc dân tộc ở Trung Quốc để phục vụ cho chính sách bành
trướng và bá quyền của họ.
Về
việc sử dụng lực lượng Hoa kiều, ý đồ của Bắc Kinh đã được thể hiện rõ nhất
trong ý kiến của bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị:
“Singapore
có trên 90% là người Trung Quốc, trong số dân hơn 1 triệu người thì hơn 90 vạn
là người Trung Quốc. Cho nên Singapore hoàn toàn trở thành
một quốc gia do người Trung Quốc ở đó tổ chức”. (3)
Những
người lãnh đạo Trung Quốc lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Nam châu
Á, chia rẽ các nước thuộc tổ chức ASEAN (4) với
ba nước trên bán đảo Đông Dương, chia rẽ các nước với nhau như đã chia rẽ
Malayxia với Inđônêxia, Miến Điện với Thái Lan…Đặc biệt họ lợi dụng tình hình ở
Đông Nam châu Á là một trong những khu vực sục sôi cách mạng trên thế giới,
phong trào độc lập dân tộc ngày càng phát triển và chủ nghĩa thực dân đế quốc
ngày càng suy yếu để thực hiện ý đồ bành trướng của họ. Khi thực dân Pháp thất
bại ở Việt Nam năm 1954, họ muốn duy trì ở miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia
sự có mặt của Pháp là một tên đế quốc đã suy yếu để ngăn cản Mỹ, tên đế quốc
đầu sỏ thâm nhập vào Đông Dương và hạn chế thắng lợi hoàn toàn của cách mạng ba
nước ở Đông Dương. Khi Mỹ suy yếu và thất bại ở vùng này, họ muốn duy trì sự có
mặt của Mỹ để cùng với Mỹ thống trị các nước trong khu vực. Làm như vậy, họ hy
vọng dựa vào chủ nghĩa đế quốc ngăn chặn sự phát triển của cách mạng để từng
bước lấp cái gọi là lỗ hổng ở Đông Nam châu Á, tiến đến gạt dần
các đồng minh đế quốc để độc chiếm khu vực này. Họ tung ra luận điệu lừa bịp là
ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô để che dấu âm mưu đen tối của họ.
(3) Trong cuộc nói chuyện với chuyện với các đại
biểu người Hoa ỏ Việt Nam đến
chào mừng đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai
dẫn đầu thăm Việt Nam ,
tháng 5 năm 1960.
Việt
Nam có một vị trí chiến lược ở Đông Nam châu Á. Trong lịch sử, bọn bành trướng
phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính Việt Nam, dùng
Việt Nam làm bàn đạp để xâm lược các nước khác ở Đông Nam châu Á. Khi chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc, trong các đảng cộng sản ở khu vực này chỉ có
Đảng cộng sản Việt Nam giành được chính quyền và thành lập Nhà nước công nông
đầu tiên trong khu vực. Cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng to lớn do
đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những người lãnh đạo Trung
Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi xuống
Đông Nam châu Á. Trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung
Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu Ân Lai
nói:
“Nước
chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt
Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam châu Á”.
Để làm
suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước ở bán đảo
Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với
Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam châu Á đối lập với
Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới.
Những
người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là “chủ quyền” của họ đối với các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm
quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam để từng bước kiểm soát biển Đông,
khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam châu Á, đồng thời khai thác tài nguyên
phong phú ở vùng biển Đông.
Những
người lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tập hợp lực lượng ở Đông Nam Châu Á để tiến
đến tập hợp lực lượng trên thế giới hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ.
Những năm 1960 họ ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ latinh để
nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục tiêu đó,
từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng cộng sản, trong đó có 8 đảng ở Đông
Nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế cộng sản” mới do họ khống chế, xây dựng
cái gọi là “trục Bắc Kinh- Giacacta-Phnông Pênh-Bình Nhưỡng-Hà Nội”, thông qua
Inđônêxia vận động triệu tập “Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO) để
thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ
chức Hội nghị Á-Phi lần thứ hai (dự định họp ở Angiê năm 1965). Nhưng những
người lãnh đạo Trung Quốc đã không thành công trong các kế hoạch đen tối này.
Đó là vì họ đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng cường hệ thống
xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải đường
lối độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam.
◎◎◎
Trong
30 năm qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng
hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam . Muốn như
vậy, nước Việt Nam phải
là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc. Trái
lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập
tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu
của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng
của họ ở Đông Nam châu Á. Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm
chế cách mạng Việt Nam, mỗi khi Việt Nam đánh thắng đế quốc thì họ lại buôn
bán, thoả hiệp với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ giấu mặt
chống Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới
trắng trợn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Chính
sách của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối
với các nước Đông Nam châu
Á cũng như đối với các nước láng giềng khác. Họ đã muốn chiếm đất đai của Ấn Độ
và thực tế đã chiếm một bộ phận đất đai của Ấn Độ trong cuộc chiến tranh năm
1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ cho rằng có thể tranh giành
với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á-Phi. Họ vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù
họ đã công nhận nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn
chiếm một phần đất đai của Liên Xô, rất không muốn có bên cạnh Trung Quốc một
nước Liên Xô hùng mạnh, nên họ tìm mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước
đế quốc gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước Á-Phi Mỹ la tinh chống Liên
Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của
các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá
quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên núi xem hổ đánh
nhau”. Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết
tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng” cũng như Trung Quốc trước đây đã
quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
Chiến
lược quốc tế ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới
chiêu bài nào, đã phơi trần tính chất cực kỳ phản cách mạng của nó và những
người lãnh đạo Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô
vanh nước lớn, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản.
Chính
sách ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dù được
nguỵ trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế
“thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam
thành một chư hầu của Trung Quốc.
PHẦN THỨ HAI: TRUNG QUỐC VỚI VIỆC
KẾT THÚC CUỘC CHẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG NĂM 1954.
I - SAU ĐIỆN BIÊN PHỦ, NHÂN DÂN VIỆT NAM CÓ KHẢ NĂNG HOÀN TOÀN GIẢI
PHÓNG ĐẤT NƯỚC
Năm
1945, nhân dân Việt Nam với tinh thần quật khởi, tự lực tự cường đã làm cuộc
Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Mấy
tháng sau, thực dân Pháp đã chiếm lại các tỉnh ở Nam Bộ, và từ tháng 12 năm
1946 nhân dân Việt Nam đã phải tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống đế quốc
Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước để bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của mình.
Cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam vô cùng gian khổ và hết
sức anh dũng ngày càng giành được nhiều thắng lợi to lớn. các chiến thắng của
nhân dân Việt Nam củng như các chiến thắng của nhân dân Lào (dưới sự lãnh đạo
của Chính phủ kháng chiến Lào) và của nhân dân Campuchia (dưới sự lãnh đạo của
Chính phủ kháng chiến Campuchia), đặc biệt là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
của quân và dân Việt Nam đã làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường
rất có lợi cho các lực lượng kháng chiến Việt Nam, Lào và Campuchia, và đặt đế
quốc Pháp trước một tình thế vô cùng khó khăn.
Bộ
trưởng quốc phòng Pháp R. Plêven cùng với chủ tịc Hội đồng tham mưu trưởng
tướng P. Êli, tham mưu trưởng lục quân tướng Blăng, tham mưu trưởng không quân
tướng Phay, sau khi đi khảo sát chiến trường Đông Dương tháng 2 năm 1954 đã đi
tới một nhận xét bi quan về tình hình chiến trường như sau: “Một sự
tăng cường dù lớn đến đâu cho quân đội viễn chinh cũng không thể làm thay đổi
được tình hình. Vả lại, sự cố gắng về quân sự của chính quốc đã đến giới hạn
cuối cùng. Tất cả những điều mà chúng ta có thể hy vọng là tạo điều kiện quân
sự thuận lợi nhất cho một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột”. (1)
Ngày
18 thánh 5 năm 1954, lo ngại Quân đội nhân dân Việt Nam có thể tiến công đồng
bằng Bắc Bộ, thủ tướng Pháp Lanien đã cử tướng Êli sang Đông Dương để truyền
đạt chỉ thị cho tướng Nava, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp: lúc này phải
lấy mục tiêu chính, trên tất cả các cái khác, là cứu quân đội viễn chinh.
Đại sứ
Sôven, Phó trưởng đoàn đại biểu của Pháp tại Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông
Dương, trong một báo cáo gửi Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Chúng
ta khó giữ được Hà Nội, Bộ chỉ huy cho biết gửi thêm hai sư đoàn nữa cũng không
giữ được thủ phủ Bắc Kỳ…”. (2)
Trước
đây Chính phủ Lanien muốn thương lượng trên thế mạnh quân sự để giữ nguyên được
Lào, Campuchia và cố giữ được những quyền lợi gì có thể giữ được ở Việt Nam,
coi đó là giải pháp “danh dự” đối với Pháp. Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, chính
phủ đó còn muốn thương lượng, nhằm trước hết cứu vãn đội quân viễn chinh Pháp ở
Đông Dương khỏi nguy cơ bị tiêu diệt.
Phong
trào phản chiến của nhân dân Pháp, mà nòng cốt là Đảng cộng sản Pháp, chống
cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” ở Đông Dương phát triển mạnh. Chính quyền ở Pháp
vốn đã chia rẽ về nhiều vấn đề càng thêm chia rẽ trước những khó khăn nghiêm
trọng về kinh tế, chính trị và xã hội. Thất bại của Pháp ở Đông Dương sẽ dẫn
đến sự sụp đổ toàn bộ hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp, nhất là ở Bắc Phi.
Trong bối cảnh đó, Pháp bước vào Hội nghị Giơnevơ năm 1954 với sự tham gia của
Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp và các bên tham chiến ở Đông Dương.
(1) G.
La-cu-tuya và P. Đơ-vi-le: Sự kết thúc của một cuộc chiến tranh, Nhà xuất bản
Xơi, Paris, 1960, tr. 62-63.
(2) P.
Ru-a-nê: Măng-dét Phrăng-xơ cầm quyền, Nhà cuất bản La-phông, Paris, 1965,
tr. 146.
II - LẬP TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC Ở GIƠNEVƠ KHÁC HẲN LẬP TRƯỜNG CỦA
VIỆT NAM, NHƯNG PHÙ HỢP VỚI LẬP TRƯỜNG CỦA PHÁP.
Nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 trong tình hình thế giới đã hình
thành hai hệ thống đối lập về chính trị, kinh tế và quân sự. Ở châu Âu cuộc
chiến tranh lạnh ngày càng phát triển và ở châu Á có hai cuộc chiến tranh nóng
ở Triều Tiên và Đông Dương. Những người lãnh đạo nước Trung Hoa mới muốn tranh
thủ điều kiện hoà bình để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế, tăng
cường tiềm lực quân sự, làm cho Trung Quốc sớm trở thành một cường quốc lớn
trên thế giới, thực hiện tham vọng bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước
lớn, chủ yếu hướng về Đông nam châu Á.
Mặc dù
khoảng một triệu quân Trung Quốc đã bị thương vong trong chiến tranh Triều
Tiên, những người lãnh đạo Trung Quốc, để có một khu đệm phía đông bắc, năm
1953 đã chịu nhận một cuộc ngừng bắn ở Triều Tiên: duy trì nguyên trạng, chia
cắt lâu dài Triều Tiên.
Việt
Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng trực tiếp, nhân dân Việt Nam và nhân
dân Trung Quốc luôn luôn ủng hộ, cổ vũ, giúp đỡ lẫn nhau, vì nước Việt Nam độc
lập có nghĩa là Trung Quốc không bị sự uy hiếp của chủ nghĩa đế quốc ở phía
nam. Năm 1950, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công nhận và thiết lập quan hệ
ngoại giao với nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà. Trung Quốc là nước viện trợ vũ khí, trang bị quân sự nhiều nhất
cho Việt Nam trong
những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam .
Tại
Hội nghị Giơnevơ năm 1954, lập trường của Việt Nam là đi tới một giải pháp hoàn
chỉnh: đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp
chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở
Đông Dương.
Đối
với những người lãnh đạo Trung Quốc, Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Triều Tiên và
Đông Dương là một cơ hội để họ cùng với các nước lớn bàn bạc và giải quyết các
vấn đề quốc tế lớn, mặc dù Mỹ đang thù địch với Trung Quốc, Pháp chưa có quan hệ
ngoại giao với Trung Quốc và Tưởng Giới Thạch còn giữ vị trí của Trung Quốc là
một trong năm uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Những
người lãnh đạo Trung Quốc muốn chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương bằng một
giải pháp theo kiểu Triều Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải
pháp chính trị. Ngày 24 tháng 8 năm 1953, chính thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên
bố: đình chiến ở Triều Tiên có thể dùng làm mẫu mực cho những cuộc xung đột
khác. Với một giải pháp như thế, những người cầm quyền Trung Quốc hy vọng tạo
được một khu đệm ở Đông nam châu Á, ngăn chặn Mỹ vào thay thế Pháp ở Đông
Dương, tránh được sự đụng đầu trực tiếp với Mỹ, bảo đảm an ninh cho biên giới
phía nam của Trung Quốc, đồng thời hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ nhân
dân ba nước Đông Dương, hòng làm suy yếu và thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn
đạp bành trướng xuống Đông nam châu Á.
Pháp
đến Hội nghị Giơnevơ cũng nhằm đạt được một cuộc ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên
để cứu đội quân viễn chinh Pháp, chia cắt Việt Nam , duy trì chủ nghĩa thực dân
Pháp ở Đông Dương.
Rõ
ràng lập trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường của Việt Nam , nhưng lại
rất phù hợp với lập trường của Pháp.
III - HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ NĂM 1954 VỀ ĐÔNG DƯƠNG VÀ SỰ PHẢN BỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI
LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC.
Tháng
4 năm 1954, trong một cuộc họp giữa các đoàn đại biểu Việt Nam, Liên Xô, Trung
Quốc chuẩn bị cho Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, đại biểu Trung Quốc đã nói :
” Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không thể công khai giúp Việt Nam được trong
trường hợp cuộc xung đột ở đây mở rộng”.
Lợi
dụng vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển
duy nhất chi viện cho Việt Nam, đồng thời lợi dụng việc Pháp không muốn nói
chuyện trên thế yếu với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc đã tự cho
phép mình đàm phán trực tiếp với Pháp để thoả thuận về những điểm cơ bản của
một giải pháp về vấn đề Đông Dương.
Quá
trình đàm phán về thực chất tại Hội nghị Giơnevơ đã diễn ra qua hai thời kỳ:
Thời
kỳ thứ nhất từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 23 tháng 6 năm 1954, trưởng đoàn
đại biểu Pháp, trong khi tránh tiếp xúc với Việt Nam, đã đàm phán trực tiếp với
trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc bốn lần, đi tới thoả thuận về những nét cơ bản
của một Hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương.
Đáng
chú ý là cuộc tiếp xúc lần thứ ba ngày 17 tháng 6 năm 1954, thủ tướng Chu Ân
Lai gặp trưởng đoàn đại biểu Pháp G.Biđô, đưa ra những nhân nhượng chính trị có
tính chất cơ bản, có hại cho nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia: Trung
Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hoà và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại), công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và
Chính phủ Vương quốc Campuchía, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của Cính phủ kháng
chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia Hội nghị Giơnevơ, và đưa
ra vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam phải rút khỏi
Lào và Campuchia.
Lần
thứ tư, ngày 23 tháng 6 năm 1954, thủ tướng Chu Ân Lai gặp Măngđét Phranxơ, thủ
tướng mới của Pháp, đưa ra những nhượng bộ mới: chia cắt Việt Nam, hai miền
Việt Nam cùng tồn tại hoà bình, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời việc
giải quyết ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia; Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận ba
nước này trong khối Liên hiệp Pháp và muốn Lào, Campuchia sẽ có bộ mặt mới ở Đông
nam châu Á như Ấn Độ, Inđônêxia, ngược lại chỉ yêu cầu không có căn cứ quân sự
của Mỹ ở Đông Dương. Do đó, Trung Quốc và Pháp đạt được một giải pháp khung cho
vấn đề Đông Dương.
Những
điểm mà những người lãnh đạo Trung Quốc đã thoả thuận với Pháp rất phù hợp với
giải pháp 7 điểm của Anh-Mỹ đưa ra ngày 29 tháng 6 năm 1954, tức là 6 ngày sau
cuộc tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Măngđét Phranxơ.
Thời
kỳ thứ hai từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 20 tháng 7 năm 1954, Đoàn đại biểu Pháp
tiến hành đàm phán trực tiếp với Đoàn đại biểu Việt Nam để giải quyết các vấn
đề cụ thể. Trung Quốc giữ vai trò thúc đẩy phía Việt Nam nhân
nhượng. Đến ngày 10 tháng 7 năm 1954, phía Việt Nam vẫn kiên trì lập trường của
mình về vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia, vẫn chủ trương đòi có đại biểu của
Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia như các
bên đàm phán, định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, tổ
chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất nước nhà. Đối với
việc giải quyết vấn đề Lào và vấn đề Campuchia, Việt Nam vẫn giữ quan điểm là ở
Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến: một vùng ở phía bắc giáp
Trung Quốc và Việt Nam và một vùng ở Trung và Hạ Lào; ở Campuchia có hai vùng
tập kết của lực lượng kháng chiến Campuchia ở phía đông và đông bắc sông Mêcông
và phía tây nam sông Mêcông; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng
ở Lào và Campuchia.
Từ
tháng 5 năm 1954, đoàn đại biểu Trung Quốc đưa ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm
giới tuyến giữa hai miền Việt Nam, và còn muốn Việt nam nhân nhượng nhiều hơn
nữa, thậm chí muốn Việt Nam bỏ cả thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và đường
số 5 (đường nối liền Hà Nội với Hải Phòng):
“Đánh
giá (phương án vĩ tuyến 16) khó có thể thoả thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải
Phòng làm cửa bể tự do, ở gần đấy cho Pháp đóng một số quân nhất định, nếu
không được nữa thì đem đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi
quân sự…”. (3)
Nhưng
về sau, đặc biệt từ ngày 10 tháng 7 năm 1954, 10 ngày trước khi Hội nghị
Giơnevơ kết thúc, Trung Quốc ngày càng thúc ép Việt Nam nhân nhượng, “có những
điều kiện công bằng và hợp lý để Chính phủ Pháp có thể nhận được để đi đến Hiệp
định trong vòng 10 ngày, điều kiện đưa ra nên giản đơn, rõ ràng để dễ đi đến
hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ,
rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại”. (4)
Khi đó
Trung Quốc còn lo sợ Mỹ có thể can thiệp bằng vũ trang vào Đông Dương, uy hiếp
an ninh của Trung Quốc, nhưng cần nói rằng Trung Quốc cũng dùng những lời của
Mỹ đe doạ chiến tranh để ép Việt Nam.
(3) Điện
văn của Chu Ân Lai, ngày 30 tháng 5 năm 1954 gửi Ban Chấp Hành trung ương Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, sao gửi Ban Chấp Hành trung ương Đảng Lao Động Việt Nam.
(4) Điện
văn của Chu Ân Lai, ngày 10 tháng 7 năm 1954 gửi Ban chấp hành trung ương Đảng
Lao Động Việt Nam.
Sự
thật là sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ không có khả năng can thiệp quân sự
trực tiếp vào Đông Dương. Thái độ cứng rắn của Mỹ ở Hội nghị Giơnevơ chẳng qua
là do Mỹ sợ Pháp vì bị thua ở chiến trường, có nhiều khó khăn về chính
trị, kinh tế, tài chính, có thể chấp nhận một giải pháp không có lợi cho việc
Mỹ nhảy vào Đông Dương sau này. Khi Pháp đã cùng với Trung Quốc thoả thuận được
một giải pháp khung về Đông Dương và Mỹ đã đưa được tên tay sai Ngô Đình Diệm
về làm thủ tướng chính phủ bù nhìn Sài Gòn ( ngày 13 tháng 6 năm 1954), thì Mỹ
thấy có thể chấp nhận một hiệp định theo hướng Trung Quốc và Pháp đã thoả thuận
giải quyết cả ba vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia. Tuy vậy, Mỹ không tham gia
vào bản Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị là vì Mỹ muốn được rảnh tay sau này để
vi phạm Hiệp định Giơnevơ thông qua chính quyền Ngô Đình Diệm, buộc Pháp phải
rút lui để thay thế Pháp ở Đông Dương.
Sau
Điện Biên Phủ, rõ ràng là với sự giúp đỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là
của Trung Quốc, quân và dân Việt Nam có khả năng giải phóng cả nước, nhưng giải
pháp mà Đoàn đại biểu Trung Quốc đã thoả thuận với Đoàn đại biểu Pháp ở Giơnevơ
không phản ảnh so sánh lực lượng trên chién trường, cũng không đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu chính trị của giải pháp do Đoàn đại biểu Việt Nam đề ra.
Xuất
phát từ truyền thống yêu chuộng hoà bình, theo xu thế chung giải quyết các vấn
đề tranh chấp bằng thương lượng và trong tình thế bị Trung Quốc ép buộc, Việt
Nam đã chấp nhận giải pháp: các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, ngừng bắn đồng thời ở Việt
Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương, Pháp rút quân, vĩ tuyến 17 là giới
tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai miền, tiến tới có tổng tuyển cử tự
do trong cả nước sau hai năm để thống nhất nước nhà.
Ở Lào
có một khu tập kết cho các lực lượng kháng chiến lào gồm hai tỉnh Sầm Nưa và
Phongsalỳ. Ở Campuchia lực lượng kháng chiến không có khu tập kết nào và phục
viên tại chỗ.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đánh dấu một bước thắng lợi
của các lực lượng cách mạng ở Đông Dương, đồng thời là một đóng góp quan trọng
mở đầu sự tan rã hoàn toàn của hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp và báo hiệu
quá trình sụp đổ không thể đảo ngược được của chủ nghĩa thực dân cũ, của chủ
nghĩa đế quốc thế giới. Nhưng giải pháp Giơnevơ đã ngăn cản nhân dân ba nước
Việt Nam ,
Lào và Campuchia đạt được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, một khả năng rõ ràng là hiện thực như so sánh lực lượng trên chiến trường
lúc bấy giờ đã chỉ rõ.
Đó là
điều mà những người lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ hơn ai hết.
Đây là
sự phản bội thứ nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào
và nhân dân Campuchia.
PHẦN THỨ BA: TRUNG QUỐC VỚI CUỘC ĐẤU
TRANH
CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐỂ GIẢI PHÒNG
MIỀN NAM,
THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ (1954-1975)
Bất
chấp Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt
Nam, nhằm tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, thôn tính miền
Nam, chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan
xuống Đông Nam châu Á, đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền bắc,
tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam châu Á, đè bẹp và đẩy lùi chủ
nghĩa xã hội ở khu vực này, hòng bao vây uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa
khác. Thất bại trong việc dùng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và tiến hành
“chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã lao vào cuộc phiêu
liêu quân sự chống nhân dân Việt Nam, tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược
quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai.
Hưởng
ứng lời kêu gọi bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập
tự do” nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên chống Mỹ, giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế tạo thành một sức mạnh tổng
hợp to lớn để đánh thắng bọn xâm lược Mỹ. Trong chiến tranh, nhân dân Việt Nanm
luôn luôn thực hành chiến lược tiến công, đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt
trận quân sự, chính trị và ngoại giao, đồng thời biết kéo địch xuống thang,
giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Quá
trình hơn 20 năm nhân dân Việt Nam chống chính sách can thiệp và xâm lược của
đế quốc Mỹ cũng là quá trình đấu tranh bền bỉ, hết sức phức tạp chống những âm
mưu và hành động khi kín đáo, lúc trắng trợn của những người cầm quyền Trung
Quốc thoả hiệp và câu kết với đế quốc Mỹ nhằm kiềm chế và làm suy yếu cách mạng
Việt Nam, hòng khuất phục Việt Nam, từng bước bành trướng ở Đông Dương và Đông
Nam Châu Á.
I - THỜI KỲ 1954-1964 - NHỮNG NGƯỜI CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC NGĂN CẢN NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐẤU
TRANH ĐỂ THỰC HIỆN THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ.
Sau
khi cùng với đế quốc thoả hiệp trong giải pháp Giơnevơ năm 1954, tạo được khu
đệm an toàn ở phía nam, những người lãnh đạo Trung Quốc yên tâm thúc đẩy việc
hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953-1957), và từ năm 1958 đề ra kế
hoạch “đại nhảy vọt” với tham vọng đuổi kịp và vượt một số cường quốc về
kinh tế trong một thời gian ngắn và ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân.
Về đối
ngoại họ đi vào con đường hoà hoãn với đế quốc Mỹ, tiến hành những cuộc nói
chuyện với Mỹ ở Giơnevơ từ tháng 8 năm 1955; đồng thời tìm cách mở rộng ảnh
hưởng ở châu Á, nhất là ở Đông Nam châu Á và Nam Á.
Xuất
phát từ đường lối đối nội, đối ngoại đó, những người cầm quyền Bắc Kinh đã hành
động ngược lại lợi ích của nhân dân Việt Nam, phù hợp với lợi ích của đế quốc
Mỹ ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.
1- Gây sức ép để Việt Nam chấp nhận
chủ trương “trường kỳ mai phục”
Đế
quốc Mỹ và tay sai trắng trợn phá hoại việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất
nước Việt Nam trong thời hạn hai năm như Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam đã quy
định, đồng thời đàn áp cực kỳ tàn bạo phong trào yêu nước ở miền Nam Việt Nam.
Những
người cầm quyền Bắc Kinh luôn luôn “thuyết phục” Việt Nam rằng công cuộc thống
nhất là “một cuộc đấu tranh trường kỳ” và không thể thực hiện được bằng lực
lượng vũ trang.
Tháng
11 năm 1956, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với những người lãnh đạo Việt Nam :
“Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”
“Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”
Diễn
biến thực tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã
chứng tỏ cuộc kháng chiến đó có lâu dài, nhưng không phải lâu dài vô hạn độ như
chủ tịch Mao Trạch Đông nói.
Tháng
7 năm 1955, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình doạ: “Dùng
lực lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và
một khả năng nữa là mất cả miền bắc”.
Tháng
7 năm 1957, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói: “Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có. Phải giữ vĩ tuyến 17…Thời gian có lẽ
dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt.”
Đó là
một điều trái hẳn với Hiệp nghị Giơnevơ, vì theo Hiệp nghị này, vĩ tuyến 17
không phải là biên giới giữa hai quốc gia mà chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời
giữa hai miền Việt Nam .
Những người lãnh đạo Bắc Kinh nhiều lần nhấn mạnh rằng ở miền Nam Việt Nam “chỉ
có thể dùng phương châm thích hợp là trường kỳ mai phục, tích trữ lực lượng,
liên hệ quần chúng, chờ đợi thời cơ”. Thực chất phương châm đó là gì?
Trong
một cuộc trao đổi ý kiến với những người lãnh đạo Việt Nam, uỷ viên trung ương
của Đảng cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng Bộ ngoại giao Trương Văn Thiên cho
rằng ở miền Nam Việt Nam có thể tiến hành đánh du kích. Nhưng sau đó, đại sứ
Trung Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của Bắc Kinh, đã thông báo với phía Việt
Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc mà chỉ
là ý kiến cá nhân.
Như
vậy, “trường kỳ mai phục” có nghĩa là nhân dân Việt Nam thủ tiêu đấu tranh cách mạng, để mặc
cho Mỹ Diệm thả sức đàn áp nhân dân Việt Nam .
“Giữ
vĩ tuyến 17”, “trường kỳ mai phục”, “tích trữ lực lượng”, “chờ đợi thời cơ”… đó
chẳng qua là luận điệu quanh co nhằm che dấu ý đồ của Bắc Kinh muốn duy trì
nguyên trạng chính trị ở Việt Nam, công nhận Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà và nguỵ quyền Sài Gòn song song tồn tại. Ngày 22 tháng 7 năm 1954, khi ăn
cơm với Ngô Đình Luyện, em ruột của Ngô Đình Diệm tại Giơnevơ, thủ tướng Chu Ân
Lai đã gợi ý đặt một công sứ quán của Sài Gòn tại Bắc Kinh. Dù Ngô Đình Diệm đã
bác bỏ gợi ý đó, nhưng đây là một bằng chứng rõ ràng là chỉ 24 giờ sau khi Hiệp
định Giơnevơ được ký kết, những người lãnh đạo Bắc Kinh đã lộ rõ ý họ muốn chia
cắt lâu dài nước Việt Nam.
Trong
thời gian từ năm 1954 đến năm 1959, với chính sách đàn áp phát xít, Mỹ Diệm đã
giết hại hàng vạn người Việt Nam yêu nước, lùa hàng vạn nhân dân vào các trại
tập trung trá hình, gây cho nhân dân Việt Nam những tổn thất to lớn so với bất
kỳ thời gian nào khác trong cuộc chiến tranh cứu nước của mình. Nếu cứ để chúng
tiếp tục giết hại những người Việt Nam yêu nước thì làm sao “tích trữ” được lực
lượng, còn nhân dân đâu để : ” liên hệ quần chúng” và chờ đợi đến thời cơ nào?
Theo cái đà đó thì nước Việt Nam sẽ mất độc lập và vĩnh
viễn bị chia cắt.
Vấn đề
có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng miền Nam là tiếp tục đấu tranh
chính trị hay kết hợp cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang?
Nhân
dân Việt Nam kiên
quyết đi theo đường lối độc lập, tự chủ của mình. Cuối năm 1959 đầu năm 1960,
nhân dân trong những vùng rộng lớn thuộc đồng bằng Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ
đã nhất tề “đồng khởi” kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, làm
rung chuyển tận gốc chế độ tay sai Ngô Đình Diệm.
2 - Ngăn cản nhân dân Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở
miền Nam.
Các
cuộc đồng khởi, thực chất là những cuộc khởi nghĩa thừng phần đã nhanh chóng
phát triển thành một cuộc chiến tranh cách mạng, vừa đấu tranh quân sự vừa đấu
tranh chính trị chống lại “ chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Nhưng những
người cầm quyền Trung Quốc đã không đồng tình với chủ trương đó của Việt Nam.
Tháng
5 năm 1960, hội đàm với phía Việt Nam ,
họ nói về miền Nam Việt Nam như
sau:
“ Không nên nói đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự là chính…Đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay, mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ. ..Dù Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được, vì đế quốc mỹ không chịu để như vậy đâu…
“ Không nên nói đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự là chính…Đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay, mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ. ..Dù Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được, vì đế quốc mỹ không chịu để như vậy đâu…
Miền
bắc có thể ủng hộ về chính trị cho miền Nam, giúp miền Nam đề ra các chính sách
nhưng chủ yếu là bồi dưỡng tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền Nam…Khi
ăn chắc, miền bắc có thể giúp quân sự cho miền Nam, nghĩa là khi hoàn toàn chắc
chắn không xảy ra chuyện gì, có thể cung cấp một số vũ trang mà không cho ai
biết. Nhưng nói chung là không giúp.”
Như
vậy, khi không cản được nhân dân miền Nam Việt Nam “đồng khởi” thì họ cho rằng
hình thức chiến đấu ở miền Nam là đánh du kích, đánh nhỏ từng đơn vị trung đội,
đại đội.
Làm chủ vận mệnh của mình, nhân dân ViệtNam đã
đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam tiến lên vững mạnh. Cuối
năm 1963, chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm sụp đổ, “chiến tranh đặc biệt”
của Mỹ phá sản hoàn toàn.
Làm chủ vận mệnh của mình, nhân dân Việt
3 - Lôi kéo Việt Nam chống Liên Xô
Đầu
những năm 1960, trong khi ngăn cản nhân dân Việt Nam đẩy mạnh chiến đấu
chống Mỹ, những người lãnh đạo Bắc Kinh giơ cao cùng một lúc hai chiêu bài
chống đế quốc Mỹ và chống Liên Xô, nhưng trên thực tế họ tiếp tục hoà hoãn với
đế quốc Mỹ ở châu Á, đánh lạc hướng cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân thế
giới để thực hiện mưu đồ chống Liên Xô, xoá bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa, nắm
quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới”, chuẩn bị tích cực cho việc hoà hoãn và câu
kết với đế quốc Mỹ.
Trong
những cuộc hội đàm với phía Việt Nam năm 1963, họ tìm cách thuyết phục Việt Nam
chấp nhận quan điểm của họ là phủ nhận hệ thống xã hội chủ nghĩa và mở cho họ
“một con đường” xuống Đông Nam châu Á. Cũng trong năm 1963, những người lãnh
đạo Trung Quốc đưa ra cái gọi là Cương lĩnh 25 điểm về đường lối chung của
phong trào cộng sản quốc tế và đề nghị triệu tập cái gọi là hội nghị 11 đảng
cộng sản, thực tế là để nắm vai trò “lãnh đạo cách mạng thế giới” và lập một
“Quốc tế cộng sản” mới do Bắc Kinh khống chế. Họ thiết tha yêu cầu Việt Nam đồng tình là cốt lợi dụng uy tín và vai
trò của Việt Nam trong
phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nhằm mục
đích này, họ còn hứa hẹn viện trợ ồ ạt để lôi kéo Việt Nam . Tổng bí
thư đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thông báo với lãnh đạo Viẹt Nam ý
kiến của lãnh đạo Trung Quốc sẽ viên trợ 1 ti nhân dân tệ nếu Việt Nam khước từ
mọi viện trợ của Liên Xô.
Phía
Việt Nam đã khẳng định thái độ kiên quyết bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa,
không tán thành việc họp hội nghị 11 đảng và không để những người lãnh đạo Bắc
Kinh dùng đất nước Việt Nam làm bàn đạp cho mưu đồ bành trướng của họ. Do tahí
độ kiên quyết của phía Việt Nam , Cương lĩnh 25 điểm không gây
được tiếng vang, âm mưu lập “Quốc tế cộng sản” mới cũng không thành.
◎◎◎
Trong
thời kỳ này, đối với cách mạng Lào, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thi
hành một chính sách giống như đối với Việt Nam . Họ cũng gây sức ép để lực
lượng cách mạng Lào “ trường kỳ mai phục”. Khi Mỹ và tay sai lật đổ Chính phủ
Lào liên hiệp, tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, họ ngăn cản cách mạng Lào đấu
tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và mưu toan ép Đảng Nhân dân
cách mạng Lào “sớm lập lại Chính phủ liên hiệp”, sợ rằng đốm lửa Sầm Nưa,
Phongsalỳ có thể lan ra cả Việt Nam và miền Nam Trung Quốc.
Trong
một cuộc hội đàm với phía Việt Nam tháng 8 năm 1961, khi đề
cập đến vấn đề Lào, phía Trung Quốc nói: “Cần hết sức tránh
việc trực tiếp tham gia chiến tranh. Nếu Mỹ trực tiếp vào Lào thì miền bắc
Việt Nam, Vân Nam, Quảng Tây sẽ xảy ra vấn đề gì? Cần tính đến việc
phiêu ău của Mỹ”.
Đối
với việc giải quyết vấn đề Lào tại Giơnevơ năm 1961-1962, họ còn chủ trương
chia nước Lào theo chiều ngang thành hai vùng: vùng giải phóng ở phía bắc, vùng
do nguỵ quyền Viêng Chăn kiểm soát ở phía nam. Đó là một âm mưu thâm độc nhằm
buộc lực lượng cách mạng Lào phải lệ thuộc vào Trung Quốc và cô lập cách mạng
miền Nam Việt Nam .
Nhưng
những nhà lãnh đạo cách mạng Lào kiên quyết giữ vững đường lối riêng của mình,
lực lượng kháng chiến Lào ngày càng giành nhiều thắng lợi buộc đế quốc Mỹ và
tay sai phải ký Hiệp nghị Giơnevơ năm 1962 công nhận nền trung lập của Lào và
nhận có đại biểu của Mặt trận Lào yêu nước trong Chính phủ liên hiệp thứ hai ở
Lào.
II -THỜI KỲ 1965-1969: LÀM YẾU VÀ KÉO DÀI CUỘC
KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
Trong
thời kỳ này ở Trung Quốc diễn ra cái gọi là cuộc “đại cách mạng văn hoá ”, thực
chất là một cuộc đấu tranh nội bộ điên cuồng và đẫm máu làm đảo lộn toàn bộ xã
hội Trung Quốc, nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác Lênin, phá vỡ Đảng cộng sản Trung
Quốc và cơ cấu nhà nước, khôi phục vị trí độc quyền lãnh đạo của chủ tịch Mao
Trạch Đông và đường lối Mao Trạch Đông ở trong nước, chống Liên Xô, phá hoại
cách mạng thế giới, câu kết với đế quốc Mỹ ở ngoài nước, đẩy mạnh việc thực
hiện chính sách bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn.
Những
người lãnh đạo Trung Quốc, vì lợi ích chiến lược của họ trong thời kỳ này, đã
dấn sâu vào con đường phản bội nhân dân Việt Nam .
1- Bật đèn xanh cho Mỹ trực tiếp xâm lược
Việt Nam
Sau
cuộc chiến tranh ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã rút ra bài học là không nên tiến
hành một cuộc chiến tranh trên lục địa châu Á, nhất là ở những nước láng giềng
của Trung Quốc để tránh đụng độ quân sự trực tiếp với Trung Quốc. Nhưng hơn 10
năm sau, đế quốc Mỹ lại liều lĩnh tiến hành một cuộc phiêu kưu quân sự ở
Việt Nam sau khi gây ra cái gọi là “sự kiện vịnh Bắc Bộ” tháng 8 năm 1964. Một
trong những nguyên nhân chính là đế quốc Mỹ đã được yên tâm về phía những người
cầm quyền Trung Quốc.
Tháng
1 năm 1965, qua nhà báo Mỹ Étga Xnâu , chủ tịch Mao Trạch Đông nhắn Oasinhtơn: “Quân
đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là điều hoàn
toàn rõ ràng. Chỉ khi nào Mỹ tấn công, người Trung Quốc mới chiến đấu. Phải
chăng như vậy là không rõ ràng? Người Trung Quốc rất bận về công việc nội bộ
của mình. Đánh nhau ngoài biên giới nước mình là phạm tội ác. Tại sao người
Trung Quốc phải làm như vậy? Người Nam Việt Nam có thể
đương đầu với tình hình.” (Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà xuất bản Hớt xin xơn, Lân đơn,
1973, tr. 216)
Sau đó
bằng nhiều cách, kể cả bằng cách trực tiếp nói trong cuộc đàm phán Trung Mỹ cấp
đại sứ tại Vacsava, phía Trung Quốc làm cho Mỹ hiểu rõ câu nói của chủ tịch Mao
Trạch Đông và yên tâm rằng: “người không đụng đến ta thì ta không đụng đến
người”.
Do đó
từ tháng 2 năm 1965 chính quyền Giônxơn đã sử dụng bộ máy chiến tranh khổng lồ
của Mỹ vào chiến trường Việt Nam, đưa quân Mỹ vào miền Nam tiến hành chiến
tranh cục bộ, đồng thời làm chiến tranh phá hoại bằng không quân chống nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, gây nên biết bao tang tóc và tàn phá đối với nhân
dân cả nước Việt Nam.
Như
vậy, những người cầm quyền Trung Quốc đã bộc lộ những tính toán lắt léo, những
ý đồ thâm độc của họ. Họ đẩy Mỹ sa lầy trong chiến tranh xâm lược
Việt Nam để họ yên tâm làm cuộc “cách mạng văn hoá”. Khi Mỹ lao vào
cuộc phiêu lưu quân sự ở Việt Nam, họ muốn làm yếu cả Mỹ lẫn
Việt Nam.
Câu
nói của thủ tướng Chu Ân Lai với tổng thống Ai Cập A. Nátxe ngày 23 tháng 6 năm
1965, do ông Môhamét Hátxenen Hâycan, người bạn thân thiết và cố vấn riêng của
tổng thống A. Nátxe kể lại là một bằng chứng hùng hồn: “Mỹ
càng đưa nhiều quân vào Việt Nam thì chúng tôi càng vui lòng vì chúng tôi biết
rằng chúng tôi nắm chúng trong tay, chúng tôi có thể lấy máu chúng. Nếu Ngài
muốn giúp đỡ người Việt Nam thì cần khuyến khích Mỹ ném càng nhiều
lính Mỹ vào Việt Nam càng tốt” (Mô-ha-mét Hát-xe-nen Hây-can: "Những tài
liệu từ Cai-rô" Nhà xuất bản Phia-ma-ri-ông, Paris, 1972, tr. 238)
Đối
với nhân dân Việt Nam, những người cầm quyền Trung Quốc chỉ một mực nhấn
mạnh là phải đánh lâu dài, đánh du kích, không đánh lớn. Họ giúp nhân dân
Việt Nam chủ yếu là gúp vũ khí nhẹ, đạn dược, trang bị hậu cần.
Họ không muốn cuộc chiến tranh Việt Nam sớm kết thúc vì không những họ muốn lực
lượng cách mạng Việt Nam suy yếu mà còn muốn lợi dụng càng lâu càng tốt cái
tiếng “viện trợ Việt Nam” để giương cao ngọn cờ “cách mạng trệt để”, tập họp
lực lượng ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh, đẩy mạnh chiến dịch chống Liên
Xô.
Không
có gì đáng ngạc nhiên khi họ khước từ thi hành một hiệp định quân sự bí mật
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo hiệp định này, về nguyên tắc, đến
tháng 6 năm 1965 phía Trung Quốc phải gửi phi công sang giúp Việt Nam. Nhưng
ngày 16 tháng 7 năm 1965 Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng Trung Quốc đã báo cho
Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là phía Trung Quốc không thể gửi
phi công sang Việt Nam được vì “thời cơ chưa thích hợp” và “làm như vậy không
ngăn cản được địch đẩy mạnh oanh tạc “. Trong một cuộc hội đàm với phía
Việt Nam tháng 8 năm 1966 họ cũng nói: “ Trung Quốc không đủ khả năng
về không quân giúp bảo vệ Hà Nội”.
2 -Phá hoại mọi hành động thống nhất ủng hộ
Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Để
Việt Nam buộc phải lệ thuộc vào Trung Quốc, những người cầm quyền Bắc Kinh ra
sức ngăn cản mọi hành động thống nhất của các lực lượng cách mạng và tiến bộ
trên thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
Ngày
28 tháng 2 năm 1965, họ bác bỏ dự thảo do phía Việt Nam đề nghị ngày 22 tháng 5
năm 1965 là các nước xã hội chủ nghĩa ra tuyên bố chung lên án Mỹ tăng cường
chiến tranh xâm lược chống nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tháng
3 năm 1965, họ lại hai lần bác bỏ đề nghị của Liên Xô về vấn đề thống nhất hành
động để bảo đảm an ninh của Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính vì thế
họ đã bác bỏ đề nghị của Liên Xô lập cầu hàng không qua Trung Quốc, lập các sân
bay trên đất Trung Quốc để bảo vệ Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tháng
2 năm 1966, chủ tịch Mao Trạch Đông bác bỏ việc thành lập Mặt trận quốc tế ủng
hộ Việt Nam đã được nêu trong cuộc hội đàm cấp cao Việt Trung.
Tháng
3 năm 1966, cũng chủ tịch Mao Trạch Đông bác bỏ việc thành lập Mặt trận quốc tế
thống nhất ủng hộ Việt Nam do Đảng cộng sản Nhật Bản nêu trong cuộc
hội đàm cấp cao với Đảng cộng sản Trung Quốc. Sau đó bọn tay sai của Bắc
Kinh đã trắng trợn hành hung đại diện Đảng cộng sản Nhật Bản tại Trung Quốc.
Nhưng
những người cầm quyền Trung Quốc lại muốn thành lập một cái gọi là Mặt trận
nhân dân thế giới do họ khống chế: “Cần phải thành lập Mặt trận thống
nhất thế giới rộng rãi nhất chống đế quốc Mỹ và tay sai…Tất nhiên Mặt trận đó
không thể bao gồm họ (Liên Xô) được…” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 khóa
8 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1956).
Đi đôi
với việc phá hoại mọi hành động thống nhất ủng hộ Việt Nam, họ gây khó khăn rất
lớn cho việc vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác quá cảnh đất Trung Quốc và tìm cách điều chỉnh sự viện trợ đó để hạn chế
khả năng đánh lớn của nhân dân Việt Nam, đặc biệt trong các mùa khô.
Trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc,
nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đã đoàn kết chặt chẽ với
nhau và đó là truyền thống, là một nhân tố thắng lợi của nhân dân ba nước. Sau
khi Mỹ tăng cường chiến tranh chống nhân dân Việt Nam và uy hiếp độc lập, hoà
bình và trung lập của Lào và Campuchia, tháng 3 năm 1965 Hội nghị nhân dân các
nước Đông Dương đã họp ở Phnôm Pênh, Mặt trận đoàn kết chống Mỹ của nhân dân
các nước Đông Dương được hình thành. Những người cầm quyền Trung Quốc bên ngoài
buộc phải hoan nghên kết quả của hội nghị, nhưng bên trong mưu tính phá hoại
Mặt trận đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương. Theo chính sách cổ truyền “chia
để trị” của tất cả bọn đế quốc và phản động, họ chia rẽ ba nước Đông Dương, làm
suy yếu và cô lập Việt Nam hòng đánh tỉa từng nước.
Năm
1966 ở Lào, trong các vùng giải phóng do Mặt trận Lào yêu nước quản lý, theo kế
hoạch của Bắc Kinh, người Hoa tìm cách chia rẽ người Lào với người
Việt Nam, tuyên truyền xuyên tạc và xúi giục một số phần tử chống lại Đảng
nhân dân cách mạng Lào. Mặt khác, Bắc Kinh tranh thủ chính quyền Vương quốc Lào,
đẩy mạnh việc giúp Lào làm hệ thống đường ở 5 tỉnh Bắc Lào nối liền với cao
nguyên Vân Nam của Trung Quốc và có những nhánh đi về hướng Việt Nam, Thái Lan
nhằm tạo điều kiện can thiệp vào công việc nội bộ của Lào và chuẩn bị cho những
kế hoạch bành trướng sau này.
Ở
Campuchia, từ trước năm 1965, những người cầm quyền Trung Quốc đã trắng trợn vu
cáo Việt Nam hy sinh lợi ích của cách mạng Campuchia tại Hội nghị Giơnevơ 1954
về Đông Dương, mặc dù sự thật rõ ràng là chính họ đã bán rẻ những lợi ích đó.
Từ năm 1965, họ nắm Pôn Pốt, thúc đẩy y cùng đồng bọn tiến hành đấu tranh vũ
trang chống chính quyền Xihanúc đang liên minh với các lực lượng kháng chiến
Việt Nam và Lào. Nửa cuối năm 1969, sau khi Lon Non lên làm thủ
tướng, những người cầm quyền Trung Quốc ủng hộ quan điểm của Lon Non là Quân
giải phóng miền Nam Việt Nam phải rút khỏi các căn cứ ở Campuchia và không được
dùng cảng Xihanucvin vào việc vận chuyển hậu cần. Chính trong thời gian này, bè
lũ Pôn Pốt Iêngxary cũng đòi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam rút
khỏi các căn cứ ở Campuchia.
Trái
với sự mong ước của Bắc Kinh, Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam vẫn
hình thành, trên thực tế, tình đoàn kết giữa nhân dân các nước Đông Dương ngày
càng củng cố và nhân dân Việt Nam càng đánh càng mạnh, càng giành thêm nhiều
thắng lợi.
3 -Ngăn cản cuộc thương lượng của
Việt Nam với Mỹ để kéo Mỹ xuống thang.
Ngay
từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, chủ trương của Việt Nam là
tiến hành đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.
Đầu
năm 1968, khi cuộc chiến tranh của Mỹ đến đỉnh cao nhất, nhân dân Việt Nam đã
tiến hành thắng lợi cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, giáng cho địch
một đòn quyết liệt, làm đảo lộn thế chiến lược của chúng, buộc chính quyền Mỹ
phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với Việt Nam dân chủ cộng hoà
tại Pari.
Trong
cuộc đàm phán với phía Việt Nam tháng 4 năm 1968, phía Trung Quốc thừ nhận rằng
Tuyên bố ngày 28 tháng 1 năm 1967 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
về việc đàm phán với Mỹ đã gây ảnh hưởng tốt: “Ngay đồng minh của Mỹ, cả Đờ Gôn
cũng đòi chấm dứt ném bom không điều kiện”. Nhưng họ vẫn cho rằng: “Lúc này Việt Nam chấp nhận đàm phán chưa phải là thời cơ và trên
tư thế cao, ta đã nhân nhượng một cách vội vã”.
Từ
ngày 13 tháng 5 năm 1968, ngày khai mạc Hội nghị Pari đến trung tuần tháng 10
năm 1968, bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh không đưa một tin nào về cuộc đàm
phán giữa Việt Nam và Mỹ, nhưng lại nhấn mạnh rằng nhân dân Việt Nam cần giải
quyết số phận cuộc đấu tranh của mình “không phải trên bàn hội nghị mà trên
chiến trường”, thậm chí còn đe doạ rằng: “nếu miền Nam Việt Nam không được bảo
đảm thì cuối cùng sẽ đưa đến chỗ mất toàn bộ Việt Nam”.
Xu
hướng Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom miền bắc Việt Nam càng lộ rõ thì
phản ứng của Bắc Kinh càng mạnh.
Ngày 9
tháng 10 năm 1968, một nhà lãnh đạo Trung Quốc đã gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại
thương Việt Nam tại Bắc Kinh và yêu cầu báo cáo với lãnh đạo Việt Nam rằng họ
coi việc Mỹ chấm dứt ném bom miền bắc Việt Nam là “sự thoả hiệp của Việt Nam và
Mỹ”, “là một thất bại lớn, tổn thất lớn đối với nhân dân Việt Nam giống như
cuộc đàm phán ký Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954 là một sai lầm”; họ đề nghị phía
Việt Nam “nên để cho Mỹ bắn
phá trở lại khắp miền bắc, làm như vậy là để Mỹ phân tán mục tiêu oanh tạc,
đồng thời cũng chia sẻ bớt khó khăn cho miền Nam”.
Ngăn
cản nhân dân Việt Nam thương lượng với Mỹ, khuyến khích Mỹ tăng cường ném bom
miền bắc Việt Nam, đây chính là cái mà tướng Mỹ M. Taylơ gọi là quyết tâm của
những người lãnh đạo Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhằm làm suy yếu Việt Nam, có lợi cho
chính sách bành trướng của họ.
Trong
cuộc gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam nói trên, phía Trung Quốc còn
trắng trợn vu khống Việt Nam đàm phán với Mỹ là do “nghe lời của Liên Xô” và
yêu cầu phía Việt Nam lựa chọn: “Hoặc là muốn đánh thắng Mỹ thì phải
cắt quan hệ với Liên Xô, hoặc là muốn thoả hiệp với Mỹ, dùng viện trợ của Trung
Quốc đánh Mỹ để đạt mong muốn đàm phán với Mỹ thì sự viện trợ của Trung Quốc sẽ
mất hết ý nghĩa của nó”.
Ngày
17 tháng 10 năm 1968, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị gặp đại diện Việt Nam
thông báo tuyên bố của những người lãnh đạo Trung Quốc về cuộc đàm phán giữa
Việt Nam và Mỹ: “Lần này nếu các đồng chí chấp nhận bốn bên
đàm phán tức là giúp cho Giônxơn và Hămphơrây đoạt được thắng lợi trong bầu cử,
để cho nhân dân miền Nam Việt Nam vẫn ở dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bù
nhìn, không được giải phóng, làm cho nhân dân miền Nam Việt Nam còn có khả năng
bị tổn thất lớn hơn…Như vậy giữa hai Đảng và hai nước chúng ta còn cần nói
chuyện gì nữa?”.
Đe doạ
cắt quan hệ giữa hai Đảng là một thủ đoạn trắng trợn, một sức ép lớn nhất của
những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam.
Đi đôi
với việc đe doạ bằng lời lẽ thô bạo là việc đe doạ bằng hành động thực sự. Năm
1968, khi bàn vấn đề viện trợ cho Việt Nam trong năm 1969, những
người cầm quyền Bắc Kinh đã giảm kim ngạch viện trợ hơn 20% so với kim ngạch
viện trợ năm 1968. Hơn thế nữa, tháng 8 năm 1969 họ trắng trợn nói: “Thế
Việt Nam đánh hay hoà để Trung Quốc tính việc viện trợ?”
Thực
tế họ đã giảm kim ngạch viện trợ năm 1970 hơn 50% so với năm 1968.
Sự
thật là không phải đến năm 1968 những người lãnh đạo Bắc Kinh mới dùng vấn đề
viện trợ để ép Việt Nam. Tháng 4 năm 1966, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung
Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói với một nhà lãnh đạo Việt Nam rằng năm
1964 “đồng chí Mao Trạch Đông có phê bình
chúng tôi là quá nhiệt tâm đối với vấn đề Việt Nam. Bây giờ chúng tôi mới
thấy rõ đồng chí Mao nhìn xa”.
Phía
Việt Nam đã trả lời: “Sự nhiệt tình của một nước xã hội
chủ nghĩa đói với một nước xã hội chủ nghĩa khác là xuất phát từ tinh
thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các
đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2 hay 3 triệu
người…Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ
vững tinh thần quốc tế vô sản”
Để
tăng sức ép đối với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc còn chỉ thị cho
sứ quán của họ ở Hà Nội xúi giục, tổ chức người Hoa ở Việt Nam gây rối, chống
lại Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cùng với hàng vạn người thuộc “bộ
đội hậu cần” Trung Quốc sang làm đường giúp Việt Nam ở những tỉnh phía bắc từ
năm 1965 đến 1968, bọn phản động người Hoa tuyên truyền cho “tư tưởng Mao Trạch
Đông” và “cách mạng văn hoá”, xuyên tạc đường lối của Việt Nam, tổ chức các
màng lưới gián điệp. Những người cầm quyền Bắc Kinh còn cho những người gọi là
“tị nạn cách mạng văn hoá” thâm nhập các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam để
làm tình báo và tổ chức các “đội quân ngầm” (Trong cuộc hội đàm
cấp cao Việt - Trung tháng 9 năm 1970, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã thừa nhận
trách nhiệm của Trung Quốc đối với các hoạt động không hữu nghị đó. Tháng 11
năm 1977. Chủ tịch Hoa Quốc Phong lại một lần nữa, thừa nhận như thế.)
Nhưng
nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững đường lối độc lập tự chủ không
gì lay chuyển được của mình. Tất cả những thủ đoạn thô bạo gây sức ép, tất cả
những thủ đoạn chính trị của Bắc Kinh đều đã thất bại: Mỹ đã buộc phải chấm dứt
không điều kiện việc ném bom miền bắc Việt Nam từ đầu tháng 11 năm 1968 và ngồi
vào cuộc Hội nghị bốn bên ở Pari có Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam tham gia từ đầu năm 1969.
III -THỜI KỲ 1969-1973 : ĐÀM PHÁN VỚI MỸ TRÊN
LƯNG NHÂN DÂN VIỆT NAM
Năm
1969, cuộc “đại cách mạng văn hoá” ở Trung Quốc về cơ bản hoàn thành. Những
người cầm quyền Bắc Kinh bên trong thì ra sức củng cố quyền lãnh đạo của chủ
tịch Mao Trạch Đông, ổn định tình hình, đẩy mạnh sản xuất, bên ngoài thì thi
hành mọi biện pháp để đẩy nhanh quá trình nhích lại gần đế quốc Mỹ nhằm ngoi
lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ Trung Mỹ và giải quyết
vấn đề Đài Loan. Họ mưu toan dùng con bài Việt Nam để đạt mục tiêu
đối ngoại đó.
Năm
1969 là năm đầu của Níchxơn vào Nhà Trắng. Ông ta đưa ra cái gọi là “học thuyết
Nichxơn” nhằm cứu vãn và khôi phục địa vị của đế quốc Mỹ trên thế giới đã bị
suy yếu nghiêm trọng do hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực
hiện chiến lược “Việt Nam hoá” chiến tranh nhằm rút được quân Mỹ ra
khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu.
Thời
kỳ 1969-1973 là thời kỳ nhân dân Việt Nam đẩy mạnh tiến công trên
chiến trường cũng như tại Hội nghị bốn bên ở Pari, ngày càng giành thêm nhiều
thắng lợi. Đây cũng là thời kỳ Bắc Kinh và Oasinhtơn tăng cường tiếp xúc, bắt
tay công khai với nhau, bàn bạc không những các vấn đề tay đôi mà cả các vấn đề
thuộc về chủ quyền của nhân dân Việt Nam và của nhân dân các nước ở Đông Dương.
1- Công khai phản bội nhân dân Việt Nam
Từ
tháng 11 năm 1968, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra tuyên bố tỏ ý muốn nối lại
các cuộc đàm phán Trung Mỹ ở Vácsava và cùng với Mỹ ký một thoả thuận cùng tồn
tại hoà bình. Tiếp đó phía Trung Quốc đã tích cực đáp ứng những tín hiệu của
phía Mỹ. Sau khi lên làm tổng thống, Níchxơn báo cho phía Trung Quốc là các
cuộc thảo luận giữa Mỹ và Trung Quốc có thể tiến hành ở Trung Quốc. Phía Trung
Quốc đã trả lời là “ bản thân Níchxơn có thể đến Bắc Kinh hoặc cử một phái viên
đến để thảo luận về vấn đề Đài Loan” (Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà
xuất bản Hớt xin xơn, Lân đơn, 1973, tr. 11)
Tháng
6 năm 1970, Trung Quốc và Mỹ thoả thuận là đại sứ Trung Quốc Hoàng Chấn và
Kitxinhgiơ sẽ tiến hành những cuộc đàm phán bí mật mỗi lần Kítxinhgiơ đến Pari
đàm phán với phía Việt Nam” (V.A. Ôan-tơ: Những chuyến công du thầm lặng. Nhà xuất
bản Đáp-bơn-đê, Niu Oóc, 1978, tr. 530-531)
Ngày
10 tháng 12 năm 1970, qua người bạn thân tín Étga Xnâu, chủ tịch Mao Trạch Đông
đưa ra lời mời Tổng thống Níchxơn sang thăm Trung Quốc. :
“Ông
ta chắc chắn sẽ được hoan nghênh vì hiện nay những vấn đề giữa Trung Quốc và Mỹ
phải được giải quyết với Níchxơn” (Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà xuất
bản Hớt xin xơn, Lân đơn, 1973, tr. 172)
Đây là
bước ngoặt của Bắc Kinh có ý nghĩa quyết định trong quan hệ Trung Mỹ, đồng thời
là bước ngoặt công khai phản bội cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương,
phản bội cách mạng thế giới. Bắc Kinh tăng cường các cuộc tiếp xúc công khai
với Mỹ:
Tháng
3 năm 1971, Trung Quốc mời một đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc, mở đầu
cái mà dư luận thế giới gọi là “ngoại giao bóng bàn”.
Tháng
7 năm 1971 và tháng 10 năm 1971 Kitxinhgiơ, đặc phái viên của Níchxơn sang Bắc
Kinh.
Tháng
2 năm 1972, Níchxơn sang thăm Trung Quốc.
Thông
báo cho phía Việt Nam biết cuộc đi thăm Bắc Kinh lần thứ nhất của Kítxinhgiơ,
ngày 13 tháng 7 năm 1971 Đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc đã nói:
“Vấn
đề Đông Dương là quan trọng nhất trong cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và
Kítxinhgiơ. Kítxinhgiơ nói rằng Mỹ gắn việc giải quyết vấn đề Đông Dương với
việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Mỹ nói có rút được quân Mỹ ở Đông Dương thì
mới rút quân Mỹ ở Đài Loan. Đối với Trung Quốc, vấn đề rút quân Mỹ khỏi miền
Nam Việt Nam là vấn đề số 1. Còn vấn đề Trung Quốc vào Liên hợp quốc
là vấn đề số 2”
Khi
Níchxơn kết thúc cuộc đi thăm Trung Quốc, hai bên đã ký Thông cáo Thượng Hải
ghi nhận kết quả hội đàm giữa hai bên, trong đó có một đoạn như sau:
“Mỹ
khẳng định mục tiêu cuối cùng là rút hết các lực lượng và cơ sở quân sự ra khỏi
Đài Loan. Trong khi chờ đợi, tuỳ theo tình hình căng thẳng trong khu vực này
giảm đi, Mỹ sẽ dần dần giảm lực lượng và cơ sở quân sự của Mỹ ở Đài Loan”
Đầu
tháng 3 năm 1972, khi thông báo cho phía Việt Nam về cuộc hội đàm vơi Níchxơn,
đại diện những người lãnh đạo Trung Quốc đã giải thích về đoạn thông cáo trên
như sau: “Muốn bình thường hoá quan hệ Trung Mỹ, muốn làm dịu tình hình ở Viễn Đông thì
trước hết phải giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Chúng tôi không đòi
giải quyết vấn đề Đài Loan trước. Vấn đề Đài Loan là bước sau”
Thâm
tâm của Bắc Kinh là lợi dụng vấn đề Việt Nam để giải quyết trước
vấn đề Đài Loan. Nhưng Việt Nam kiên quyết giữ vững đường lối độc lập
tự chủ của mình. Do đó những người lãnh đạo Trung Quốc và Tổng thống Nichxơn
mới thoả thuận: “Trong khi chờ đợi, tuỳ theo tình hình căng thẳng trong khu vực
này giảm đi…”
Điều
đó có nghĩa là nếu Bắc Kinh muốn thúc đẩy việc rút lực lượng và các cơ sở quân
sự của Mỹ ra khỏi Đài Loan thì họ cần ép Hà Nội đi vào một giải pháp thoả hiệp
với Mỹ.
Phía
Trung Quốc dùng “củ cà rốt” viện trợ: nếu năm 1968 vì phản đối Việt Nam đàm
phán với Mỹ họ đã giảm kim ngạch viện trợ cho Việt Nam thì năm 1971 và năm
1972, để lôi kéo Việt Nam đi vào chiều hướng của Bắc Kinh thoả hiệp với Mỹ, họ
đã dành cho Việt Nam viện trợ cao nhất của họ so với những năm trước đó. Đây
cũng là thủ đoạn nhằm che đậy sự phản bội của họ nhằm xoa dịu sự công phẩn của
nhân dân Việt Nam.
Đi đôi
với tăng thêm viện trợ là sự thúc ép liên tục để Việt Nam chấp nhận giải pháp
của Mỹ. Ngày 18 tháng 7 năm 1971, phía Trung Quốc thông báo cho phía Việt Nam
phương án bốn điểm của Mỹ: rút quân và thả tù binh Mỹ trong 12 tháng kể từ ngày
1 tháng 8 năm 1971, ngừng bắn toàn Đông Dương và giải pháp theo kiểu Giơnevơ
năm 1954. Về rút quân, “vì thể diện” Mỹ muốn để lại một số cố vấn kỹ thuật; về
chính trị “Mỹ không muốn bỏ Nguyễn Văn Thiệu cũng như không muốn bỏ Xirích
Matắc”
Trong
cuộc hội đàm với phía Việt Nam tháng 11 năm 1971 họ nói: “Việt Nam nên
tranh thủ thời cơ giải quyết trước vấn đề rút quân Mỹ và quan tâm giải quyết
vấn đề tù binh Mỹ, việc đánh đổ nguỵ quyền Sài Gòn là lâu dài”
Cũng
trong dịp này, sau khi nhắc lại ý của phía Mỹ là “Mỹ có nhiều bạn cũ, Mỹ phải
giữ” chủ tịch Mao Trạch Đông nói: “Vấn đề Đài Loan là vấn đề trường kỳ.
Có lẽ mấy năm không giải quyết xong. Nếu xét nhanh hay chậm thì tôi thiên về
chậm hơn. Hiện nay Tưởng có 65 vạn quân, ở giữa lại có eo biển. Chúng tôi không
sang được, nó vẫn cứ đóng ở đó, chổi không đến nơi thì bụi không đi”
Sau
khi Níchxơn kết thúc chuyến đi thăm Trung Quốc, Kítxinhgiơ nói với các nhà báo
ngày 1 tháng 3 năm 1972 rằng từ nay Níchxơn và bản thân y “chỉ còn việc nhìn về Mátxcơva và nghiền nát
Việt Nam” (Me-vin và Béc -na Can-bê: Kít-xinh-giơ. Nhà xuất bản Lít-tơn Brao,
Tô-rông-tô, 1974, tr.283)
Từ
tháng 4 năm 1972, Mỹ ném bom lại và thả mìn phong toả các cảng miền bắc Việt
Nam và đánh phá ác liệt miền Nam Việt Nam nhằm đối phó với cuộc tiến công chiến
lược mùa xuân năm 1972 của nhân dân Việt Nam, cứu vãn sự sụp đổ của chế độ
Nguyễn Văn Thiệu.
Bước phiêu lưu quân sự này chính là hậu quả rõ ràng của sự đồng loã giữa những người cầm quyền Trung Quốc và Níchxơn.
Bước phiêu lưu quân sự này chính là hậu quả rõ ràng của sự đồng loã giữa những người cầm quyền Trung Quốc và Níchxơn.
Việc
Hiệp định Pari không được ký tắt vào cuối tháng 10 năm 1972, ai cũng rõ đó là
do sự lật lọng của Níchxơn- Kítxinhgiơ. Nhưng những người cầm quyền Trung Quốc
lại đứng trên quan điểm của Mỹ để gây sức ép với Việt Nam. Ngày 1 tháng 11
năm 1972, họ yêu cầu Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam dân chủ cộng hoà
báo cáo với lãnh đạo Việt Nam: Việt Nam nên nhân nhượng về hai vấn
đề rút quân miền bắc và miền bắc Việt Nam không nhận viện trợ quân sự để có thể
ký kết được hiệp định.
Và
ngày 5 tháng 12 năm 1972, đại sứ Trung Quốc Hoàng Chấn chuyển tới phía Việt Nam
lời đe doạ của Kitxinhgiơ: “Đàm phán đã đến lúc có hậu quả
nghiêm trọng: Bắc Việt Nam đòi Mỹ hoặc trở lại hiệp định cũ, hoặc
nhận một hiệp định xấu hơn: Mỹ không thể chấp nhận cả hai điều kiện đó. Nếu
Việt Nam cứ giữ lập trường đó thì đàm phán đứt quãng và Mỹ sẽ có mọi
hành động bảo vệ nguyên tắc của mình”
Đó
chính là giọng lưỡi chuẩn bị cho cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52
những ngày cuối năm 1972 nhằm huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng, hòng khuất phục
nhân dân Việt Nam, buộc nhân dân Việt Nam chấp nhận giải pháp do đế quốc Mỹ áp
đặt.
Trước
sự câu kết của Bắc Kinh với Oasinhtơn phản bội nhân dân Việt Nam , nhân dân
Việt Nam vẫn kiên cường đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ và tin tưởng vào
thắng lợi của mình.
Khi
phía Trung Quốc thông báo với phía Việt Nam rằng trong chuyến thăm Trung Quốc,
Níchxơn cũng sẽ cùng những người lãnh đạo Trung Quốc bàn về vấn đề Việt Nam,
những người lãnh đạo Việt Nam đã thẳng thắn nói: “Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về
vấn đề Việt Nam . Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ
không nên sai lầm một lần nữa”
Khi
phía Trung Quốc thông báo chuyến đi thăm Trung Quốc của Níchxơn, những người
lãnh đạo Việt Nam nói: “Trong cuộc chiến
đấu chống Mỹ, nhân dân Việt Nam phải thắng. Tới đây, đế quốc Mỹ có
thể đánh phá trở lại miền bắc ác liệt hơn nữa, nhưng nhân dân Việt Nam không
sợ, nhân dân Việt Nam nhất định thắng”
Bất
chấp mọi sức ép của Bắc Kinh và Oasinhtơn, nhân dân Việt Nam không những không
nhân nhượng về những vấn đề có tính nguyên tắc, mà còn trừng trị đích đáng đế
quốc Mỹ về những tội ác của chúng và cuối cùng buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari
về Việt Nam ngày 27 tháng 1 năm 1973.
2 - Nắm trọn vấn đề Campuchia
Trong
khuôn khổ đường lối hoà hoãn và câu kết với đế quốc Mỹ , dọn con đường bành
trướng xuống Đông Nam châu Á sau này, đồng thời phá hoại Mặt trận đoàn kết nhân
dân các nước ở Đông Dương, gây thêm sức ép đối với Việt Nam, từ năm 1970 Bắc
Kinh tìm cách nắm các lực lượng Campuchia, thi hành một chính sách rất phức tạp
đối với Campuchia, nhưng trước sau chỉ nhằm một mục tiêu: lợi ích ích kỷ của
họ.
Dư
luận còn nhớ bọn đế quốc và phản động đã gây ra cuộc đảo chính ngày 18 tháng 3
năm 1970, lật đổ chính phủ của ông hoàng Nôrôđôm Xihanúc, đưa lon Non lên cầm
quyền. Lon Non vốn là người Campuchia gốc Hoa, lại là người của Mỹ, cho nên
những người lãnh đạo Trung Quốc muốn dùng y và bỏ rơi ông Xihanúc. Tại Bắc
Kinh, Bộ Ngoại giao Trung quốc nói với đại sứ Việt Nam: “Xihanúc
không có lực lượng. Việt Nam cần ủng hộ Lon Non; Trung Quốc đón
Xihanúc (1) nhưng vẫn quan hệ tốt với đại sứ quán của PhnômPênh”
(1) Khi đó ông Xi-ha-núc vừa kết thúc chuyến
đi thăm Liên-Xô và đang trên đường đi Bắc kinh.
Tại
PhnômPênh, đại sứ Trung Quốc cũng nói những điều tương tự với đại sứ
Việt Nam. Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn nói với đại sứ Việt Nam ở
Bắc Kinh là Trung Quốc không đồng ý để sinh viên Việt Nam ở Trung
Quốc biểu tình chống Lon Non.
Ngay
sau khi nổ ra cuộc đảo chính ở PhnômPênh và ông Xihanúc tới Bắc Kinh, thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã sang Trung Quốc thuyết phục những người lãnh đạo Trung Quốc
nên ủng hộ ông Xihanúc, đồng thời trực tiếp biểu thị với ông Xihanúc sự ủng hộ
mạnh mẽ của Việt Nam đối với ông ta và lực lượng kháng chiến Khơme.
Ngày
23 tháng 3 năm 1970, ông Xihanúc công bố bản tuyên cáo 5 điểm lên án cuộc đảo
chính của Lon Non và kêu gọi nhân dân Campuchia đoàn kết chống đế quốc Mỹ và bè
lũ Lon Non.
Ngày
25 tháng 3 năm 1970, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố
hoàn toàn ủng hộ bản Tuyên cáo đó.
Ngày 7
tháng 4 năm 1970, Chính phủ Trung Quốc mới ra tuyên bố ủng hộ Tuyên cáo của ông
Xihanúc. Tuy vậy, họ tiếp tục có những cuộc tiếp xúc bí mật với chính quyền Lon
Non. Trong khi đó, với sự giúp đỡ của các lực lượng vũ trang Việt Nam, lực
lượng kháng chiến Khơme giành thêm nhiều chiến thắng mới, giải phóng một phần
tư đất nước. Chỉ sau khi Níchxơn đưa quân Mỹ xâm lược Campuchia, gây nên một
làn sóng phản đối mạnh mẽ trên thế giới và ngay cả ở Mỹ, Chính phủ Trung Quốc
mới cắt đứt quan hệ với chính quyền Lon Non ngày 5 tháng 5 năm 1970.
Rõ
ràng là do Việt Nam kiên quyết ủng hộ Chính phủ kháng chiến Campuchia
và do tình hình thực tế trên chiến trường phát triển có lợi cho các lực lượng
kháng chiến, những người cầm quyền Bắc Kinh mới chuyển sang ủng hộ ông Xihanúc,
Chủ tịch Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia chống Mỹ xâm lược. Từ đó họ tìm
cách nắm chặt ông Xihanúc làm con bài độc quyền của họ để chuẩn bị cho những
cuộc mặc cả với Mỹ. Tuy ủng hộ ông Xihanúc và Chính phủ kháng chiến Campuchia,
họ vẫn ngấm ngầm duy trì những quan hệ bí mật với bè lũ Lon Non-Xirích Matắc,
mặt khác tích cực dùng bọn Pôn Pốt-IêngXary, dần dần biến Đảng Khơme thành một
đảng phụ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc như kiểu các đảng, các nhóm theo
Mao ở Đông Nam châu Á và ở một số nước khác trên thế giới.
Những
người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương lần
thứ nhất tháng 4 năm 1970 và cố tình làm cho dư luận thấy rằng họ đã “đóng góp”
nhiều vào hội nghị đó. Họ muốn chứng tỏ cho Mỹ hiểu rằng họ có thể giúp Mỹ tìm
một giải pháp cho cả vấn đề Đông Dương và chính họ là người “thay mặt” cho Việt
Nam và các nước khác ở Đông Dương để đàm phán với Mỹ.
Trong
bối cảnh nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia liên tiếp giáng
những đòn mạnh mẽ vào các kế hoạch phiêu lưu quân sự của Níchxơn, ông Xihanúc
đề nghị triệu tập Hội nghị cấp cao lần thứ hai của nhân dân các nước Đông Dương
vào cuối năm 1971, nhằm phát huy thắng lợi, đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ
của nhân dân các nước ở Đông Dương. Bề ngoài những người lãnh đạo Trung Quốc
tán thành đề nghị đó, nhưng bên trong họ giật dây bọn Pôn Pốt-Iêng Xary phản
đối. Mặt khác, nhân chuyến đi thăm Việt Nam tháng 3 năm 1971, họ gợi ý triệu
tập hội nghị 5 nước 6 bên (hai miền Nam, Bắc Việt Nam, Lào, Campuchia, Trung
Quốc và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên) trên đất Trung Quốc nhằm mục tiêu
chống Nhật. Ý đồ của họ là phá hoại khối đoàn kết, lái chệch mục tiêu đấu tranh
của nhân dân các nước ở Đông Dương, đồng thời tập hợp lực lượng dưới sự chỉ đạo
của Bắc Kinh để họ có thêm thế đi vào đàm phán với Mỹ. Phía Việt Nam ủng
hộ đề nghị của ông Xihanúc, không tán thành họp hội nghị 5 nước 6 bên như Trung
Quốc gợi ý, cũng không tán thành quan điểm cho rằng nguy cơ bấy giờ là Nhật vì
kẻ thù chính của nhân dân ba nước Đông Dương vẫn là đế quốc Mỹ xâm lược. Do đó,
kế hoạch hội nghị 5 nước 6 bên của Bắc Kinh đã hoàn toàn thất bại.
Trong
lúc tìm cách nắm trọn vấn đề Campuchia, những người lãnh đạo Trung Quốc còn mưu
toan nắm con đường vận chuyển quân sự qua ba nước Đông Dương. Trong mấy năm
liền cho đến năm 1972, họ đề nghị giúp làm đường và vận chuyển hàng phục vụ
chiến trường từ miền bắc đến miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia trên con đường
mòn Hồ Chí Minh và hứa cung cấp cho Việt Nam đủ xe, người lái và khoảng 20 vạn
quân nhân Trung Quốc để bảo đảm công việc này. Ý đồ của họ là qua đó nắm toàn
bộ vấn đề Đông Dương để buôn bán với Mỹ và chuẩn bị bàn đạp đi xuống Đông Nam
châu Á. Tất nhiên phía Việt Nam không chấp nhận đề nghị đó.
◎◎◎
Nếu
trước đây những người lãnh đạo Trung Quốc ngấm ngầm làm yếu cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam thì trong thời kỳ 1969-1973, nhất là từ năm 1971, họ công
khai câu kết với đế quốc Mỹ xâm lược, cứu nguy cho chúng trước cuộc tiến công
chiến lược mới của nhân dân Việt Nam, lấy con bài Việt Nam để buôn bán với Mỹ.
Nếu trước đây họ ngấm ngầm chia rẽ nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia
nhằm cô lập Việt Nam thì trong thời kỳ này họ bắt đầu dùng bè lũ Pôn Pốt-Iêng
Xary để phá hoại cách mạng ba nước Đông Dương, tích cực chuẩn bị biến Campuchia
thành bàn đạp để tiến công Việt Nam, khống chế bán đảo Đông Dương, từ đó bành
trướng xuống Đông Nam châu Á sau này.
Họ đã
phơi trần bộ mặt ghê tởm của kẻ phản bội: phản bội nhân dân
Việt Nam cũng như phản bội nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
IV- THỜI KỲ 1973-1975: CẢN TRỞ NHÂN DÂN
VIỆT NAM GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM
Theo
hiệp định Pari về Việt Nam, Mỹ phải rút hết đội quân viễn chinh của Mỹ ra khỏi
miền Nam Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam, thừa nhận ở miền Nam Việt Nam có hai vùng, hai chính quyền, hai quân đội
và ba lực lượng chính trị, và các bên Việt Nam cùng thành lập một Chính phủ
liên hiệp ba thành phần ở miền Nam Việt Nam. Đó là thắng lợi của đường lối độc
lập, tự chủ và cuộc chiến đấu ngoan cường của nhân dân Việt Nam, là thắng
lợi của phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Đó là
thất bại của sự mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam giữa
chính quyền Níchxơn và những người lãnh đạo Trung Quốc thể hiện trong Thông cáo
Thượng Hải.
Chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam
Việt Nam luôn luôn chủ trương thi hành nghiêmm chỉnh Hiệp định Pari và đòi Mỹ
Thiệu cũng phải có thái độ như vậy.
Nhưng
Mỹ Thiệu mưu toan phá hoại việc thi hành Hiệp định đó, chỉ muốn thi hành những
điều khoản có lợi cho Mỹ. Đối với các điều khoản khác họ vi phạm ngay từ phút
đầu. Lúc Hiệp định Pari bắt đầu có hiệu lực cũng là lúc Mỹ Thiệu đưa hàng vạn
quân có máy bay, trọng pháo và xe tăng yểm trợ đổ bộ lên Cửa Việt hòng chiếm
lấy vùng giải phóng phía bắc tỉnh Quảng Trị. Sau đó quân nguỵ liên tiếp tấn
công trên khắp miền Nam Việt Nam, lấn chiếm nhiều vùng giải phóng do Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam quản lý. Âm mưu của Mỹ nguỵ là
xoá bỏ tình hình thực tế có hai vùng, hai chính quyền, đặt lại toàn bộ miền Nam
Việt Nam dưới ách thống trị thực dân kiểu mới, kéo dài chia cắt nước Việt Nam.
Những
người lãnh đạo Trung Quốc tỏ vẻ hoan nghênh Hiệp định Pari về Việt Nam.
Trên thực tế để thực hiện sự thoả thuận với Mỹ và tăng cường câu kết với Mỹ,
đồng thời tiếp tục làm suy yếu hòng khuất phục Việt Nam, họ tìm mọi cách cản
trở cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm đánh bại âm mưu của Mỹ Thiệu phá
hoại Hiệp định Pari, giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất nước nhà.
1- Kiềm chế cuộc chiến đấu của nhân dân
Việt Nam chống Mỹ Thiệu phá hoại Hiệp định Paris.
Trong
cuộc hội đàm ở Bắc Kinh tháng 6 năm 1973, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với Tổng
bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Ở miền
Nam Việt Nam cần ngừng (chiến đấu) nửa năm, một năm, một năm rưỡi,
hai năm càng tốt”. Cách mạng miền Nam nên “chia làm hai bước. Gộp
lại làm một, người Mỹ không chịu đâu. Vấn đề là trong tay chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu còn có mấy chục vạn quân”.
Và ông
ta nhắc lại đến luận điểm “cái chổi” đã nói với phía Việt Nam trước
đây.
Thủ
tướng Chu Ân Lai thì nói: “Trong một thời gian chưa có thể nói
dứt khoát là 5 năm hay 10 năm, Việt Nam và Đông Dương nghỉ ngơi được thì càng
tốt; tranh thủ thời gian đó mà nhân dân miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia thực
hiện hoà bình, trung lập một thời gian”.
Để tỏ
thiện chí với nhân dân Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc hứa hẹn
sẽ tiếp tục viện trợ trong 5 năm với mức kim ngạch như năm 1973. Sự thật là khi
đó họ đã ngừng hoàn toàn viện trợ về quân sự, còn về viện trợ kinh tế họ nhận
chủ yếu phục hồi các cơ sở do Trung Quốc giúp trước đây và đã bị Mỹ đánh phá
nhưng họ kéo dài việc thực hiện, có nơi không thực hiện.
Những
người cầm quyền Trung Quốc thực chất muốn Việt Nam không làm gì cả,
kể cả khi chính quyền Sài Gòn đưa quân lấn chiếm vùng giải phóng.
Đứng
trước những hành động của quân nguỵ Sài Gòn lấn chiếm vùng giải phóng ngày càng
tăng cường, tháng 10 năm 1973, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Nam Việt
Nam buộc phải ra lệnh kiên quyết đánh trả. Gần một tháng sau đó, trong chuyến
Kítxinhgiơ đi thăm Bắc Kinh, hai bên ra thông cáo thoả thuận là trong tình hình
“đặc biệt nghiêm trọng hiện nay”, hai bên cần tiến hành liên hệ thường xuyên ở
các cấp có thẩm quyền để trao đổi ý kiến về những vấn đề cùng quan tâm. Thực tế
đó là sự phối hợp giữa những người cầm quyền Trung Quốc và Mỹ nhằm ngăn cản
cuộc đấu tranh của các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam.
Những
người cầm quyền Bắc Kinh còn khuyên Mỹ “đừng thua ở Việt Nam, đừng rút lui
khỏi Đông Nam châu Á”. (Theo tướng A. Hai-gơ, báo Mỹ Người hướng dẫn
khoa học cơ đốc, ngày 20 tháng 6 năm 1979.)
Thâm
độc hơn nữa, họ tìm cách lôi kéo nhiều tướng tá và quan chức nguỵ quyền Sài Gòn
hợp tác với họ, thậm chí cho người thuyết phục tướng Dương Văn Minh, “tổng
thống” vào những ngày cuối của chế độ Sài Gòn để tiếp tục chống lại cuộc tổng
tiến công và nổi dậy của quân và đan miền Nam Việt Nam.
2 - Xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam, gây căng thẳng ở biên giới
Từ năm
1973, những người cầm quyền Trung Quốc tăng cường những hành động khiêu khích
và lấn chiếm đất đai ở những tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam, nhằm làm yếu
những cố gắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trang giải phóng hoàn toàn
miền Nam.
Đồng
thời họ ngăn cản Việt Nam thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên
của mình để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế. Ngày 26 tháng 12 năm
1973, phía Việt Nam đề nghị mở cuộc đàm phán để xác định chính thức đường biên
giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ, nhằm sử dụng phần biển
thuộc Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Ngày 18 tháng 1 năm 1974
phía Trung Quốc trả lời chấp thuận đề nghị trên, nhưng họ đòi không được tiến
hành việc thăm dò trong một khu vực rộng 20.000 km2 trong vịnh Bắc Bộ do họ tự
ý định ra. Họ còn đòi “không để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc Bộ”, vì
việc đưa nước thứ ba vào thăm dò “không có lợi cho sự phát triển kinh tế chung
của hai nước và an ninh quân sự của hai nước”. Đó chỉ là một lý do để che đậy ý
đồ đen tối của họ. Cũng vì vậy cuộc đàm phán về đường biên giới giữa Việt Nam
và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1974 đã không đi
đến kết quả tích cực nào. Cũng với thái độ trịch thượng nước lớn như vậy, họ
làm bế tắc cuộc đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ và trong vịnh Bắc Bộ bắt
đầu từ tháng 10 năm 1977 nhằm mục đích tiếp tục xâm phạm biên giới, lấn chiếm
lãnh thổ Việt Nam để duy trì tình hình căng thẳng ở biên giới Việt Trung.
Hơn
nữa, ngày 19 tháng 1 năm 1974, tức là một ngày sau khi phía Trung Quốc nhận đàm
phán với phía Việt Nam về vấn đề vịnh Bắc Bộ, họ sử dụng lực lượng hải quân và
không quân tiến đánh quân nguỵ Sài Gòn và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ lâu
vốn là bộ phận lãnh thổ Việt Nam. Họ nói là để tự vệ, nhưng thực chất đó là một
hành động xâm lược, một sự xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam để khống chế Việt Nam từ
mặt biển và từng bước thực hiện mưu đồ độc chiếm biển Đông. Hành động xâm lược
của họ có tính toán từ trước và được sự đồng tình của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ
Mỹ G. Matin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu và hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa.
Trong
cuộc hội đàm với những người lãnh đạo Việt Nam năm 1975, phó thủ tướng Đặng
Tiểu Bình đã thừa nhận rằng hai bên đều nói các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là của mình, cho nên cần gặp gỡ để bàn bạc giải quyết. Điều đó càng chứng tỏ
hành động của phía Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa là ngang ngược, bất
chấp luật pháp quốc tế, gây ra một tình trạng việc đã rồi. (Về vấn đề biên
giới, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các cộc đàm phán về vịnh Bắc Bộ và
biên giới, xin tham khảo bị vong lục của Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam ngày 7 tháng 8 năm 1979 và ngày 27 tháng 9 năm 1979, và Sách
trắng của Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố ngày 28
tháng 9 năm 1979)
3- Biến Campuchia thành bàn đạp chuẩn bị tiến
công Việt Nam
Sau
Hiệp định Pari về Việt Nam, theo lệnh của Bắc Kinh, bè lũ Pôn Pốt-Iêng
Xary thi hành một chính sách hai mặt đối với Việt Nam: vừa dựa vào
Việt Nam vừa chống Việt Nam.
Chúng tỏ ra “hữu nghị” và “đoàn kết” với Việt Nam để tranh thủ sự giúp đỡ của Việt Nam, đặc biệt là khi chuẩn bị tấn công vào thủ đô Phnôm Pênh. Trong khuôn khổ sự thoả hiệp Trung Mỹ, những người cầm quyền Trung Quốc thực hiện sự thoả thuận không viện trợ quân sự cho cách mạng ba nước Đông Dương. Họ đã từ chối đề nghị của bè lũ Pôn Pốt Iêng Xary về tăng viện vũ khí tiến công bằng cách nhờ Việt Nam cho Pôn Pốt Iêng Xary vay rồi Trung Quốc sẽ thanh toán sau. Đây là một thủ đoạn của Bắc Kinh vừa lấy lòng bọn tay sai ở Campuchia, tránh va chạm với Mỹ, vừa gây thêm khó khăn cho Việt Nam trong lúc Việt Nam đang tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.
Chúng tỏ ra “hữu nghị” và “đoàn kết” với Việt Nam để tranh thủ sự giúp đỡ của Việt Nam, đặc biệt là khi chuẩn bị tấn công vào thủ đô Phnôm Pênh. Trong khuôn khổ sự thoả hiệp Trung Mỹ, những người cầm quyền Trung Quốc thực hiện sự thoả thuận không viện trợ quân sự cho cách mạng ba nước Đông Dương. Họ đã từ chối đề nghị của bè lũ Pôn Pốt Iêng Xary về tăng viện vũ khí tiến công bằng cách nhờ Việt Nam cho Pôn Pốt Iêng Xary vay rồi Trung Quốc sẽ thanh toán sau. Đây là một thủ đoạn của Bắc Kinh vừa lấy lòng bọn tay sai ở Campuchia, tránh va chạm với Mỹ, vừa gây thêm khó khăn cho Việt Nam trong lúc Việt Nam đang tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.
Mặt
khác, bè lũ Pôn Pốt Iêng Xary tìm mọi cách chống Việt Nam. Chúng vu cáo
Việt Nam ký kết Hiệp định Pari là “phản bội Campuchia một lần nữa” để kích động
hận thù dân tộc, gây tâm lý chống Việt Nam và kiếm cớ thanh trừng những người
Campuchia không tán thành đường lối của chúng. Nhiều lần chúng tổ chức những vụ
đánh phá, cướp bóc kho tàng, vũ khí, tiến công bệnh viện và nơi trú quân của
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đặt trên đất Campuchia.
Bè lũ
Pôn Pốt Iêng Xary, bằng những thủ đoạn rất thâm độc, kể cả việc thủ tiêu bí mật
những cán bộ cách mạng chân chính, ra sức củng cố vị trí trong Đảng, nắm toàn
bộ quyền lực để biến Đảng cộng sản Campuchia thành một đảng phụ thuộc Bắc Kinh.
Rõ
ràng những người lãnh đạo Trung Quốc đã tiến thêm một bước trong âm mưu nắm
trọn Campuchia dưới chế độ của bọn Pôn Pốt Iêng Xary, chuẩn bị bàn đạp tiến
công Việt Nam từ phía tây nam sau khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng.
Mặc dù
những người lãnh đạo Trung Quốc ra sức cản trở nhân dân Việt Nam giải phóng
hoàn toàn miền Nam Việt Nam, nhân dân Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh trên ba
mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao chống Mỹ Thiệu phá hoại Hiệp định
Pari, tiến lên giành toàn thắng. Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
năm 1975, nhân dân Việt Nam đã đánh sụp hoàn toàn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu,
giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam, thống nhất nước nhà.
◎◎◎
Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, những người cầm quyền
Bắc Kinh chỉ can thiệp vào giai đoạn chót nhằm áp đặt giải pháp của họ đối với
nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lần này của nhân dân Việt Nam, họ can thiệp
ngay từ đầu, tạo điều kiện cho đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh trên cả nước
Việt Nam, ném bom cực kỳ man rợ miền bắc, lấy vấn đề Việt Nam để buôn bán với
Mỹ, nhưng luôn luôn làm ra vẻ “triệt để cách mạng”, “tích cực” ủng hộ Việt Nam.
Đây là
sự phản bội thứ hai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với nhân dân
Việt Nam.
PHẦN THỨ TƯ: TRUNG QUỐC VỚI NƯỚC
VIỆT NAM
HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG VÀ THỐNG NHẤT
(TỪ THÁNG 5 NĂM 1975 CHO ĐẾN NAY)
I. TRUNG QUỐC SAU THẤT BẠI CỦA MỸ Ở
VIỆT NAM
Dư
luận chung trên thế giới cho thấy rằng thất bại của Mỹ ở Việt Nam đã có
tác động rõ rệt đến tình hình quốc tế.
Nếu
thắng lợi của cuộc Cách Mạng Tháng Tám và kháng chiến của nhân dân Việt Nam mở
đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thể thế giới sự
phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới là không tránh khỏi.
Ngày
nay, các lực lượng cách mạng đã lớn mạnh và có lợi thế hơn bao giờ hết. Đế quốc
Mỹ không thể đóng vai sen đầm quốc tế bất cứ nơi đâu mà không bị trừng phạt,
không thể xâm chiếm một tấc đất của bất kỳ nước xã hội chủ nghĩa nào, không thể
đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn con đường phát triển của các
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc càng ngày càng lún sâu vào cuộc
khủng hoảng toàn diện không phương cứu chữa. Chúng đang đứng trước những khó
khăn chồng chất về nhiều mặt, đang phải đương đầu với cuộc tiến công rộng lớn
và mạnh mẽ của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, ở ngay cả ở dinh lũy tưởng
chừng như rất kiên cố của chúng ở Châu Á và châu Mỹ la tinh.
Mặc
dầu đã tung vào Việt Nam một đội quân viễn chinh gồm 60 vạn tên làm nòng cốt
cho hơn một triệu quân ngụy, đã ném xuống Việt Nam 7 triệu 85 vạn tấn bom và
chi tiêu 352 tỷ dô la, đế quốc Mỹ xâm lược vẫn không khuất phục được nhân dân
Việt Nam, đế quốc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược trên thế giới, ở châu Á nhất là
Đông Nam Á, cho phù hợp với tình hình mới. Chúng đẩy mạnh các cấu kết với các
thế lực phản động, đặc biệt là các thế lực phản bội trong phong trào cọng sản
và công nhân quốc tế, chủ yếu là với tập đoàn phản động Bắc Kinh, hòng chia rẽ,
phá hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới.
Về
phần những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợ ích dân tộc, họ có giúp
Việt Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi
ích dân tộc, họ không muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt
Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc.
Họ
muốn Việt Nam bị chia cắt lâu dài, nhưng nhân dân Việt Nam đã đánh cho “Mỹ cút,
ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền nam và thống nhất nước nhà.
Họ lợi
dụng xương máu của nhân dân Việt Nam để buôn bán với Mỹ, nhưng sự câu kết của
họ với Mỹ không ngăn được nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn và dựng
nên nước Cọng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Họ
muốn chia rẽ Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhưng nhân
dân Việt nam đã giữ vững đường lối độc lập, tự chủ của mình, tăng cường đoàn
kết với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.
Không
những các thỏa thuận giữ họ với chính quyền Nixon, những mưu đồ chiến lược của
họ đã bị thất bại, mà một nước Việt nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ
nghĩa, có đường lối cách mạng Max – Lenin chân chính, độc lập, tự chủ và có uy
tín chính trị trên thế giới sẽ là cản trở nghiêm trọng cho mưu đồ bành trướng
và bá quyền của họ ở Đông dương và Đông nam châu Á. Thắng lợi lịch sử của nhân
dân Việt nam không chỉ là thất bại lớn của đế quốc Mỹ xâm lược, mà cũng là thất
bại lớn của bọn bành trướng Bắc kinh.
Vào
những năm cuối đời và cái chết của Chủ tịch Mao Trạch Đông, cuộc khủng hoảng
của Trung quốc tiếp tục diễn ra gay gắt, với những cuộc thanh trừng tàn bạo để
tranh giành quyền bính. Trong 20 năm liền, nền kinh tế và tình hình chính trị,
xã hội của Trung quốc đã bị thụt lùi và hỗn loạn vì cuộc “đại nhảy vọt” và cuộc
“đại cách mạng văn hóa”, đòi hỏi phải được cấp bách ổn định và cải thiện. Mặc
khác, sự yếu kém về quân sự và kinh tế của Trung quốc không cho phép những
người cầm quyền ở Bắc kinh thực hiện mưu đồ như họ mong muốn. Cho nên, về đối
nội, họ lấy tư tưởng đại dân tộc để tập hợp các phe phái và động viên nhân dân
Trung quốc nhằm thực hiện kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Về đối ngoại, họ dấn sâu
vào con đường phản động, lợi dụng lúc chủ nghĩa đế quốc bị khủng hoảng về kinh
tế và chính trị nghiêm trọng, và lúc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, để
câu kết với chủ nghĩa đế quốc, chống Liên Xô, chống phong trào cách mạng thế giới,
kiếm nhiều vốn và kỹ thuật của phương Tây cho kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Khẩu
hiệu “chống bá quyền” của họ chỉ là chiêu bài để che đậy chiến lược phản cách
mạng và chính sách bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ.
Họ hằn học nhìn thắng lợi của nhân dân Việt Nam, cho nên, từ khi nhân dân Việt Nam giành được toàn thắng, họ càng ngày càng công khai và điên cuồng thực hành một chính sách thù địch toàn diện và có hệ thống chống nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Họ hằn học nhìn thắng lợi của nhân dân Việt Nam, cho nên, từ khi nhân dân Việt Nam giành được toàn thắng, họ càng ngày càng công khai và điên cuồng thực hành một chính sách thù địch toàn diện và có hệ thống chống nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Đây là
một văn kiện tuyệt mật của Quân ủy trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc do Lê
Xuân Thành, sinh ngày 20-3-1949 tại Quảng Đông Trung Quốc cung khai.
Thành
là công an của Trung Quốc, trú quán tại 165 đường Hồng Ký, khu Tuyên Vũ, thành
phố Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1973 chạy sang Việt Nam làm
gián điệp. Ngày 30-3-1973 bị bắt ở xã Ngư Thủy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng
Bình. Trong văn kiện đó có một đoạn như sau:
"...Nước ta và nhân dân Việt Nam có
mối hận thù dân tộc hàng nghìn năm nay.
... Chúng ta không
được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao
cho họ. Ngược lại chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng
không mạnh, không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay.
... Vẻ bề ngoài
chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải
chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta..."
II. ĐIÊN CUỒNG CHỐNG VIỆT NAM NHƯNG
CÒN CỐ GIẤU MẶT
1. Thông qua bè lũ Pôn Pốt – Lêng Xa-ry tiến
hành cuộc chiến trnh biên giới chống Việt Nam ở
phía tây nam Việt Nam.
Ngay
từ giữa những năm 1960, những người lãnh đạo Trung Quốc đã mưu tính nắm trọn
vấn đề Campuchia, trước mắt nhằm phá hoại Mặt trận đoàn kết các nước Đông
Dương, làm yếu cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, có thể đàm phán với Mỹ
và lâu dài nắm bắt Campuchia lệ thuộc và trở thành một bàn đạp của Trung Quốc
để bành trướng xuống Đông Dương và Đông nam Châu Á. Sau ngày 17 tháng 4 năm
1975, nước Campuchia hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của bè lũ Lon non, tay
sai của Mỹ, họ dùng bọn tay sai Pôn Pốt – Lêng-xa-ry chiếm quyền lãnh đạo đảng
Cọng sản Campuchia, gạt quốc trưởng Xihanuc và những người thân cận của ông ta,
để xây dựng nên một chế độ phát xít diệt chủng có một không hai trong lịch sử
loài người và thông qua chế độ đó hoàn toàn kiểm soát nước Campuchia, biến
Campuchia thành một nước chư hầu kiểu mới và căn cứ quân sự của họ để tiến đánh
Việt Nam từ phía tây nam.
Họ đã
đổ tiền, vũ khí và dụng cụ chiến tranh các loại và đưa hàng vạn cố vấn Trung
Quốc vào campuchia để thành lập hàng chục sư đoàn mới gồm đủ bộ binh, thiết
giáp, pháo binh, xây dựng thêm hoặc mở rộng nhiều căn cứ hải quân, không quân,
hệ thống kho hậu cần.
Dưới sự đạo diễn của Bắc Kinh, tập đoàn cầm quyền phản động Phnông Pênh lúc đó tiến hành một chiến dịch tuyên truyền rộng khắp vu khống Việt Nam “xâm lược Campuchia”, “âm mưu ép Campuchia vào liên bang Đông Dương do Việt Nam khống chế”, ráo riết hô hào chiến tranh chống Việt Nam. Chúng đã phá hoại cuộc đàm phám giữa hai nước nhằm giải quyết vấn đề biên giới để có cớ duy trì một tình hình ngày càng căng thẳng ở vùng biên giới ViệtNam –
Campuchia. Ngay từ tháng 4 năm 1975, chúng đã đưa quân lấn chiếm, bắn phá nhiều
điểm trên lãnh thổ Việt Nam và từ đó ngày càng gây thêm nhiều vụ xung đột ở
biên giới, đột kích nhiều đồn biên phòng, làng xóm Việt Nam, làm cho tình hình
biên giới không ổn định, ngăn cản nhân dân Việt nam khôi phục và xây dựng kinh
tế. Từ những cuộc khiêu khích vũ trang, chúng tiến đến gây ra một cuộc chiến
tranh biên giới chống nước Việt Nam từ tháng 4 năm 1977 suốt dọc hơn 1.000 km
với những cuộc tiến công qui mô, huy động hàng vạn bộ binh có xe tăng, trọng
pháo yểm trợ, có khi vào sâu lãnh thổ Việt Nam hơn 30 km, giết hại dã ma dân
thường, tàn phá nhà cửa, hoa màu, gây nên biết bao tội ác không thể dung thứ
được.
Dưới sự đạo diễn của Bắc Kinh, tập đoàn cầm quyền phản động Phnông Pênh lúc đó tiến hành một chiến dịch tuyên truyền rộng khắp vu khống Việt Nam “xâm lược Campuchia”, “âm mưu ép Campuchia vào liên bang Đông Dương do Việt Nam khống chế”, ráo riết hô hào chiến tranh chống Việt Nam. Chúng đã phá hoại cuộc đàm phám giữa hai nước nhằm giải quyết vấn đề biên giới để có cớ duy trì một tình hình ngày càng căng thẳng ở vùng biên giới Việt
Chỉ
thị của Kiều Ủy trung ương Trung Quốc về công tác đối với người Hoa ở Việt Nam năm
1996.
Có
đoạn viết :
‘.....
Phải lấy tư tưởng Mao Trạch Đông giáo dục
Hoa kiều ở Việt Nam.
Báo Tân Việt Hoa phải trở thành trận địa
tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông.
Hoa kiều nhất định phải có “chủ nghĩa nước
lớn”. Các đồng chí phải chủ động quan hệ chặt chẽ với đại sứ quán để đại
sứ quán giúp đỡ được tốt hơn”.
2. Dùng vấn đề người Hoa để chống đối Việt Nam từ
bên trong
Ở Việt
Nam có khoảng 1 triệu 20 vạn người Hoa sinh sống; gần một triệu người ở miền
Nam và trên 20 vạn người ở miền Bắc, năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng
Cọng Sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng Lao động
Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong 20 năm qua,
người Hoa ở miền bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam .
Còn người Hoa ở miền nam, từ năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào
quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn sinh
sống.
Sau
khi giải phóng hoàn toàn miền nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục
nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền
bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền nam, coi
người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng trong dân tộc Việt Nam.
Số ít người mang căn cước Đài Loan, Hồng Kông hoặc quốc tịch nước khác và số
Hoa kiều bị bọn Pôn Pốt – Lêng xa ry xua đuổi và tỵ nạn ở miền nam Việt nam thì
được coi là ngoại kiều.
Ngược
lại, những người cầm quyền Trung Quốc xuyên tạc sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai
đảng, phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ờ miền nam Việt Nam,
coi tất cả kiều dân ở hai miền là kiều dân Trung Quốc để đòi quyền lãnh đạo
những người ấy. Trên thực tế, họ lập các tổ chức phản động và mạng lưới gián
điệp người Hoa trên đất Việt Nam .
Các tổ chức gọi là “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa
kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mac – Lenin”, “Hội học sinh Hoa
kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”..,v.v.. do Bắc Kinh thành lập và
chỉ huy, đã hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng
ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý
huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch
Trung Quốc. Họ in tiền giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng nhằm phá kế hoạch ổn
định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam Việt Nam, Với
những thủ đoạn đó, những người cầm quyền Bắc Kinh đã gây thêm khó khăn cho nhân
dân miền Nam Việt Nam vốn đã gặp biết bao khó khăn do 30 năm chiến tranh của đế
quốc để lại, khiến cho nhiều người về sau bỏ nước ra đi tìm một nơi mà họ cho
là dễ làm ăn hơn. Bắc Kinh đã dùng người Hoa làm công cụ gây rối loạn về chính
trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam như họ đã làm ở một số nước Đông Nam châu Á và
Nam Á.
3. Dùng vấn đề viện trợ để nâng thêm sức ép
Năm
1973. những người lãnh đạo Trung Quốc đã long trọng hứa sẽ viện trợ cho Việt Nam ít
nhất trong 5 năm liền ở mức kim ngạch năm 1973.
Năm
1975, khi chào mừng nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam,
những người lãnh đạo Trung Quốc cũng nói “sẽ tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế
của mình, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa nhằm củng cố thành quả thắng
lợi, thống nhất và xây dựng Tổ Quốc của nhân dân Việt nam”. Thật ra đây chỉ là
lời tuyên bố giả dối để che dấu sự hằn học của họ đối với sự thắng lợi lịch sử
của nhân dân Việt Nam đang làm nức lòng tất cả những lực lượng cách mạng và
tiến bộ trên toàn thế giới, che giấu những kế hoạch đen tối của họ nhằm chống
lại Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Trên
thực tế, họ không ủng hộ nhân dân Việt Nam xây
dựng lại đất nước trong giai đoạn mới.
Nếu
những năm 1960 -1970, những người lãnh đạo Trung Quốc giảm viện trợ đối với
Việt Nam vì họ không tán thành Việt Nam thương lượng với Mỹ để kéo Mỹ xuống
thang chiến tranh, và nếu những năm 1971 -1972 họ tăng viện trợ đối với Việt
Nam cao nhất so với các năm trước, vì họ muốn lợi dụng vấn đề Việt Nam để thương
lượng với Mỹ, thì đến năm 1975, vì bị thất bại ở miền Nam Việt Nam, họ lại dùng
viện trợ để gây sức ép đối với Việt Nam. Họ khước từ những yêu cầu viện trợ mới
của Việt Nam .
Về phần viện trợ cũ đã thỏa thuận từ trong chiến tranh và chưa giao hết, họ vin
cớ này cớ khác để dây dưa, trong đó có những công trình đang làm dở, có những
công trình rất quan trọng đối với công cuộc hòa bình xây dựng đất nước Việt
nam. Rõ ràng viện trợ của những người lãnh đạo Trung Quốc không phải là “vô tư”
như họ thường khoe khoang, mà chỉ là công cụ của chủ nghĩa bành trướng đại dân
tộc và bá quyền nước lớn, Viện trợ của Bắc Kinh chỉ là “cái gậy và củ cà rốt”..
Những
thủ đoạn nói trên của Bắc Kinh nhằm chống Việt Nam là những đòn thâm độc, quyết
liệt, nhưng đều đã thất bại: bộ mặt phát xít diệt chủng của Pôn Pốt – lêng xa
ry bị nhân dân Campuchia và cả của loài người tiến bộ lên án; kế hoạch
dùng người Hoa phá Việt Nam từ bên trong bị phá sản; mưu đồ gây sức ép bằng
viện trợ và các thủ đoạn khác không lay chuyển được đường lối độc lập, tự chủ
của Việt Nam, không khuất phục được nhân dân Việt Nam.
III. ĐIÊN CUỒNG CHỐNG VIỆT NAM MỘT
CÁCH CÔNG KHAI
Giấu
mặt chống Việt Nam không đạt kết quả mong muốn, những người cầm quyền Trung
Quốc quay ra công khai chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, kể cả bằng đe dọa vũ
lực và dùng vũ lực.
1. Cái gọi là vấn đề “nạn kiều”
Đầu
năm 1978, những người cầm quyền Trung Quốc dựng lên cái gọi là vấn đề “nạn
kiều” để mở đầu một chiến dịch quy mô, công khai chống Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam.
Sự thật là chính các tổ chức bí mật người Hoa, mạng lưới gián điệp của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội được sự chỉ đạo hàng ngày, hàng giờ của bộ máy tuyên truyền Bắc Kinh, bằng những sự bịa đặt trắng trợn, những luận điệu vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, bằng những thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, dụ dỗ, dọa nạt, đã gây nên trong quần chúng người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Bọn tay chân của Trung Quốc tổ chức cho những người đó vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương, Lúc dòng người Hoa ùn ùn kéo đi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trắng trợn đưa hai tàu sang Việt Nam đón “nạn kiều”, mặc dầu họ không nêu trước vấn đề đó với Chính phủ Việt Nam. Chỉ trong mấy tháng đầu, 17 vạn người Hoa đã rời Việt Nam đi Trung Quốc. Cái gọi là vấn đề “nạn kiều” chỉ là một sự cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc mà thủ phạm chính là tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, một sự lừa gạt và một sự phản bội của họ nhằm gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.
Sự thật là chính các tổ chức bí mật người Hoa, mạng lưới gián điệp của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội được sự chỉ đạo hàng ngày, hàng giờ của bộ máy tuyên truyền Bắc Kinh, bằng những sự bịa đặt trắng trợn, những luận điệu vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, bằng những thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, dụ dỗ, dọa nạt, đã gây nên trong quần chúng người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Bọn tay chân của Trung Quốc tổ chức cho những người đó vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương, Lúc dòng người Hoa ùn ùn kéo đi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trắng trợn đưa hai tàu sang Việt Nam đón “nạn kiều”, mặc dầu họ không nêu trước vấn đề đó với Chính phủ Việt Nam. Chỉ trong mấy tháng đầu, 17 vạn người Hoa đã rời Việt Nam đi Trung Quốc. Cái gọi là vấn đề “nạn kiều” chỉ là một sự cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc mà thủ phạm chính là tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, một sự lừa gạt và một sự phản bội của họ nhằm gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.
Một
thư của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội xúi giục người Hoa ở Đà nẵng chống Việt
Nam, tịch thu được của can phạm Hàng Phú Quang bị bắt tháng 7 năm 1978.
Dòng
chữ đầu của góc bên phải là “Thư của sứ quán”. Trích một số đoạn:
1. Toàn thể Hoa kiều tại miền Trung, Nam,
Bắc Việt Nam phải đoàn kết, nhất trí
để đối phó với hoàn cảnh ác liệt.
2. Phải chú ý theo dõi chỉ thị qua Đài phát
thanh của Tổ quốc.
3. Hoa kiều về nước thì phải đợi chỉ thị, chờ
nhân viên ngoại giao đến có chỉ thị rõ ràng để lo liệu. Sau đó tuần tự lên tàu
về nước.
4. Không nghe chính quyền địa phương lừa gạt
ghi là người Việt gốc Hoa làm thủ tục xuất cảnh về Trung Quốc. Vì như vậy thì
sẽ bị tổn thất nặng nề về động sản và bất động sản của tư nhân*. Phải chờ nhân
viên ngoại giao của ta chỉ dẫn cách điền vào đơn (hai bên chính phủ đã bàn) để
tài sản công tư khỏi bị tổn thất.
5. Đề phòng số phần tử xấu tung tin đồn ly
gián làm dao động ý chí của Hoa kiều.
Vốn là
người làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập
quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức,
tình hình, những người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc đã được bọn bành trướng Bắc
Kinh chọn lựa để đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng núi, thọc
sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn vị thám
báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt Nam.
Nhiều tên trong bọn chúng đã bị bắt trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ
ngày 17 tháng 2 năm 1979.
Trước
quyết tâm của nhân dân Việt Nam giữ vững chủ quyền của mình, những người cầm
quyền Bắc Kinh buộc phải rút lui hai chiếc tàu đi đón “nạn kiều” về nước, ngồi
vào đám phán với phía Việt Nam về việc giải quyết vấn đề người Hoa. Nhưng trong
đàm phán, họ vẫn giữ thái độ nước lớn, ngang ngược áp đặt quan điểm vô lý của
họ, bất chấp chủ quyền của nước Cọng hòa xả hội chủ nghĩa Việt Nam và luật pháp
quốc tế. Chính họ đã cố tình phá hoại cuộc đàm phán đó để tiếp tục dùng vấn đề
người Hoa chống Việt Nam .
2. Cắt viện trợ, rút chuyên gia
Trong
lúc bọn bành trướng Bắc Kinh ráo riết dụ dỗ, cưỡng ép người Hoa ở Việt Nam đi
Trung Quốc, họ dùng cái gậy “viện trợ” để đồng thời đánh Việt Nam về kinh tế.
Chỉ trong hơn một tháng, bất chấp luật pháp và tập quán quốc tế, họ đơn phương
tuyên bố chấm dứt toàn bộ viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam, gọi về
nước tất cả các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang công tác ở Việt
Nam. Đây là một đòn cực kỳ thâm độc, đưa ra đúng lúc nhân dân Việt Nam đang
phải hàn gắn những vết thương chiến tranh, đồng thời vừa phải đối phó với cuộc
chiến tranh biên giới ở phía tây nam, khắc phục những khó khăn kinh tế do việc
gần 20 vạn người Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc, vừa phải
đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở
Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra.
Đi đôi
với việc cắt viện trợ, rút chuyên gia, tạp đoàn phản động trong giới cầm quyền
Trung Quốc còn ngang nhiên vận động các nước, các tổ chức quốc tế ngưng viện
trợ cho công cuộc xây dựng lại Việt Nam. Lòng dạ họ xấu xa, thâm độc đến thế là
cùng!
Họ đẩy
mạnh việc vu cáo Việt Nam để vừa che đậy ý đồ bành trướng của họ ở Đông nam
châu Á, vừa cản trở quan hệ bình thường giữa Việt Nam và các nước thuộc tổ chức
ASEAN, kêu gọi các nước đó lập “mặt trân chung với Trung Quốc” chống Việt Nam.
Với cuộc vận động đó, họ hy vọng trên thực tế sẽ thực hiện được chính sách bao
vây về kinh tế, cô lập về chính trị, tiến công về quân sự, như bọn đế quốc và
thực dân vẫn làm bấy lâu nay với một số nước. Đây là một hành động thô bạo
không những xâm phạm độc lập, chủ quyền của Việt Nam ,
mà còn can thiệp vào công việc của các nước khác và các tổ chức quốc tế.
3. Duy trì tình hình căng thẳng ờ biên giới
Việt Nam
Song
song với việc hoạt động phá hoại kinh tế, chính trị, những người cầm quyền
Trung Quốc ráo riết tăng cường sức ép quân sự đối với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam từ mọi phía.
Ở phía
bắc, họ đưa quân ra vùng biên giới Việt – Trung, tăng cường những vụ khiêu
khích vũ trang lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam. Tạo nên tình hình thường xuyên căng thẳng ở vùng biên giới.
Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của họ năm 1975 là 234 vụ,
gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần.
Ở phía
tây nam, theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, bè lũ diệt chủng Pôn Pốt-lêng xa ry khước
từ các đề nghị của Việt Nam về việc hai bên thành lập một khu phi quân sự ở
vùng biên giới, ca1chly quân độ của mình và ký một hiệp ước hữu nghị không xâm
lược lẫn nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, để kiếm cớ duy trì cuộc
chiến tranh biên giới chống Việt Nam, đồng thời chuẩn bị những cuộc phiêu lưu
quân sự qui mô lớn sau này.
Ở phía
tây, những người cầm quyền Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, ngày càng
tăng cường gây sức ép đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân dân Lào, một nước
nhỏ hơn Trung Quốc luôn luôn theo đuổi theo chính sách hòa bình, hữu nghị cới
các nước láng giềng. Họ nuôi dưỡng bọn tàn quân của lực lượng đặc biệt Mèo do
CIA tổ chức và chỉ huy trước đây, thông qua đạo quân làm đường của họ để tìm
cách can thiệp sâu vào các tỉnh Bắc Lào, vu cáo Việt Nam “thôn tính” Lào, chia
rẽ Lào với Việt Nam, đưa nhiều sư đoàn quân áp sát biên giới Lào – Trung. Mục
tiêu của họ là để tăng thêm sự uy hiếp Việt Nam về
quân sự từ phía tây, đồng thời làm suy yếu và khống chế từng bước Lào.
4. Tấn công Việt Nam từ
hai hướng
Những
mưu đồ trên đây rất thâm độc và có thể gây khó khăn cho nhân dân Việt Nam,
nhưng đều đã thất bại, cho nên cuối năm 1978 và đầu năm 1979, những người vầm
quyền Trung Quốc phải tính đến việc tấn công quân sự nước chxh từ hai hướng.
Ở phía
tây nam, theo kế hoạch của Bắc Kinh, sau khi tập trung 19 sư đoàn bộ binh
(trong tổng số 23 sư đoàn bộ binh) đếnsát biên giới Việt Nam, ngày 22 tháng 12
nă, 1978, bè lũ Pôn pốt – lêng xa ry đã xử dụng những sư đoàn tinh nhuệ nhất
của chúng, có xe tăng và pháo binh yểm trợ, đánh vào khu vực Bến Sỏi thuộc tỉnh
Tây Ninh (cách Sài gòn 100 km, với ý đồ đánh chiếm chớp nhoáng thị xã Tây Ninh,
mở đường tiến sâu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời làm yếu Việt Nam để quân
Trung Quốc đánh vào Việt Nam từ phía bắc.
Thực
hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, nhân dân Việt Nam đã
làm thất bại hoàn toàn kế hoạch quân sự đó. Đồng thời, quân và dân Campuchia
dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, được sự giúp
đỡ và ủng hộ của nhân dân Việt Nam, đã vươn lên đập tan chế độ diệt chủng tàn
bạo Pôn pốt – lêng xa ry và cái gọi là “chính phủ Campuchia dân chủ”, và ngày
10 tháng 1 năm 1979 lập nên chế độ Cọng hòa nhân dân Campuchia, thật sự đại
diện cho nhân dân Campuchia.
Ở phía
bắc, những người cầm quyền Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, gồm nhiều quân
đoàn và sư đoàn độc lập, nhiều đơn vị binh chủng kỹ thuật với gần 800 xe tăng,
hàng ngàn khẩu pháo, hàng trăm máy bay các loại của hầu hết các quân khu của
Trung Quốc, điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng 2
năm 1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km. Quân của bọn phản động
Trung Quốc đi đến đâu là tàn sát dân thường, kể cả phụ nữ, trẻ sơ sinh, phá hủy
triệt để các bản làng, chùa chiền, nhà thờ, trường học, vườn trẻ, bệnh viện,
nông trường, lâm trường v.v.. Chúng đã hành động với sự man rợ của một đạo quân
ăn cướp thời trung cổ kết hợp với những thủ đoạn tinh vi của các đội quân xâm
lược của đế quốc ngày nay.
Để lừa
gạt dư luận Trung Quốc và dư luận thế giới, những người cầm quyền Bắc Kinh đã
tuyên bố rằng đấy chỉ là một cuộc “phản kích để tự vệ” bằng những đơn vị biên
phòng. Sự thật đây là một cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện bằng lực lượng
chính quy của hầu hết các quân khu của Trung Quốc, có chuẩn bị kỹ càng về các
mặt, từ việc xây dựng những công trình quân sự, đường sá, hầm hào, sân bay dọc
biên giới Việt – Trung đến việc vu cáo Việt Nam, phá hoại tình hữu nghị Việt –
Trung , kích động tư tưởng đại dân tộc trong nhân dân Trung Quốc hòng biện bach
và che dấu hành động xâm lược của họ. Về mặt đối ngoại, họ cũng chuẩn bị chu
đáo, đặc biệt là họ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược sau khi Phó thủ
tướng Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ và Nhật Bản về, thực tế là sau khi tranh thủ
được sự đồng tình của Mỹ và Nhật. Mục tiêu đầy tham vọng của họ là: tiêu diệt
một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và
kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn.
Hai
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam mà những người cầm quyền Trung Quốc gây ra
từ hai hướng là bước leo thang cao nhất trong cả một quá trình hành động tội ác
chống độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam
từ trước đến nay nhằm làm yếu, thôn tính và khuất phục Việt Nam. Trái với mọi
tính toán của Bắc Kinh, cuộc chiến tranh xâm lược của họ đã thất bại thảm hại,
đã bị toàn thế giới lên án và một bộ phân nhân dân Trung Quốc phản đối. Ngày 5
tháng 3 năm 1979 họ đã buộc phải tuyên bố rút quân, và sau đó đã phải nhận ngồi
đàm phán với phía Việt Nam.
5. Tiếp tục chống Việt Nam bằng
nhiều thủ đoạn
Những
người cầm quyền Trung Quốc đã tuyên bố rút quân về bên kia biên giới, nhưng
thực tế cho đến nay quân của họ tiếp tục chiếm đóng hơn mười điểm trên lãnh thổ
Việt Nam, xây dựng thêm công sự ở các nơi đó, vi phạm trắng trợn đường biên
giới do lịch sử để lại mà cả hai bên đã thỏa thuận tôn trọng.
Suốt
dọc biên giới Việt – Trung, họ tiếp tục bố trí nhiều quân đoàn có pháo binh và
thiết giáp yểm trợ, tăng cường các phương tiện chiến tranh, ra sức xây dựng các
công trình quân sự, thường xuyên diễn tập quân sự, tung các đội thám báo, biệt
kích xâm nhập nhiều khu vực của Việt Nam. Không ngày nào họ không gây ra những
vụ khiêu khích vũ trang, nổ súng, gài mìn, bắn giết nhân dân địa phương. Có
nơi, họ cho bắn súng cối hạng nặng suốt ngày, có nơi họ cho một tiểu đoàn quân
chính qui tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam hơn 4 km, bắn giết dân thường, đốt phá
nhà cửa và phá hoại hoa màu. Có nơi từng tốp máy bay Trung Quốc bay sâu vào
vùng trời Việt Nam từ 8 đến 10 km. Họ bí mật đẩy trở lại Việt Nam những người
Hoa đã bị họ cưỡng bức di cư sang Trung Quốc. Những hành động có tính toán đó
cùng với những thủ đoạn khác của họ nhằm duy trì tình hình căng thẳng ở vùng
biên giới, xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tiếp tục uy hiếp
an ninh của nước Việt Nam .
Những người cầm quyền Trung Quốc còn nhiều lần đe dọa “cho Việt Nam một
bài học thứ hai”, thậm chí “nhiều bài học nữa”. Trên danh nghĩa nào, và dựa vào
luật pháp nào mà những người cầm quyền Bắc Kinh có quyền cho Việt Nam và dạy Việt Nam bài
học? Việt Nam và
Trung Quốc là những nước độc lập, có chủ quyền. Hiến chương Liên hiệp quốc,
công pháp quốc tế cũng như tập quán quốc tế tuyệt đối không cho phép Trung Quốc
làm bất cứ điều gì phương hại đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam cũng như của bất kỳ nước nào khác. Phải chăng vì Trung Quốc nước rộng,
người đông mà bọn bành trướng Trung Quốc tự cho phép làm ra luật, đe dọa, khuất
phục các mước nhỏ hơn, ít người hơn?
Những
người cầm quyền Trung Quốc đã nhận ngồi vào đàm phán với phía Việt Nam để
bàn những biện pháp cấp bách bảo đảm hòa bình và an ninh ở vùng biên giới và
các vấn đề thuộc quan hệ giữa hai nước. Nhưng ở vòng một tiến hành ở Hà Nội,
cũng như vòng hai tiến hành tại Bắc Kinh, phía Trung Quốc vẫn lẫn tránh những
đề nghị hợp lý hợp tình của phía Việt Nam, từ chối bản đề nghị của phía Việt
Nam về những biện pháp cấp bách nhằm chấm dứt các hoạt động khiêu khích vũ
trang và đảm bảo hòa bình, ổn định ở vùng biên giới hai nước, tiền đề cấp thiết
cho việc tiếp tục giải quyết các vấn đề khác thuộc quan hệ giữa hai nước. Mặt
khác, họ đặt điều kiện tiên quyết là Việt Nam phải
từ bỏ đường lối độc lập, tự chủ cũa mình đối với các quần đảo
Hoàng
Sa và Trường Sa thì họ mới đi vào bàn bạc các vấn đề khác. Đây là thái độ bá
quyền nước lớn: họ đến đàm phán không phải vì bàn bạc một cách bình đẳng và xây
dựng nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp, mà buộc phải đối phương phải chấp
nhận lập trường của mình. Việc những người cầm quyền Trung Quốc đòi Việt Nam
rút quân khỏi Campuchia và Lào, thậm chí nêu ra “nguyên tắc chống bá quyền”
chẳng qua là để che giấu việc họ đưa quân xâm lược Việt Nam, uy hiếp nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào và can thiệp vào công việc nội bộ của nước Cộng hòa
Campuchia, che giấu bộ mặt bá quyền bỉ ổi của họ nhằm thôn tính ba nước Đông
Dương, dùng Đông Dương làm bàn đạp bành trướng xuống Đông nam châu Á.
Gần
đây, những người cầm quyền Trung Quốc giương cao chiêu bài “nhân quyền” của
tổng thống Mỹ Carter, lợi dụng vấn đề người Việt Nam đi ra nước ngoài làm một
vũ khí mới để chống Việt Nam. Những người Việt Nam đi ra nước ngoài phần lớn là
những nhà buôn giàu có và những sĩ quan trước đây sống nhờ Mỹ và chế độ bù nhìn
Saigon, những người Hoa do Bắc Kinh dụ dỗ, cưỡng ép ra đi; một số là những
người trước đây sống trong xã hội tiêu thụ kiểu Mỹ và nay không chịu nổi những
khó khăn do cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và sự phá hoại
của bọn bành trướng Bắc Kinh gây ra.
Chính
phủ Việt Nam vốn có chính sách nhân đạo, tôn trọng nhân quyền, không những đối
xử nhân đạo vớn những người Việt Nam đã hợp tác với kẻ thù trong thời gian
chiến tranh, mà còn khoan hồng cả đối với những binh sĩ của các đội quân xâm
lược bị bắt trong 30 năm qua. Chính phủ Việt Nam hiểu
rõ nguyên nhân và hậu quả của vấn đề những người Việt Nam đi
ra nước ngoài, đồng thời rất thông cảm các khó khăn của các nước láng giềng
trước dòng người di cư đó. Chính vì thế, từ tháng 1 năm 1979, Chính phủ Việt
Nam đã tuyên bố cho phép những người có nguyện vọng ra nước ngoài để sum họp
gia đình hoặc làm ăn sinh sống được xuất cảnh Một cách hợp pháp sau khi đã làm
đầy đủ các thủ tục cần thiết. Mặt khác, các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam
đã cùng cơ quan Cao ủy Liên hiệp quốc về vấn đề người tỵ nạn thỏa thuận một
chương trình 7 điểm được công bố Ngày 30 tháng 5 năm 1979, nhằm tạo điều kiện
dễ dàng cho những người nói trên ra đi một cách có trật tự và an toàn, đồng
thời làm giảm bớt khó khăn cho các nước Đông nam châu Á.
Song
Bắc Kinh và Washington đều huy động bộ máy tuyên truyền khổng lồ và mọi phương
tiện chính trị, kinh tế, tài chính của họ, lợi dụng khía cạnh nhân đạo của vấn
đề, sử dụng mọi thủ đoạn gian dối, xuyên tạc, kích động để bóp mép sự thật về
vấn đề những người Việt Nam đi ra nước ngoài, phát động một chiến dịch qui mô
và cực kỳ ghê tởm chống Việt Nam.
Nhưng
thủ phạm đích thực của dòng người “di tản” là ai?
Người
ta chưa quên rằng Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược có tính chất
hủy diệt chống Việt Nam .
Và khi phải rút đội quân viễn chinh của họ, họ để lại ở miền Nam Việt Nam một
đất nước tàn phá, một nền kinh tế tê liệt, với trên 3 triệu người thất nghiệp,
trên một triệu người bị tàn phế. 80 vạn trẻ em mồ côi, trên 60 vạn gái điếm,
trên 1 triệu thanh niên nghiện ma túy. v.v..
Còn
những người cầm quyền Bắc Kinh thì sao? Chính họ đã trắng trợn gây ra cái gọi
là “nạn kiều”, cưỡng ép, dụ dỗ người Hoa bỏ nhà bỏ cửa, ruộng đồng, nhà máy để
đi Trung Quốc, dùng những tổ chức của Cục tình báo Hoa Nam để quấy rối về chính
trị, đầu cơ, tích trữ, nâng giá hàng, in bạc giả, nhằm phá hoại nền kinh tế của
Việt Nam, chồng chất thêm khó khăn cho người dân miền Nam Việt Nam. Trong lúc
các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam đang cùng Cơ quan Cao ủy Liên hiệp quốc
về vấn đề người tỵ nạn tỏ chức việc ra đi có trật tự và an toàn, những người
cầm quyền Bắc Kinh cho tai sai tổ chức việc ra đi bất hợp pháp, để kêu la rằng
Việt Nam “xuất cảng nạn dân”, mặc dầu chính họ cho hàng ngàn người Trung Quốc
hàng ngày sang Hong kong để từ đó đi các nước Đông nam châu Á, và hoàn toàn
không đếm xỉa đến số phận 26.000 Hoa kiều bị bọn Pôn Pốt – lêng-xa-ry trục xuất
khỏi Campuchia. Rất tiếc rằng có những chính phủ, tổ chức vì không hiểu sự thật
ở Việt Nam, hoặc vì muốn lấy lòng những người cầm quyền Trung Quốc để buôn bán
làm ăn, đã phụ họa với chiến dịch kích động và vu cáo của Bắc Kinh !
Chính
những kẻ cướp lại đang la làng, những kẻ chà đạp lên nhân quyền và luật pháp
quốc tế lại đang giương cao chiêu bài “nhân đạo” để thực hiện mục đích chính
trị đen tối của họ. Mục đích của Bắc Kinh là xóa nhòa những tội ác tày trời của
họ ở Campuchia và trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, che đậy việc họ
kích động người Hoa ở Việt Nam ra đi và “xuất cảng” hàng chục vạn người Trung
Quốc ra nước ngoài, gây khó khăn cho các nước ASEAN, chia rẽ các nước ASEAN với
Việt Nam, đánh lạc hướng về nguy cơ của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc và vai
trò của “đạo quân thứ năm” người Hoa ở Đông nam châu Á.
Nhưng
đối với những người có lương tri, sự thật vẫn là sự thật. Hiện nay, ngày càng
có nhiều người thấy được thủ đoạn bẩn thỉu của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh,
tỏ ra thông cảm với những khó khăn và hoan nghênh lập trường đúng đắn của nước
Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các
thế lực đế quốc và phản động, chủ yếu là Washington và Bắc Kinh, đã thất bại
trong âm mưu biến Hội nghị quốc tế ở Geneve tháng 7 vừa qua về vấn đề người
Đông dương đi ra nước ngoài thành một diễn đàn để vu cáo chống Việt Nam. Những
đề nghị của Đoàn đại biểu Chính phủ Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tỏ rõ
thái độ xây dựng và hợp tác trong việc giải quyết vấn đề những người di cư, đã
được sự đồng tình rộng rãi của đại biểu nhiều nước tôn trọng sự thật và công
lý, và đã góp phần quan trọng vào thành công của Hội nghị là đặt được nền tảng
của một giãi pháp cho vấn đề như ông Tổng thư ký Liên hợp quốc K.Van hem đã kết
luận. Nhưng thực tế còn nhiều khó khăn và phức tạp do những hoạt động phá hoại
của các thế lực đế quốc và phản động, trước hết là của Washington và
Bắc Kinh. Hiện nay, trong lúc Bắc Kinh lớn tiếng đe dọa chiến tranh, trắng trợn
đòi “chủ quyền” đối với hai quần đảo Trường sa và Hoàng sa, đế quốc Mỹ đưa hạm
đội 7 vào hoạt động ngoài khơi Việt Nam không những để khuyến khích những người
ra đi bất hợp pháp, mà còn để phối hợp với Bắc Kinh trong những âm mưu đen tối
của họ ở khu vực biển Đông và Đông nam châu Á.
---o0o---
Trong
5 năm qua, bằng những thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao trực
tiếp và gián tiếp, tinh vi và trắng trợn, giấu mặt và công khai, những người
cầm quyền Trung Quốc đã không ngừng phá hoại công cuộc xây dựng của nước Cọng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, họ càng thất bại thì càng điên cuồng chống Việt
Nam hòng khuất phục nhân dân Việt Nam.
Đây là sự phản bội thứ ba của những người
lãnh đạo Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam .
PHẦN THỨ NĂM
CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA BẮC KINH
MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐỘC LẬP DÂN TỘC HÒA
BÌNH
VÀ ỔN ĐỊNH Ở ĐÔNG NAM CHÂU
Á
I
Việt Nam và
Trung Hoa là hai nước láng giềng gần gũi, nhân dân hai nước luôn luôn gắn bó,
giúp đỡ, cổ vũ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì lợi
ích cách mạng của nhân dân mỗi nước. Nhân dân Việt Nam đã
ủng hộ nhân dân Trung Hoa về chính trị và tinh thần, có lúc đã phối hợp chiến
đấu cùng với nhân dân Trung Hoa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhân dân
Trung Hoa, mặc dầu còn có nhiều khó khăn, nhất là trong những năm đầu của nước
Cọng hòa nhân dân Trung Hoa, đã dành sự giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam
trong hai cuộc kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược.
Nhân
dân Việt Nam rất
quý trọng và luôn luôn giữ gìn, vun đắp cho mối tình hữu nghị giữa nhân dân
Việt Nam và
nhân dân Trung Hoa đời đời bền vững. Nhân dân Việt Nam không
hề xâm phạm độc lập, chủ quyền, lãnh thổ của nhân dân Trung Hoa, không hề can
thiệp vào công việc nội bộ của Trung Hoa. Đối với những vấn đề bất đồng về quan
điểm hoặc những hành động sai trái do những người lãnh đạo Trung Hoa gây ra đối
với Việt Nam ,
phía Việt Nam đã
cố gắng và bền bỉ tìm cách giải quyết bằng con đường thảo luận nội bộ giữa hai
bên.
Mặc
dầu những người lãnh đạo Trung Hoa đang tâm phá hoại tình hữu nghị truyền thống
giữa nhân dân hai nước, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn
mà nhân dân Trung Hoa đã dành cho nhân dân Việt Nam và rất mong muốn tình hữu
nghị anh em giữa nhân dân hai nước sớm được khôi phục. Trong các cuộc đàm phán
để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nước, phía Việt Nam luôn luôn xuất
phát từ lòng mong muốn thiết tha đó của nhân dân Việt Nam .
Lập trường trước sau như một của nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sớm
khôi phục quan hệ bình thường giữa nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa trên những nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mỗi nước và vì lợi ích của
hòa bình, ôn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới.
II
Tóm
lại, trong 30 năm qua, những người cầm quyền Trung Hoa đã ba lần phản bội nhân
dân Việt Nam :
Tại
Hội nghị Geneve năm 1954, họ đã bán rẻ lợi ích dân tộc của nhân dân Việt Nam,
không những để bảo đảm cho nước họ một vành đai an ninh ở phía nam, mà còn chuẩn
bị địa bàn cho việc thực hiện mưu đồ bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu
Á. Họ muốn duy trì tình trạng Việt Nam bị chia cắt lâu dài, hòng làm cho Việt
Nam suy yếu và phải phụ thuộc vào Trung Hoa.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, khi chế độ Ngô Đình
Diệm bị sụp đổ thì họ bật đèn xanh cho Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, đồng thời
đưa quân Mỹ trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam. Khi Việt Nam muốn
ngồi vào thương lượng với Mỹ để phối hợp ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại
giao thì họ ngăn cản. Khi nhân dân Việt Nam đang trên đà đi tới thắng lợi hoàn
toàn thì họ bắt tay với chính quyền Nixon, dùng xương máu của nhân dân Việt Nam
để đưa nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa lên địa vị “siêu cường thứ ba” và đổi
chác lấy việc giải quyết vấn đề Đài Loan.
Sau
khi nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi ách thống trị thực dân
mới của đế quốc Mỹ và thống nhất nước nhà, họ đã dùng mọi thủ đoạn chính trị,
quân sự, kinh tế, ngoại giao để làm suy yếu nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, tiến đến dùng lực lượng quân sự của bè
lũ tay sai Pôn Pốt – Lêng xa ry xâm lược Việt Nam ở phía tây nam và lực lượng
quân sự của Trung Hoa trực tiếp xâm lược Việt Nam ở phía bắc, giết hại nhân dân
Việt Nam, phá hoại nghiêm trọng các cơ sở kinh tế, văn hóa của Việt Nam ở các
vùng có chiến sự.
Ba lần
họ phản bội Việt Nam, lần sau độc ác, bẩn thỉu hơn lần trước!
Đối
với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, những người cầm quyền Trung Hoa cũng đã
phản bội độc ác và bẩn thỉu. Họ đã hy sinh lợi ích dân tộc của nhân dân Lào và
nhân dân Campuchia tại Hội nghị Geneve năm 1954, Trong thời kỳ sau Geneve, họ
ngăn cản nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa
bình, trung lập. Khi nhân dân Campuchia hoàn toàn giải phóng đất nước ngày 17
tháng 4 năm 1975, họ đã dùng bọn tay sai Pôn Pốt – Lêng xa ry để thực hiện
chính sách diệt chủng, biến nước Campuchia thày một nước chư hầu kiểu mới, một
căn cứ quân sự để từ đó tiến công nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
phía tây nam. Đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, họ phá hoại công cuộc
xây dựng hòa bình của nhân dân Lào, trang bị và giúp đỡ các lực lượng phản động
ở Lào gây rối loạn, đưa nhiều sư đoàn áp sát biên giới Lào – Trung, hòng ép nhân
dân Lào đi vào quỹ đạo của Bắc Kinh. Họ chia rẽ ba nước Việt Nam ,
Lào, Campuchia, hòng làm suy yếu và thôn timh1 từng nước.
Để che
giấu bộ mặt phản bội của họ, những người cầm quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến
việc Trung Hoa viện trợ cho nước Việt Nam ,
thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã “chiến đấu ở Điện Biên Phủ”, v.v.. Nhân
dân Trung Hoa đã dành một phần thành quả lao động của mình để giúp đỡ nhân dân
Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng đất nước, đó là điều mà
nhân dân Việt Nam, trong bất cứ tình huống nào, mãi mãi không bao giờ quên. Đối
với nhân dân Việt Nam, đó là biểu hiện cao đẹp của mối tình đoàn kết chiến đấu
của những người cùng chung cảnh ngộ, nhưng đối với tập đoàn phản động trong
giới cầm quyền Bắc Kinh đó là một công cụ chính trị để thực hiện chính sách
bành trướng của họ ở Việt Nam cũng như trên toàn bán đảo Đông Dương. Thực tế đã
chỉ rõ họ đã xử dụng viện trợ đó khi thì như “một củ cà rốt”, khi thì như “một
cái gậy”, tùy theo yêu cầu chính trị từng lúc của họ.
Vả
lại, không chỉ có vấn đề Trung Hoa giúp đỡ Việt Nam .
Những
người lãnh đạo Trung Hoa đã nhiều lần nói rằng nói đến cám ơn thì nhân dân
Trung Hoa phải cám ơn nhân dân Việt Nam .
Nhân dân Việt Nam đã
hi sinh nhiều, cống hiến nhiều đối với nhân dân Trung Hoa. Nhân dân Trung Hoa
phải cám ơn và có nghĩa vụ giúp đỡ, ủng hộ nhân dân Việt Nam .
Nhân dân hai nước giúp đỡ lẫn nhau.
Về
việc Tổng thống Nixon đi thăm Trung Hoa năm 1972, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã
nói với những người lãnh đạo Việt Nam tháng 6 năm 1973 như sau:
“Thành
thực mà nói, nhân dân Trung Hoa, Đảng cọng sản Trung Hoa và nhân dân thế giới
phải cám ơn nhân dân Việt Nam đã đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới
buộc Nixon phải đi Bắc Kinh”.
Về
việc nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa vào Liên Hợp Quốc năm 1971, Thủ tướng Chu
Ân Lai đã nói trong cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam tháng 11 năm
1971:
“Cống
hiến của Việt Nam rất
lớn. Chúng ta gắn bó với nhau”.
Lịch
sử - và trước hết là quân đội viễn chinh Pháp – đã trả lời rõ ràng câu hỏi: ai
đã chiến đấu và chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954? Điều cần nói thêm là
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chính phủ Trung Quốc có
phái một số cố vấn sang Việt nam, và trong những năm 1960 Bắc kinh có đưa sang
Việt Nam một lực lượng gọi là “bộ đội hậu cần” để giúp Việt Nam sửa những đoạn
đường sắt và đường bộ giáp Trung Quốc bị bom Mỹ phá hỏng và làm một số đường
mới ở vùng biên giới hai nước . Nhưng mặt chủ yếu họ làm là điều tra tình hình
các mặt, thâm nhập những vùng có các dân tộc thiểu số và tuyên truyền “cách
mạng văn hóa”. Phần lớn những gián điệp và “bộ đội sơn cước” mà phía Việt Nam
đã bắt được trong tháng 2, tháng 3 vừa qua chính là những tên “bộ đội làm
đường” Trung Quốc trước đây.
Từ sự
phản bội ở Hội nghị Giơ ne vơ năm 1954, việc lợi dụng cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cưu nước của nhân dân Việt Nam đến việc dựng lên chế độ diệt chủng Pôn Pốt
– Lêng xa ry, vũ trang xâm lược Việt Nam và uy hiếp xâm lược Lào, tất cả đều do:
- một tư tưởng
chỉ đạo
|
chủ nghĩa đại dân tộc
|
- một chính sách
|
ích kỷ dân tộc
|
- một mục tiêu
chiến lược
|
chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và chủ nghĩa bá quyền nước lớn
|
Cụ thể
là họ mưu toan thôn tính Việt Nam và
toàn bộ Đông Dương, lấy đó làm bàn đạp tiến xuống Đông Nam châu
Á và từng bước triển khai chiến lược toàn cầu của họ.
Để đạt
mục tiêu và bành trướng bá quyền của họ-những người cầm quyền Bắc Kinh đã nâng
lừa dối và bịp bợm thành một quốc sách, một thủ đoạn chiến lược. Về phương
diện này, từ chỗ là những người học trò của Gơ ben 1, họ đã trở thành
người thầy của Gơ ben. Họ gán cho người khác những điều mà họ muốn làm. Họ đổ
vấy cho người khác những điều mà chính họ làm. Họ dựng đứng sự việc, xuyên tạc
tài liệu, bóp méo lịch sử. Họ đổi trắng thay đen, đảo ngược phải trái và cứ thế
mà tuyên truyền bằng bộ máy thông tin khổng lồ và mọi phương tiện khác. Họ
giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội nhưng lại chống chủ nghĩa xã hội. Họ hò
hét chống chủ nghĩa đế quốc nhưng chính họ bắt tay với đế quốc Mỹ. Họ kêu la
phải chống hai siêu cường nhưng lại cấu kết với đế quốc Mỹ để chống Liên Xô. Họ
nói chống chủ nghĩa bá quyền, nhưng chính họ mưu toan thực hiện chủ nghĩa bá
quyền ở Đông Dương và Đông nam châu Á. Họ đưa quân xâm lược nước Cọng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhưng lại vu cáo Việt Nam “xâm lược” Trung Quốc. Họ tỏ
vẻ “bảo vệ nhân quyền”, quan tâm đến “những người Đông Dương di tản”, nhưng
chính họ đã giất hại hàng triệu người Trung Quốc trong cuộc “đại cách mạng văn
hóa”, đã xúi dục hơn 20 vạn người Hoa bỏ Việt Nam đi Trung Quốc. Đối với những
người cầm quyền Bắc Kinh, luận điệu của họ là chân lý, lợi ích của họ là đạo
lý.”Quan châu được đốt đèn, dân đen không được nổi lửa”, câu nói đó của những
người nông dân Trung Quốc dùng trước đây để chỉ trích sự áp bức của bọn bạo chúa
phong kiến đã trở thành phương châm của những người cầm quyền Bắc Kinh hiện nay
nhằm thực hiện tham vọng bành trướng và bá quyền của họ.
1. Gơ-ben
là Bộ trưởng tuyên truyền của Hit le. (BT)
Hiện
nay những người lãnh đạo Trung Quốc đang ra sức nêu cao ngọn cờ đại dân tộc để
tập hợp các phe phái, thực hiện kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Về đối ngoại, họ
ra sức thực hiện chính sách bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu Á, cấu
kết với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác, trước hết là với Mỹ,
chống Liên Xô và cách mạng thế giới, với hy vọng tranh thủ được nhiều vốn và kỹ
thuật hiện đại của phương tây, phục vụ cho “bốn hiện đại hóa”. Và mưu đồ bành
trướng và bá quyền của họ.
Một
Trung Quốc bị đầu độc bởi tư tưởng đại dân tộc, chủ nghĩa bành trướng và bá
quyền của những người cầm quyền, bất kể phát triển theo con đường nào, không
phải chỉ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước
Đông Dương, Đông nam châu Á và Nam Á, đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực này,
mà còn đe dọa lợi ích nhiều mặt của các nước khác, kể cả các nước, vì lợi ích
trước mắt, đang phụ họa với người cầm quyền Trung Quốc chống Việt Nam, Lào và
Cam pu chia. Một số người thức thời trong các nhà chính trị và kinh doanh
phương tây mới cảnh cáo chính phủ họ về hậu quả nặng nề có thể xảy ra khi đất
nước Trung Quốc lại lâm vào một cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ mới, nhưng họ
chưa nói tới những hậu quả còn nặng nề gấp bội đối với lợi ích của các nước
trên thế giới, do chính sách bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc
gây ra.
Trong
hàng nghìn năm qua, nước Việt Nam đã bị các hoàng đế Trung Quốc xâm lược hàng
chục lần, nhân dân Việt Nam hiểu rõ những ý đồ đen tối của những người lãnh đạo
Trung Quốc, cho nên không một phút nào là không cảnh giác đối với họ. Thậm chí
trong lúc đế quốc Mỹ đẩy cuộc chiến tranh xâm lược lên đến đỉnh cao nhất , nhân
dân Việt Nam đứng trước những khó khăn chồng chất, nhưng đã thẳng thắn khước từ
những đề nghị của những người lãnh đạo Trung Quốc đưa sang Việt Nam 20 vạn quân
và số ô-tô cần thiết để đảm nhiệm việc vận chuyển quân sự từ miền Bắc vào miền
Nam Việt Nam . Nhân dân Việt Nam luôn luôn giữ vững đường lới độc lập, tự chủ
của mình không gì lay chuyển được, bất chấp sức ép dù là che giấu hay công
khai, gián tiếp hay là trực tiếp, của những người cầm quyền Trung Quốc.
III
Mặc
dầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 đã thất bại thảm hại cả
về quân sự và chính trị, những người lãnh đạo Trung Quốc vẫn theo đuổi chính
sách điên cuồng chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn. Phía Trung Quốc vẫn giữ thái
độ nước lớn trong cuộc đàm phán về những vấn đề thuộc quan hệ giữa hai nước,
vẫn ngang ngược đe dọa “cho Việt Nam một
bài học nữa”. Đồng thời họ tìm cách khôi phục chế độ diệt chủng Pôn-Pốt – Lêng
Xa ry đã bị nhân dân Cam pu chia lật đổ hoàn toàn, đe dọa xâm lược nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào, nhằm duy trì sự uy hiếp từ mọi phía đối với Việt Nam.
“Không
có gì quí hơn độc lập, tự do”. Nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc
tế đúng đắn của mình, quyết đập tan mọi hành động xâm lược của bất kỳ thế lực
phản động nào, quyết làm thất bại mọi mưu đồ bành trướng nhằm khuất phục nhân
dân Việt Nam.
Nhân
dân Việt Nam có chính nghĩa, lại có sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn
dân, kết hợp với sức mạnh của ba dòng thác cách mạng vĩ đại đã và đang đẩy lùi
từng bước các âm mưu can thiệp, nô dịch và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dấn cũ và mới, chủ nghĩa bành trướng, và chủ nghĩa bá quyền, ngày
càng làm thay đổi bản đồ châu Á, châu Phi, và châu Mỹ La tinh. Bọn bành trướng
Bắc Kinh, nếu không sớm rút ra những kết luận cần thiết từ sự thất bại từ chính
sách chống Việt Nam vừa qua, thì nhất định sẽ chuốt lấy những thất bại mới nặng
nề hơn. Trong thời đại ngày nay, các nước lớn nhỏ đều là bộ phận của một tổng
thể duy nhất của xã hội loài người. Bọn bành trướng Bắc Kinh không thể đụng đến
Việt Nam mà không khiêu khích cả loài người , không thách thức cả hệ thống xã
hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và mặt trận nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhân dân các nước xã hội
chủ nghĩa, các nước độc lập dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình và chính
nghĩa trên thế giới đã và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam .
Bằng
chính sách bịp bợm “thân xa đánh gần” của các hoàng đế Trung Quốc và nhiều thủ
đoạn xảo quyệt khác, những người cầm quyền Trung Quốc có thể còn che giấu được
bộ mặt bành trướng của họ trong một thời gian. Nhưng sớm muộn nhân dân các nước
ở Đông nam châu Á sẽ hiểu rằng chính sách thù địch của Bắc Kinh chống Việt Nam
đe dọa độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không phải chỉ của riêng Việt
Nam, mà của cả các nước trong khu vực. Mọi người chắc chưa quên rằng Bắc Kinh
đã dùng “đạo quân thứ năm” người Hoa để gây rối loạn về chính trị, kinh tế ở
nhiều nước thuộc Đông nam châu Á trước khi áp dụng ở Việt Nam. Hiện nay trong
lúc họ tập trung cố gắng để chống Việt Nam ,
họ chẳng đang can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ của nhiều nước
khác ở châu Á đó sao ?
Những
người cọng sản chân chính ở Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc trong ba mươi năm
tồn tại của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã luôn luôn bị các tập đoàn
thống trị lừa ối, sớm muộn sẽ nhận ra chân lý và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam,
sẽ ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Cuộc
đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống chủ nghĩa bành trướng đại dân
tộc và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh
để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình, góp phần bảo vệ hòa
bình và ổn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới tuy lâu dài, gian khổ, nhưng
nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang.
Nước
Việt Nam ngày nay sẽ đứng vững và tiếp tục phát triển trước mọi mưu ma chước
quỷ của những người cầm quyền Bắc Kinh, và cũng như nước Việt Nam bốn nghìn năm
qua đã đứng vững và phát triển trước những cuộc xâm lược liên tiếp của các
hoàng đế Trung Quốc.
Nhân
dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ sống trong hòa bình, hữu nghị
và hợp tác, hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước và hợp với lợi ích của
hòa bình ở Đông nam châu Á và trên thế giới.
Tháng
10 năm 1979
(HẾT)
-------------
MỜI
NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
.
0 comments:
Đăng nhận xét