Về nhà văn
PHÙNG QUÁN
*
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Tác
giả: Hoàng Vũ Thuật
TẢN MẠN VỀ PHÙNG
QUÁN
1. GẶP GỠ
Tôi chơi thân với Hải Bằng từ
cuối năm 1966, lúc Hội Văn Nghệ và Ty Văn hoá còn sơ tán lên làng Phú Vinh. Qua
Hải Bằng tôi được biết rất nhiều về cuộc đời và con người Phùng Quán. Trước đó
những năm đầu 60 tôi đã đọc cuốn “Bọn Nhân văn-Giai phẩm trước toà án dư
luận”cùng rất nhiều bài viết khác, thông qua Hà Nhật thầy giáo dạy văn và bạn
bè cùng học cấp 3 Quảng Bình cho mượn. Chưa gặp nhưng tôi đã trọng, vì đó là
con người khác người. Chữ “người” thời ấy gần như cùng chung mẫu số. Ai
cũng như ai, khó mà bộc lộ cá tính trước đám đông.
Cuối
năm 1973 tôi theo học trường Bồi dưỡng Những người viết văn trẻ ở Quảng Bá.
Thật may mắn. Tôi nói với Hải Bằng, em học ở Hà Nội, có dịp anh ra chơi để được
gặp anh Phùng Quán. Hải Bằng chưa ra, Phùng Quán đã lên Quảng Bá thăm chúng
tôi, hỏi thăm Hải Bằng và tình hình Quảng Bình. Hồi đó một lời nói trực tiếp
sốt nóng hơn thư từ. Thư gửi đi có lúc sáu, bảy tháng mới nhận được.
Phùng Quán đèo tôi về nhà mẹ nuôi. Một căn nhà lá nền đất, nằm sau lưng đình
Nghi Tàm bên Hồ Tây. Ông tự ghép lấy chiếc ghế bằng cành ổi, ngồi lâu ngày đôi
tay vịn nhẵn bóng. Bà cụ Hai Dơi suốt ngày gánh hàng lặt vặt lên đê Yên Phụ bán
cho người qua đường. Ông vội vã nấu cơm tiếp tôi, rồi ra đường đỡ gánh cho bà
cụ vừa về. Đêm ấy, lần đầu tiên tôi được gặp con - người - nhân - văn bằng
xương bằng thịt. Ông mặc một thứ vải thô nhuộm nâu, chân guốc mộc. Tại
nơi đó, cũng lần đầu tiên tôi được nghe nhiều bài thơ ông. Tôi không sao
quên được cái giọng đọc pha ngâm, trầm và ấm: Hồ khuya sương tịch mịch/ Trộn
nước lẫn cùng trời/ Con dế chân bờ dậu/ Nỉ non hoài không thôi.../ Tựa lưng ghế
cành ổi/ Vai khoác áo bông sờn/ Tôi ngồi đọc Đỗ Phủ/ Vợ vừa nghe vừa đan. Ba
mươi năm ly quê, cho tận mãi sau này cái giọng vẫn thế, vẫn Huế mà rất Phùng
Quán. Rồi ông im lặng, không khóc, nhưng tôi biết ông đang xe xót chìm trong mờ
ảo khói thuốc lào rít sau mỗi bài thơ.
Không
sai lời hẹn, Hải Bằng ra Hà Nội. Sau bao năm xa, kể từ ngày ông vác ba lô về
làng Cảnh Dương, rồi làm phát hành sách cho ty Văn hoá. Đến nơi, Hải Bằng dục
tôi đèo xe tìm Phùng Quán. Ánh điện nhập nhoà, đường về bà mẹ nuôi đất đá gồ
ghề, chúng tôi phải xuống xe đi bộ. “Anh đi từ sáng đến giờ chưa về, giờ không
về là ở lại rồi.” - Bà cụ Hai Dơi nói vậy. Chúng tôi đến 3- Hàng Cân , nhà chị
Bội Trâm, vợ Phùng Quán đang ở. Đường phố vắng hoe, Hải Bằng cứ đứng giữa lòng
đường gọi hết cỡ:
- Quán
ơi. Quán ơi. Quán ơi!..
Không
có tiếng đáp lại. Hải Bắng sốt ruột:
-
Phùng Quán ơi! Phùng Quán ơi!...
Tôi
hiểu vì sao Phùng Quán chưa trả lời. Những năm đó bài viết đánh Nhân văn chỉ
còn lác đác, vì tất cả dồn sức vào cuộc chiến. Nhưng không vì thế mà cuộc đấu
tranh chống Nhân văn đã kết thúc. Một tiếng gọi có thể thân thiết, cũng có thể
vận hạn. Hơn nữa Phùng Quán không muốn trong đêm thanh vắng lại oang oang hai
tiếng Phùng Quán, gắn với vụ án văn chương. Từ gác hai, Phùng Quán mở cửa nhìn
xuống, hớt hãi:
- Tôn
à. Nhỏ thôi, nói nhỏ thôi, ra khi mô rứa? (Tôn tức là Vĩnh Tôn, tên chính của
Hải Bằng).
Đã lâu
quay quắt nhớ, quay quắt gặp, nhưng Hải Bằng vẫn xẵng:
- Mi
hỏi tao ra khi mô là răng? Tao ra là đến mi liền, chứ còn đi mô nữa?
Hai
người ôm lấy nhau. Hải Bằng khóc hu hu như trẻ nhỏ. Chúng tôi kéo nhau đi ăn,
dốc hết tâm sự tới sáng.
2. NHỮNG ĐÊM NGỦ
Phùng
Quán có tới ba nơi ở, Nghi Tàm, 3-Hàng Cân và Lê Văn Hưu. Mùa đông tôi thường
xuống Nghi Tàm ngủ lại. Có khi Phùng Quán nấu thêm cơm, hẹn xuống, có khi nạo
cơm cháy qua loa, rồi chuyện trò. Những bài thơ tôi viết hồi đó ông đọc hết và
còn góp ý để tôi sửa lại.
Tôn Ái
Nhân, Trần Anh Trang cùng phòng, thường bảo tôi là đứa ham chơi, ít khi ở nhà
trọn một ngày. Tôi nói có việc mình mới đi. Có người gặp tôi đi theo Phùng
Quán, nhắc nhở, lãnh đạo biết đấy. Tôi kệ. Gặp được con - người - khác - người
này là quý hoá, là may mắn cho mình.
Một
buổi chiều tôi vừa bước vô nhà đã gặp người khách lạ. Chưa kịp chào, anh ấy đã
tự giới thiệu:
- Mình
là Tuân Nguyễn. Mình nghe nói Hoàng Vũ Thuật từ Quảng Bình ra, đang chờ cậu tới
đây.
- Cám
ơn, chắc chắn anh Quán kể chứ gì.
Tuân
Nguyễn vừa ở tù ra sau gần chín năm bị giam vô cớ. Không bản án, không luận
tội. Anh bị bắt cũng như được thả, đều mù mờ. Tuân Nguyễn làm ở Đài Tiếng nói
Việt Nam, đẹp trai, dong dỏng cao, đeo kính trắng. Phùng Quán nói với tôi, Tuân
Nguyễn sẽ tá túc vài ngày, nhờ bạn cho chiếc xe đạp đi lại. “Tĩnh dưỡng” cho
khoẻ rồi Tuân Nguyễn sẽ tìm cách dịch thuê mà sống. Tĩnh dưỡng là nói vậy
chứ vợ chồng Tuân Nguyễn chỉ ăn cơm với rau muống luộc, chấm nước mắm hết
ngày này qua ngày khác. Đêm lạnh, tôi được nằm giữa. Ba người đắp chung cái
chăn bông sờn. Khi Phùng Quán kéo thì Tuân Nguyễn hụt, khi Tuân Nguyễn kéo thì
Phùng Quán hụt. Chỉ có tôi được ấm. Tôi bảo, đổi chỗ em nằm ngoài cho. Tuân
Nguyễn ôm lấy người tôi: “Chín năm anh quen cái lạnh rồi. Em ngủ đi mai còn về
trường, khéo mà ngủ gục”. Phùng Quán ho lốc khốc. Bà Hai Dơi nói vọng: “Không
biết đến bao giờ mới hết lạnh”.
Tết tôi
về Quảng Bình. Tuân Nguyễn gửi thư cho người bà con tập kết đang làm cán bộ có
chức vụ trên huyện, gia đình sinh sống gần làng tôi. Anh dặn khi nào ra cậu ghé
lại hỏi thăm, có gì gửi không. Tôi ghé nhà, trước lúc ra Hà Nội, người bà con
không gửi gì, kể cả thư tay, chỉ nói: “Cậu ấy làm, cậu ấy chịu”. Tuân Nguyễn
cùng Phùng Quán nghe thuật chuyện. Phùng Quán nói, nằm trong tù chẳng ngán,
chuyện vặt.
Nhiều
lần đến Nghi Tàm không gặp, tôi lên 80- Lê Văn Hưu (hồi đó là nhà khách Bộ Văn
hoá). Phùng Quán được bố trí ở trong buồng một toilét không dùng nữa. Ông
phủ lên mặt toilét cái thùng gỗ làm chỗ viết. Mùa đông lót báo dưới, trải chiếu
lên trên. Nhiều khi ông và tôi không nói gì. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ
hoặc công việc gì đó. Ông thường hài hước: “Ở thế này là sang lắm rồi, tầng hai
hẳn hoi”. Còn tôi thì thương cho cái kiếp lao đao của nhà thơ có đến ba nơi ở
mà chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Sáng dậy, chúng tôi ra chợ Đồng Xuân ăn
bún thang. Thứ bún thêm vào thìa ruốc nêm, ông rất thích. Về tới trường, lại có
người nhắc nhở đừng chơi với Phùng Quán, người ta theo dõi đấy. Tôi không để ý
tới câu nói, vì mình có làm việc gì đâu. Chính nhờ Phùng Quán tôi mới gặp Hoàng
Cầm, Trần Dần, Phùng Cung và một số người khác. Phùng Cung chép đề tặng tôi bài
thơ: Đêm nay sương mặn/ Bên gốc na/ Con dế khoang gãy giong/ Đợi người về/ Ngọn
đèn chai/ Tãi sáng nước dưa. Một ngọn đèn hiu hắt màu nước dưa chỉ đủ soi cho
trang giấy. Đêm đêm được Phùng Quán khêu lên, ngồi hút thuốc lào, bóng mờ in
lên vách, bên Hồ Tây để viết “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”.
3. IN SÁCH PHÙNG QUÁN
Đầu
năm 1981, tôi được điều chuyển từ Quảng Bình vào Huế nhận công tác Phó trưởng
Ban biên tập nhà xuất bản Thuận Hoá. Một ngày cuối xuân năm 1982, tôi đến muộn.
Trên bàn tôi đã có bản thảo “Buổi đầu thử thách” của Đào Phương, với dòng chữ
ghi: Anh Thuật tổ chức biên tập để in đúng kế hoạch. Ký tên Vương Hồng. Tôi
mừng thầm. Đây rồi, lại gặp nhau. Bởi tôi đã đọc nó vào tháng 4, tháng 5 gì đó
tại căn gác toilét Lê Văn Hưu. Bấy giờ không có hai chữ Đào Phương, mà là Phùng
Quán. Nét chữ nghiêng đều đặn, mực tím không lẫn vào đâu được. Khác chăng bản
thảo bị gạch xoá khá nhiều. Chắc đã qua tay một người đọc. Tôi tìm cách thông
tin cho Phùng Quán. Ông viết mấy dòng rất kín đáo: Cứ làm cho anh, anh xin Đào
Phương rồi. Cẩn thận. Tôi đã gặp Đào Phương, tác giả cuốn “Thồ Điện Biên” ở Hà
Nội, bây giờ không hình dung nổi. Tôi hỏi ông Lê Trọng Sâm, Phó tổng biên tập.
Ông ấy bảo mình rất biết, giúp Đào Phương với. Lặng lẽ đọc lần nữa, cố
lấy lại những đoạn không nên bỏ, giữ lại những chữ cần thiết, rồi tôi giao cho
cô Loan đánh máy, ký tên biên tập, trình Tổng biên tập duyệt.
Năm
1983 sách đến tay Đào Phương cùng nhuận bút do Lê Trọng Sâm và tôi ra Hà Nội
giao tại nhà. Đào Phương cười nói vui vẻ, cám ơn tôi. Có lẽ Đào Phương tưởng
rằng tôi không biết bản thảo này là của Phùng Quán. Hồi ấy, tuy đất nước đã
thống nhất mấy năm, nhưng vẫn còn cách nhìn cách nghĩ cũ kĩ, ràng buộc lắm thứ.
Chưa đổi mới. Cánh Nhân văn - Giai phẩm im lặng chờ đợi. Giả dụ sự việc ấy mà lãnh
đạo nhà xuất bản biết, muốn hay không tôi sẽ bị đuổi việc ngay lập tức. Cho dù
tôi nói là tôi không biết. Tôi tin cho Phùng Quán khoản nhuận bút và sách tác
giả. Sau này, ông bảo tôi, Đào Phương cho lại mình một ít. Tôi không rõ là bao
nhiêu, nhưng đối với ông là quý lắm, theo cách nghĩ của ông. “Buổi đầu thử
thách”, chính là tập một của ba tập tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội” sau này.
4. PHÙNG QUÁN ĐỌC THƠ Ở HUẾ, IN THƠ Ở ĐÀ NẴNG
Tôi
đang dẫn chương trình Đêm thơ tại 26-Lê Lợi, do Phân hội Văn học tổ chức. Vinh
Nguyễn nói nhỏ vào tai: “Anh Phùng Quán và chị Hương Quân ở Hà Nội vừa vào”.
Tôi ra cửa đón ông và chị, đồng thời giới thiệu với Nguyễn Khoa Điềm. Anh Điềm
bắt tay thăm hỏi, nhắc tôi giới thiệu Phùng Quán đọc thơ nữa nhé. Sau vài lời
phi lộ, Phùng Quán chắp tay như cúng lễ đọc ngay bài thơ Tạ:
Ngày ra trận
Tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về
Đầu đã hoa râm
Sau cuộc trường chinh ba mươi năm
Quỳ rạp trán xuống đất làng
Con tạ...
Rồi
ông quỳ rạp thật. Ông đứng lên trong tiếng vỗ tay không ngớt. Đêm thơ lắng lại
để nghe Phùng Quán đọc tiếp những bài thơ khác. Nếu tôi không nhầm, năm 1986,
đêm đầu tiên trở về quê hương, sau bao năm xa cách và lần đầu tiên ông đọc thơ
tại nơi chôn rau cắt rốn của ông. Mặc dù bài Tạ được ông viết từ 1975. Những
ngày sau đó ông trở thành khách quý của những người ngưỡng mộ ông. Đám trẻ tuổi
chúng tôi thường theo ông để được “ăn theo”, “uống theo” “nói theo” cho có bạn.
Một
năm sau, Phùng Quán vẫn chưa về nhà. Hương Quân đã ra Hà Nội. Ông nói với tôi,
khi đi anh nói với chị ra phố mua bao thuốc lá. May mà bấy giờ đã có điện thoại
liên lạc, không thì đã phải báo mất tích từ lâu.
Phùng
Quán vào Đà Nẵng. Ông đọc thơ tại Nhà hát thành phố, ở huyện Điện Bàn và
nhiều nơi khác. Trở lại Huế, ông cầm xấp báo Đà Nẵng chủ nhật, ra ngày 15/2/87,
đăng “Trường ca cây cà”, ký tặng bạn bè. Tôi được một tờ. Đầu chương một, ông
viết: Ba mươi năm trước/ Tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ/ Tôi lại hồi sinh giữa
xanh thẳm Hàn Giang/ Chính cây cà quê mùa lao lực/ Đã dạy tôi dũng khí bền
gan! Đó là
bài thơ đầu tiên ông in tên thật của mình, mãi sau tạp chí Sông Hương mới tiếp
tục đăng những bài khác.
5. KIỂM ĐIỂM VÌ PHÙNG QUÁN
Chia
tỉnh, tôi về lại Quảng Bình làm Tổng thư ký (Chủ tịch Hội bây giờ). Gần hai năm
sau, đầu tháng 4/1991, Phùng Quán từ Hà Nội vào thăm chúng tôi. Mừng lắm, không
ngờ lại được gặp ông sau ngày chia tỉnh. Tôi hội ý với Ban thư ký rồi lên
kế hoạch, đồng thời đi cùng ông trên chiếc xe la-đa cũ, tài sản lớn nhất được
chia ra từ Hội Bình Trị Thiên.
Chiều
12/4 chúng tôi đến Hoàn Lão. Ông Lê Chiêu Nẫm-Bí thư Huyện uỷ Bố Trạch và anh
Thoan - Trưởng Ban Tuyên giáo niềm nở đón tiếp chúng tôi. Anh Thoan dẫn chúng
tôi về giao lưu với Trường Bồi dưỡng giáo viên của huyện. Sau buổi tiếp xúc ấy,
trường Phổ thông trung học số 1 đăng ký mời Phùng Quán nói chuyện thơ. Hôm sau
trên đường về anh Thoan tìm gặp xin chuyển địa điểm về nhà Văn hoá trung tâm để
bà con thị trấn được nghe nữa. Cuộc nói chuyện không thành. Họ gọi điện thoại
cho tôi xin hoãn. Tôi hỏi, vậy thì bao giờ có thể tổ chức? Họ trả lời không
biết nữa.
Thế
nhưng Phùng Quán vẫn tiếp tục được mời nói chuyện ở trường Phổ thông trung học
Đào Duy Từ và trường Cấp 2 Đồng Mỹ. Người nghe đứng chật ra tận hành lang. Anh
Lại Minh Thương, bạn tôi, học sinh cũ của trường cấp 3 Quảng Bình, là đội
trưởng hợp tác xã đánh cá Hồng Mỹ, Bảo Ninh nghe tin, mời Phùng Quán và tôi
sang nhà thết đãi, nghỉ lại đọc thơ cho xóm giềng. Tôi sung sướng và cảm động.
Đâu đâu người ta đều ngưỡng vọng nhà thơ, muốn được nghe thơ, được nhìn rõ con
- người - nhà - thơ như thế nào. Đó là dấu hiệu văn hoá lành mạnh. Ông nói
chuyện say sưa, đọc thơ say sưa, hồn nhiên như người “cấm khẩu” lâu ngày bỗng
nhiên bật lên tiếng nói. Không lần nào giống lần nào, con người ấy có sức cảm
hoá đến kỳ lạ. Vẫn cái giọng trầm và ấm, cái giọng trải qua nhiều cay đắng
nghiệt ngã, kiên gan trước cuộc đời ba động, đã đúc nên thứ âm thanh như có
thần phép kia.
Nhưng
tất cả những cuộc đi đâu về đâu đều có người theo dõi. Chúng tôi đi là họ đến.
Họ cấm không được tổ chức gặp gỡ, đọc thơ hay nói chuyện gì nữa. Phùng Quán là
Nhân văn.
Những
ngày lưu lại nhà tôi đã thành một sự kiện.
Tôi
nhớ sáng nào vợ tôi cũng dọn sẵn trên bàn một chén cà sống, bát ruốc, góc chai
rượu ngon. Khi thì đĩa bánh cuốn, khi thì cháo trắng. Những thứ hợp khẩu với
ông. Tôi cụng với ông một ly, nhấm nháp qua loa để đến cơ quan kịp giờ làm
việc. Ông ngồi bên chai rượu cho tới khi tôi về để còn đi thăm những người quen
biết.
Thế
rồi đột ngột tỉnh giao tôi nhiệm vụ tháp tùng đoàn của Bộ Văn hoá lên hai huyện
Tuyên Hoá và Minh Hoá. Ông rất muốn theo tôi. Khi hỏi đi cùng ai, ông bảo, mình
trở thành kẻ bị săn đuổi tới nơi rồi. Thôi đi đi, mình không đi nữa. Tôi bàn
với ông lên nhà Hải Kỳ, ở chơi vài ngày đợi tôi về. Ông ừ. Sau này được Hải Kỳ
kể lại, ông và Hải Kỳ vừa ra khỏi nhà, lập tức công an vào hỏi. Minh Văn con
trai Hải Kỳ,đang học cấp hai, khôn khéo đem giấu cái bị cói của Phùng Quán ra
sau bàn thờ, không thì họ lấy cũng nên.
Quả
như vậy, khi tôi về đã thấy giấy mời lên làm việc với Thường vụ Tỉnh uỷ. Người
trực tiếp gặp tôi là ông Phó Bí thư Thường trực cùng một số người nữa. Ngồi vào
bàn ông nói ngay: “Anh là cán bộ lãnh đạo Hội. Phùng Quán là ai, anh biết
rồi đấy. Gần nửa tháng qua anh đưa anh ta đi đâu, gặp gỡ ai, nói chuyện gì”.
Tôi trả lời ngay không cần nghĩ ngợi: “Phùng Quán là nhà văn thế hệ chống Pháp.
Năm 1988 anh đã được phục hồi hội viên. Anh công tác ở cơ quan văn phòng Bộ Văn
hoá, đã từng in...” Chưa dứt lời ông cắt ngang với hai hàm răng rít chặt:
“Không nói nhiều, anh về viết bản kiểm điểm gửi cho chúng tôi. Cần nhớ rằng anh
thuộc diện cán bộ chúng tôi quản lý...”. Tôi không đáp lại nữa. Ra về mà lòng
cứ ấm ức. Chẳng lẽ thế? Chẳng lẽ người ta vẫn còn kỳ thị, nghi ngờ đến thế?
Phùng Quán đã xuất hiện ở Huế, lúc ông làm Phó Giám đốc Công an cơ mà. Ông
không biết Phùng Quán đã đọc thơ và nói chuyện nhiều nơi, đã in trên báo Đà
Nẵng và tạp chí Sông Hương hay sao. Vả lại, hồi năm 81, 82 khác. Năm 86, 87 đất
nước đã đổi mới, văn nghệ được cởi trói. Giờ đã là 91. Ông định làm gì nữa đây?
Tôi về
nhà viết bản kiểm điểm gửi cho bốn tổ chức, Thường vụ Tỉnh uỷ, Đảng Đoàn Văn
nghệ, Ban Thư ký, Chi bộ cơ quan Hội. Những dòng tôi trích dưới đây y nguyên
trong bản đánh máy trên mặt giấy pơ-luya màu thẩm hồi đó. Tất nhiên tôi phải
mất hẳn một buổi tìm lại từ “thư viện gia đình”. Tính tôi luộm thuộm, không
ngăn nắp như người ta. Mở đầu tôi viết: “Nhà văn Phùng Quán, hội viên Hội Nhà
văn Việt Nam, tác giả tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo”, gần đây với bộ tiểu thuyết ba
tập “Tuổi thơ dữ dội” được tặng thưởng văn học của Hội nhà văn, chuyển dựng thành
phim được tặng thưởng phim hay năm 1990...” Không lâu, trên một trang báo Nhân
Dân, in danh mục những phim chiếu phục vụ trong dịp Đại hội Đảng, có “Tuổi thơ
dữ dội”. Trang năm, cuối bản kiểm điểm ở phần nhận khuyết điểm, tôi thẳng
thừng: “Song không khí hôm Thường trực Tỉnh uỷ làm việc, rõ ràng là nặng nề. Có
một số việc tìm hiểu chưa cụ thể vội vàng kết luận. Thí dụ: Đồng chí Phó Bí thư
Tỉnh uỷ cho rằng, tôi phải chịu trách nhiệm trước Thường vụ toàn bộ sự việc
trên. Đồng chí còn nói: Tôi đã bất chấp chỉ thị cấp trên, tiếp tục tổ chức để
anh Phùng Quán nói chuyện hai nơi (tức trường Phổ thông trung học Đào Duy Từ và
trường Cấp 2 Đồng Mỹ), lại còn qua cả Bảo Ninh.
Tôi là
một nhà văn, được Thường vụ giao trọng trách quản lý Hội Văn Nghệ, tôi có nhân
cách và lòng tự trọng của mình. Việc gì chưa rõ ràng thì cần được nhắc nhở trao
đổi rút kinh nghiệm, sai trái thì kiểm điểm, cao hơn thì kỷ luật. Nhưng không
thể xử sự với tôi bằng một thái độ vội vã kết luận, khẩu khí căng thẳng khi
chưa điều tra kĩ lưỡng. Việc đó rõ ràng không tạo thuận lợi cho tôi trong việc
quản lý Hội và đội ngũ văn nghệ sĩ trong tình hình còn phức tạp hiện nay”.
Bản
kiểm điểm gửi đi. Họ im lặng không tiếp tục hành xử tôi nữa. Nhưng rõ ràng tôi
không gặp thuận lợi về sau .
Khi
Phùng Quán được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tôi định cầm mấy bộ
sách tuyển tập thơ, tiểu thuyết của Phùng Quán và những cuốn khác do Ngô Minh
biên soạn đến nhà ông phó bí thư, chỉ để nói với ông một câu. Ông thấy không,
cái bằng chứng này cao hơn cả. Nếu Phùng Quán có gia đình ở đây, chắc ông phải
ngậm ngùi tổ chức lễ trao Giải thưởng Nhà nước cho Phùng Quán. Mặc dầu ông đã
nghỉ hưu lâu rồi. Nhưng chuyện đời, lẽ sống con người đâu có nghỉ hưu!
6. LỄ TRUY ĐIỆU CÓ MỘT KHÔNG HAI
Tôi
thường tâm sự với lớp trẻ, đã làm nhà văn phải có hai nhân cách. Nhân cách sống
và nhân cách viết. Nhân cách viết, có thể có nhiều người thành đạt. Nhưng nhân
cách sống không hẳn ai cũng được như nhau. Có người im lặng viết, miễn sao tròn
một công dân. Có người viết tốt, sống tốt mà vẫn vào vòng lao lý. Phùng Quán
thuộc hạng người này. Cả đời ông là một chuỗi đau thương. Nhưng không lúc nào
ông chùn bước. Cuộc đời ông, ai đã biết là mến mộ, kính trọng. Ông bị bệnh gần
hai năm phải nằm ngửa kê tay vào giá đỡ trước mặt mà viết. Một bàn viết ngược.
Xưa nay ông đã viết, phải ngồi vào bàn, dù chiếc bàn ấy là tấm ván, hộp gỗ
chăng nữa. Giấy của ông được kẻ dòng như loại giấy vở học trò. Phải là người có
khí chất sống, khí chất văn chương mới nghĩ ra cái giá đỡ kỳ quái để viết cho
tới dòng sau chót đời mình.
Tôi
định bụng bàn với nhà văn Hữu Phương, bấy giờ là phó chủ tịch Hội, tổ
chức lễ truy điệu vọng cho ông. Nghĩ lại, bao nhiêu chuyện còn đó, người ta còn
đây. Thử có ích gì? Thế là tôi rủ Hữu Phương cùng một số anh chị em, học sinh
yêu văn học lên nhà Hoàng Quang Đông chơi. Đông là thầy giáo, bạn tôi, đã có
lần gặp Phùng Quán. Tôi thông báo nhà văn Phùng Quán mất rồi, lúc 16h 50’, ngày
22/01/1995. Tin này nhờ một người bạn điện thoại vào cho tôi hay. Tất cả bàng
hoàng. Im lặng. Không ai nói câu gì. Trong khoảnh khắc đó, tôi lấy ra tờ giấy
trắng, chiếc bút dạ, ký hoạ rất nhanh chân dung Phùng Quán. Sau này tôi không
hiểu vì sao mình vẽ được như vậy. Một chân dung Phùng Quán trăm phần trăm.
Gương mặt hơi trẻ. Chân dung ấy tôi ép plastic để trong “thư viện gia đình” như
một báu vật.
Không
ai bảo ai, người kê tấm ván vuông vức lên chẻ ba cây đào, người hái hoa cắm vào
bình, người tìm thứ làm bát hương... Trong làn khói hương thơm phức, tất cả như
những pho tượng đứng bất động. Tôi lên tiếng trước: “Chúng em xin cúng vọng
anh, một nhà thơ tài hoa, một nhà văn suốt đời chỉ viết trên giấy kẻ dòng, một
nhân cách sống hiếm thấy”. Mọi người lặng lẽ bước lên cắm những que hương trên
chiếc bàn thờ có một không hai . Thầy giáo Hoàng Quang Đông rưng rưng vừa đọc
vừa ngâm bài thơ "Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe".
Lúc ấy
là 4h chiều ngày 28/01. Sau sáu ngày Phùng Quán từ giã bạn bè người thân ra đi.
-----------
Nguồn: TẢN MẠN VỀ
PHÙNG QUÁNl
Tác
giả: Ngô Minh
BẤT NGỜ MỐI TÌNH
ĐẦU CỦA PHÙNG QUÁN
Trong những cuốn sách biên soạn về Phùng Quán, chúng tôi đã cung cấp cho
độc giả mối tình nồng cháy, vượt qua đau khổ và cơ cực của Phùng Quán - Vũ Bội
Trâm, đồng thời cũng hé lộ đôi chút về những mối tình sau này của nhà văn Phùng
Quán với Hương Quân, Hà Khánh Linh... Lần này lại một mối tình nữa, mà hình như
là mối tình đầu-ly kỳ hơn-đã được Phùng Quán tự kể và chị Vũ Bội Trâm, vợ nhà
văn, phát hiện ra...
NỤ HÔN
ĐẦU TIÊN?
Phùng
Quán là một nhà văn lạ lùng, luôn luôn làm mọi người bất ngờ hết chuyện này đến
chuyện khác. Uống rượu suốt ngày, rong chơi suốt ngày, nhưng khối lượng tác
phẩm để lại ít người địch nổi. Riêng chuyện tình năm 22 tuổi này thì ngay cả vợ
con và bạn bè thân quen anh cũng bị bất ngờ. Trong bài viết “Tôi soạn Di cảo
của Anh” in ở cuối sách “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào” của Phùng
Quán, chị Vũ Bội Trâm, vợ anh, viết: ”... vô tình tôi phát hiện ra một cuốn sổ
đã cũ trong số bộn bề những sổ tay ghi chép của anh, giở ra đọc thì thấy đó là
những trang anh viết về khúc quanh của cuộc đời. Càng đọc tôi càng bị thu hút
bởi những chuyện mà sau bao nhiêu năm chung sống, nay tôi mới được tỏ
tường...”.
Nhờ sự
phát hiện đó được thông tin cho anh Nguyễn Đức Bình - Giám đốc NXB Văn nghệ và
cuốn sách “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào” đã ra mắt độc giả tháng
10-2007. Khi Đức Bình điện báo cho tôi tin mừng này, tôi vô cùng ngạc
nhiên, vui sướng. Tôi gặp anh Quán nhiều lần, được nghe anh kể nhiều chuyện, cả
những chuyện không thể nói ra, nhưng tôi không bao giờ nghe anh hé lộ một chi
tiết nào về một cuốn hồi ức những ngày tháng anh viết tiểu thuyết "Vượt
Côn Đảo" để trở thành nhà văn Quân đội năm 1954.
Khi in
xong cuốn hồi ức Phùng Quán, Nguyễn Đức Bình gửi cho tôi một bản sách. Càng đọc
tôi càng ngạc nhiên. Ngạc nhiên nhất là Phùng Quán kể về mối tình của mình với
một cô gái làng biển tên là Như ở Hải Thôn (Sầm Sơn)... Điều bất ngờ hơn
nữa khi Nguyễn Đức Bình điện cho tôi thông báo rằng, mối tình Phùng Quán với cô
gái ấy là chuyện có thật chứ không phải hư cấu, và “cô bé” Như ở Sầm Sơn bây
giờ vẫn còn sống...
Để dễ
theo dõi cuộc tình éo le và hấp dẫn này, tôi xin vắn tắt đôi nét chuyện Phùng
Quán đi làm phóng viên ở Sầm Sơn qua sách “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào”.
Năm 1954, Phùng Quán đang là chân kéo phông màn của Đoàn văn công Quân khu 4 do
nhà thơ Thanh Tịnh làm trưởng đoàn. Sau khi tham gia chiến dịch biểu diễn phục
vụ bộ đội ta ở Việt Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ, đoàn về tới Cây Đa Tân
Trào. Theo đề nghị của Thanh Tịnh, Phùng Quán được về tổ phóng viên đi
phục vụ việc trao trả tù binh ở Sầm Sơn (Thanh Hóa) do anh Nguyễn Trần Thiết
phụ trách (Nguyễn Trần Thiết sinh năm 1929, quê Thanh Hóa, nhà văn Việt Nam,
đại tá, hiện nghỉ hưu ở Hà Nội). Phùng Quán lúc đó chưa viết được bài báo nào
cả, nên được anh Thiết phân công mang một cái máy ảnh to kềnh càng “như tráp
thợ cạo” để nghi binh các phóng viên phương Tây.
Phùng
Quán trọ trong nhà một ngư dân đánh cá ở xóm Hải Thôn sát cửa biển Sầm Sơn,
ngay cạnh địa điểm trao trả tù binh. Trong nhà có cô gái tên Như, 16 tuổi, là
Đội trưởng Thiếu nữ Chim hòa bình Hải Thôn. Đội Chim hòa bình này khi có tù
binh được ta trao trả thì ra múa để đón chào. Một bữa Như hỏi Phùng Quán:
"Anh viết cái gì mà lúc nào cũng thấy cặm cụi thế!”... "Em đứng
sát sau lưng tôi, cúi xuống. Cằm gần chạm đỉnh đầu tôi. Mái tóc cắt ngắn ngang
vai của em xõa xuống. Đuôi tóc chạm vào gáy tôi nhồn nhột. Tôi ngửi thấy mùi em
chua chua, ngòn ngọt..”. “Anh đang viết lại chuyện những người tù nhân đóng thuyền
Vượt Côn Đảo mà hôm nọ anh nghe họ kể”. Phùng Quán viết được mấy chục trang,
đọc lại thấy “chán quá”, liền trao cho cô bé Như bảo: “Em đun bếp đi”.
Nhưng
Như không đun bếp mà đã đọc những trang viết đầu tiên của tiểu thuyết đầu tay
của Phùng Quán một cách chăm chú. Thế là từ đó Như là độc giả đầu tiên của tiểu
thuyết “Vượt Côn Đảo” khi nó mới vừa manh nha. Rồi Như viết thư khen:
"Em đã đọc hết tập giấy anh viết. Em đọc ba buổi chiều liền. Em đem ra bãi
dương liễu... ngồi đọc cho đến lúc không nhìn thấy chữ nữa mới về nhà. Em vừa
đọc vừa khóc thương các anh tù Côn Đảo quá... Anh viết tiếp đi cho em đọc với.
Mỗi ngày em sẽ cho anh củ khoai nướng...”. Rồi những trang bản thảo đã dắt họ
đến gần nhau.
Một
lần "Tôi ngồi xuống cạnh em, bất chợt ngoảnh sang nhìn em. Lồng ngực tôi
đánh đến nỗi làm mắt tôi mờ đi. Tôi chưa bao giờ thấy em đẹp như thế... Hai má
màu hoa lựu và cặp môi đỏ ướt một cách khác thường. Đầu óc tôi quay cuồng... Em
sắp lấy chồng, là chàng trai biển, con một nhà giàu có ở xóm trên... Như đang
mê sảng, tôi đưa tay vòng vào cổ mảnh dẻ của em, vòng qua mái tóc xõa vai, kéo
mặt em sát mặt tôi. Tôi cúi xuống hôn vụng về lên môi em. Cả người tôi như tan
ra trong hoan lạc... ".
Sau
cái hôn đầu tiên đó, Phùng Quán run lên vì lo lắng và xấu hổ. Những ngày
mới hòa bình, kỷ luật quân đội vô cùng nghiêm khắc. Quan hệ với phụ nữ nơi đóng
quân là quan hệ bất chính. Đó là một tội lỗi xấu xa và ghê tởm nhất. Nếu cấp
trên phát hiện ra, Phùng Quán sẽ bị kỷ luật. Hai ngày sau, Phùng Quán xin tổ
phóng viên chuyển về đơn vị, rồi khoác ba-lô chuồn khỏi Hải Thôn - Sầm Sơn. Đi
như một người chạy trốn. Khi Phùng Quán rời Sầm Sơn được 4-5km thì cô Như chạy
đuổi theo, hét lên: "Anh Quán, anh Quán ơi!’’. Rồi Như úp gương mặt đầm
đìa mồ hôi và nước mắt vào ngực Phùng Quán, nức nở: "Em thương anh! Em
thương anh! Anh không biết gì cả...? ". Rồi Như đã nói thẳng ý định của
mình: "Em định nói với bố mẹ trả lại lễ vật cho nhà trai, rồi em đợi
anh...". Đó là cách thổ lộ tình yêu của người con gái. Tôi nghĩ, đây là
lần đầu Phùng Quán yêu và hôn con gái, vụng về, run rẩy trước con gái, rồi sợ
hãi, xấu hổ sau khi hôn... Vì lúc đó anh mới 22 tuổi. Cho nên, nói tình yêu
Phùng Quán với cô Như Hải Thôn là mối tình đầu của anh cũng đúng. Và chắc là
thế! Tôi tin là thế!
GẶP
NGƯỜI TÌNH ĐẦU TIÊN CỦA PHÙNG QUÁN
Trong
sách "Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào", Phùng Quán bảo rằng,
bước ngoặt làm cho anh trở thành nhà văn là sự hấp dẫn của cái cột cây số rêu
phong trên QL1A chỉ đường về Hà Nội. Nhưng đọc cuốn hồi ký, tôi lại nghiệm
ra một điều tâm đắc: Phùng Quán trở thành nhà văn là do “tình cảm”, "tình
yêu" của cô Như ở Hải Thôn. Cô Như ấy chính là “người đọc đầu tiên” của
tiểu thuyết Vượt Côn Đảo và đã khóc, đã khen hay, thưởng khoai nướng,
bánh đúc-kê khuyến khích Phùng Quán viết.
Khi đã
về Văn nghệ Quân đội, được nhà văn Vũ Tú Nam giúp đỡ, tiểu thuyết Vượt Côn
Đảo được in và được đánh giá cao, người đầu tiên Phùng Quán nghĩ đến tặng
sách là "người em Hải Thôn, Sầm Sơn". Trong hồi ký, Phùng Quán viết:
"Tôi chọn cuốn đẹp nhất, nắn nót viết lên trang đầu sách: Yêu quý tặng em
Như (lúc này tôi mới nhớ ra tôi không biết họ em tên là gì: Lê, Trần hay
Nguyễn. Tại sao tôi không bao giờ có ý định hỏi em...). 53 năm sau, chuyện
tặng sách Vượt Côn Đảo mới được Biên tập viên Thu Dịu thay mặt chị
Bội Trâm thực hiện. Cuộc đời kết thúc quả là có hậu. Không có điều gì mất đi
cả...
Trong
dịp ra Hà Nội dự lễ ra mắt 2 tập sách "Phùng Quán còn đây" và
"Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào" ở Hội chợ sách quốc tế
Vân Hồ do NXB Văn Nghệ mời, tôi đã nhờ nhà thơ Đỗ Hoàng chở xe máy tìm đến nhà
204, D3, phố Vĩnh Phúc thăm chị Bội Trâm và thắp hương lạy anh Phùng Quán. Bữa
đó, chị Bội Trâm kể cho chúng tôi nghe nhiều về mối tình Phùng Quán và cô Như
Sầm Sơn ấy. Chị kể rằng, NXB Văn Nghệ sau khi nghe tin Phùng Quán có cuốn hồi
ký viết về mình đã trở thành nhà văn như thế nào, đã nhanh chóng cử Thu Dịu,
cán bộ biên tập ra Hà Nội để cùng chị Bội Trâm sắp xếp chỉnh lý lại cuốn hồi ký
trước khi đưa vào TP Hồ Chí Minh in, vì sợ "nhà" khác cuỗm mất.
Đọc
chuyện cô Như trong hồi ký Phùng Quán, Thu Dịu cho rằng "Đây không thể là
hư cấu, vì câu chuyện rất chân thật. Vì thế cháu sẽ tìm xem nhân vật Như này có
thực hay không?". Tất nhiên, nếu Thu Dịu tìm không ra người con gái Hải
Thôn ấy, hay người con gái ấy không có thực đi nữa thì bạn đọc sách cũng không
nghi ngờ những trang viết của Phùng Quán. Vì ngòi bút Phùng Quán xưa nay vốn
rất chân thành, trung thực. Nhưng nếu tìm được cô Như Hải Thôn ấy, thì câu
chuyện sẽ trở nên cực kỳ thú vị, giá trị cuốn sách sẽ cao gấp nhiều lần... Thu
Dịu tìm Hải Thôn trên bản đồ tỉnh Thanh Hóa, trên mạng không thấy. Tìm mãi được
số điện thoại, hỏi người bạn bảo là Hải Thôn thuộc xã Quảng Tiến. Điện thoại
hỏi xã tên cô Như khoảng 70 tuổi thì cũng chẳng ai biết. Chị Bội Trâm khuyên
Thu Dịu đừng nên vất vả tìm nữa, vì tìm phải tốn nhiều thời gian công sức
lắm, chị không muốn vì chồng mình mà một cô gái trẻ phải vất vả.
Thế mà
Dịu đã đi Sầm Sơn và tìm ra cô Như thật. Dịu đi để tìm ra sự thật. Để tìm ra độ
tin cậy của cuốn hồi ức Phùng Quán. Theo Thu Dịu kể thì nhờ được một người bạn
ở Thanh Hóa đi tìm giúp cô Như ở Hải Thôn. Và người bạn ấy đã tìm thấy cô gái
trong đội Chim hòa bình Hải Thôn xưa, nay đã 70 tuổi, quen biết Phùng Quán,
nhưng không phải tên Như mà tên là Nhủ. Thu Dịu đã điện thoại trực tiếp gặp bác
Nhủ của Phùng Quán và rồi sau đó đã về Sầm Sơn.
Chị
Bội Trâm phấn khích lắm. Tôi chưa bao giờ thấy một người phụ nữ nào khi được
biết cụ thể về "người tình" cũ của chồng mình mà lại phấn chấn, vui
vẻ đến vậy! Chị kể rằng, khi Thu Dịu đi Sầm Sơn, chị chọn một cuốn "Vượt
Côn Đảo" kèm theo tấm ảnh Phùng Quán mặc đồ bộ đội chụp năm 1954 để tặng
bà Nhủ kèm theo lời nhắn gửi thân tình, biết ơn. Sau chuyến đi Sầm Sơn về lại
Hà Nội, Thu Dịu trân trọng chuyển chị Bội Trâm món quà của "Như Phùng
Quán". Đó là 5 con mực to dài, thơm nức với lời nhắn rằng, "gia đình
làm nghề biển, gửi bà vợ nhà văn Phùng Quán để bày tỏ tấm lòng của người cũ
và xin mời bà có dịp về thăm Sầm Sơn để chị em hàn huyên". Câu
chuyện giống y như tiểu thuyết hư cấu!
Theo
Thu Dịu kể, khi gặp, đưa ảnh bà Nhủ Hải Thôn nhận ra ngay tấm ảnh Phùng Quán.
Bà Nhủ bảo: "Đúng là anh Quán thời trẻ". Bà Nhủ cũng xác nhận là ngày
đó bà đã đọc bản thảo Vượt Côn Đảo của Phùng Quán "vừa đọc vừa
khóc". Rồi bà còn sửa lỗi chính tả cho Phùng Quán nữa. Vì người Huế và
miền Trung thường viết chữ có "gờ" thành không "gờ",
chữ không có "gờ" lại viết có ‘gờ’, rồi dấu hỏi viết thành dấu ngã.
Theo
Thu Dịu kể, thì bà Nhủ nghe đài còn biết truyện Vượt Côn Đảo của
Phùng Quán đã được in ngay năm đó và sau đó anh bị "phê phán gì đó bác
cũng biết". Bà dẫn Thu Dịu đi để chỉ những nơi ngày xưa trao trả tù binh,
nơi "anh Quán làm việc phóng viên" hằng ngày, và rừng dương nơi cô bé
Nhủ đã ngồi đọc những trang đầu tiên của tiểu thuyết Vượt Côn Đảo và
khóc. Khi Phùng Quán về Hải Thôn làm phóng viên (1954), bà Nhủ đã yêu Phùng
Quán. Mãi đến 4 năm sau, bà vẫn chưa lấy chồng. Năm 1957, có lần bà theo anh
trai ra Hà Nội, bà đã đi tìm Phùng Quán ở Báo Quân đội Nhân Dân, nhưng đến nơi
thì người ta bảo anh ấy "đi công tác xa". Sau đó về quê bà mới lập
gia đình. Có nghĩa là bà vẫn chờ đợi và đi tìm Phùng Quán. Bà còn kể rằng, năm
1960, bà còn gặp "anh Quán" một lần nữa.
Lần
đó, Phùng Quán theo ông chú họ (có lẽ là ông Phùng Thị ở Bộ Văn hóa) vào Thanh
Hóa, anh tìm về thăm "người cũ" ở Hải Thôn, Sầm Sơn, nhưng không gặp.
Đi làm về, nghe người nhà báo lại, bà Nhủ lập tức đạp xe lên thị xã Thanh Hóa,
tìm đến chỗ trọ Phùng Quán ở Ty Văn hóa. Chờ mãi mới gặp. Lần đó, Phùng Quán đã
tặng bà Nhủ một bài thơ. Bà chỉ nhớ một khổ, đọc cho Thu Dịu chép: Chim
hải âu dựng cánh giữa lưng trời/Đang tìm bạn hay tìm ai chẳng biết /Bạn đời ơi
thôi từ nay đã hết /Gửi tình thương bất diệt lúc chia tay… Phùng Quán viết
bài thơ này khi anh chưa lập gia đình. Và đến 47 năm sau bà Nhủ vẫn nhớ. Chứng
tỏ tình cảm sâu nặng giữa hai người. Bài thơ có thể là lời chia tay tha thiết
với "người yêu" Sầm Sơn vì lúc này bà đã có gia đình, mà Phùng Quán
thì đang trong vòng tai ương...
Cuộc
đời Phùng Quán quả có nhiều bất ngờ thú vị và xúc động. Chuyện bà Nguyễn Thị
Nhủ ở Hải Thôn, Sầm Sơn, Thanh Hóa mà Phùng Quán viết trong hồi
ký "Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào" và những thực tế
mà Thu Dịu cung cấp, đã nói một điều hệ trọng: Đây chắc chắn là mối tình đầu,
một mối tình sâu nặng của Phùng Quán trong đời lính của mình. Mới hay, với
Phùng Quán hiện thực cuộc đời mình còn ly kỳ hơn cả hư cấu!
----------
Nguồn: BẤT NGỜ MỐI
TÌNH ĐẦU CỦA PHÙNG QUÁNl
Tác
giả: Hoàng Việt Hằng
NHÀ VĂN PHÙNG QUÁN:
CÂU CHUYỆN
NỢ RƯỢU ĐỘC NHẤT VÔ
NHỊ
Khoảng hơn 20 năm về trước, nhà
văn Phùng Quán sống ở bên một cái chòi sát ngay mép nước Hồ Tây. Một buổi sớm
tôi đến thăm anh, anh đang thả con cá chép vào bể cá mép cổng nhà. Theo anh tự
nhận định về mình thì “Anh là người sát cá em ạ, cứ
ngửi hơi nước anh biết là hôm nay cá mè hoa nổi, cá mè hoa thì phải xiên, chỉ
có cá chép mới cắn câu thôi”.
Anh Quán bảo chỉ cần sớm ra ngửi hơi nước Hồ Tây thì cầm
chiếc lao đi, lao được chú cá mè hoa, hoặc buông câu con trắm cỏ đủ luộc cho
bạn uống rượu là hôm đó thắng lợi. Bạn anh rất đông nên nhà văn Phùng Quán hay
nợ tiền rượu. Bà chủ quán lại có cách ghi nợ rượu của nhà văn Phùng Quán rất
đặc biệt: Nếu mua 1 xị rượu tức là (1/4 chai) là dấu trừ (-); hai xị (tức nửa
lít) là dấu cộng (+), nếu 1 lít thì ký hiệu là 2 dấu cộng; cứ thế tính tiền trả
nợ.
Một lần anh Phùng Quán đi mua rượu, bà chủ quán nhắc đã
nhiều dấu cộng rồi mà chưa thấy bác thanh toán tiền rượu. Anh Phùng Quán lại
khất vì nhuận bút quá chậm, mà hàng ngày bạn đến chơi lại đông hơn, khổ thế. Bà
chủ quán vẫn vui vẻ cho Phùng Quán nợ tiếp.
Không hiểu sao, có một lần đến chơi khác biệt là một người
bạn lính bộ đội đặc công, ông ta nghe được chuyện ghi nợ rượu của nhà văn Phùng
Quán, nghe xong ông ta lặng lẽ xin phép về sớm. Sáng hôm sau, bà chủ quán rượu
khóc bù lu bù loa gọi bác Quán ra cửa than thở. Đứa nào đã bóc hết dấu cộng,
trừ trên vỏ thân cây xà cừ rồi, giờ bà biết tính tiền rượu ra sao để đòi ông
Phùng Quán đây?
Chả lẽ bác Quán xóa nợ kiểu này sao? Nghe xong anh Phùng
Quán điềm tĩnh bảo: “Chị ơi, chị đừng lo, tôi sẽ trả hết số nợ rượu của
chị, chị đừng khóc nữa. Tôi hứa. Chị tính bao nhiêu tôi cũng trả hết trả đủ”.
Hai hôm sau anh nhận được nhuận bút bài viết cho số Tết ở
một tờ báo trong Sài Gòn, nhuận bút trả khá cao. Anh Phùng Quán đem nhuận bút
trả hết tiền rượu mà bà chủ quán ước chừng. Xem ra số ước chừng đó còn nhiều
hơn số rượu nợ thực mà Phùng Quán đã mua.
Rút kinh nghiệm từ đó, bà chủ quán rượu vẫn cho Phùng Quán
ghi sổ nợ rượu kiểu đánh dấu nợ cộng trừ, nhưng ghi vào sổ sách đàng hoàng. Bà
chả dại gì mà ghi sổ nợ trên vỏ thân cây xà cừ nữa.
Lại một cái tết nữa qua đi, đúng lúc nhà văn Phùng Quán
đông bạn nhà thơ đến chơi, bà chủ quán đem cả lít rượu sang mừng tuổi bác Quán,
mừng tuổi luôn cả hai dấu cộng của ký hiệu nợ rượu cũ. Đầu năm mới mà mừng tuổi
rượu, nhà văn Phùng Quán vui lắm, coi như là hên.
Về sau người lính đặc công bạn ông còn đến thăm nhà văn
Phùng Quán một lần nữa. Ông ta cũng không nghe thấy Phùng Quán trách cứ câu gì,
không thấy nhắc lại chuyện cũ mà chỉ thấy ông ngồi rang thính, tính trời tối
lại câu con cá thả vào bể chơi, bạn đến nhà lại luộc cá uống rượu. Anh chỉ kể
những câu chuyện về cá và thường để phần kết câu chuyện bỏ ngỏ cho bạn đến chơi
nhà muốn nghĩ gì thì nghĩ.
Đã có lần anh Quán khoe với tôi: “Số anh nếu anh chỉ cần
ở nhà là rất hay có lộc văn chương, lộc ất ơ mà em. Hôm nọ anh đang ngồi ăn
nhẹ, thấy có người hỏi thăm bác Quán có nhà không. Anh đáp: có tôi. Thấy anh ăn
cơm nguội, ông khách trố mắt nhìn, không tin Phùng Quán lại vét cơm nguội ăn
ngon lành thế. Rồi ông khách mang nhuận bút cho anh in ở chỗ nào chả rõ ở bên
nước ngoài, bài thơ nhuận bút những 100 đô la. Trời ơi, bao nhiêu lít rượu em
biết không?”.
Bà chủ quán rượu nghe tin anh có nhuận bút cả trăm đô la
cười như được mùa. Chả là nếu có tiền thì việc đầu tiên Phùng Quán nghĩ đến là
mua rượu thết bạn. Cá thì có sẵn ở hồ. Nhiều tay bảo vệ Hồ Tây cũng vẫn biết
anh nghèo nên hay tảng lờ đi để cho anh kiếm cá đãi bạn. Hồ Tây chỉ nghe nước
dềnh lên, nghe nước thở là Phùng Quán biết hôm nay có cá nổi. Hôm nào động
trời, anh còn biết đi câu tôm, đi kéo vó tôm. Không ai giỏi hơn Phùng Quán việc
câu cá, xiên cá, vớt tôm và làm món cá luộc thết đãi bạn.
Bạn văn mừng tuổi anh nhiều món quà, Phùng Quán không để
tâm. Nhưng với anh, cái tết bà chủ quán mừng tuổi rượu thì anh gọi bà chủ quán
là ân nhân. Ân nhân rượu.
Tôi cũng nghe nói khi anh mất, bà chủ quán rượu đến phúng
nhà văn rượu, và khóc thương anh tài hoa mà sao số lại khổ thế.
Ôi nhớ sao những dấu cộng, dấu trừ và sổ nợ trên vỏ một
thân cây xà cừ già ở một góc phố Hồ Tây, Hà Nội.
Chỉ có một Phùng Quán mới có kiểu nợ rượu độc đáo này thôi,
và bạn biết không, tôi là người không biết uống rượu, nhưng mỗi lần nhớ đến
Phùng Quán lại nhớ đến ngày động trời, ngày cá nổi, và là ngày Phùng Quán đi
xiên cá mè hoa, đi câu cá chép, nhẩn nha luộc cá uống rượu đãi bạn. Cách đãi
rượu của Phùng Quán cũng lạ, chỉ riêng với nhà thơ Tạ Vũ thì đến chơi với anh
xong, lần nào anh cũng dúi cho Tạ Vũ mấy đồng bạc: “Để em đi xích
lô hay về bằng xe ôm, kẻo em uống rượu say ngã vào đâu thì khổ thân”. Tình
bạn văn chương mà anh cư xử với bạn bè cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ, ấm áp và ân
tình. Nhớ đến nỗi khi viết đến những dòng chữ này thấy cay cay ở đuôi mắt, lòng
lại ngập một nỗi da diết mênh mông.
----------
Nguồn:
NHÀ VĂN PHÙNG
QUÁN: CÂU CHUYỆN NỢ RƯỢU ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ/
Tác
giả: Trần Mạnh Hảo
PHÙNG QUÁN THÈM
ĐƯỢC LÀM NGƯỜI
Sau vụ “Nhân Văn giai
phẩm” (1955-1957), Phùng Quán (1932-1995) bị đuổi khỏi quân đội, đuổi khỏi
Hội Nhà Văn, bị kiểm điểm quy tội đại phản động vì dám viết bài thơ “Lời mẹ dặn” in trên
báo “Nhân Văn” năm 1956 và bài thơ “Chống tham ô lãng phí” viết năm 1957 cũng in trên
báo “Nhân Văn”; cả gan dám quần tam tụ ngũ với bọn “đại phản động, đám chống đảng dòi bọ xấu xa,
đám hút xách, đĩ điếm gián điệp cho Mỹ Diệm” (lời thóa mạ của báo
“Nhân Dân”) gồm: Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Dần, Lê
Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Đức Thảo… Xin chép ra đây tên của “đám phản động chống đảng”:
Một số văn nghệ sĩ tham gia phong
trào “Nhân Văn giai phẩm”, hoặc không tham gia nhưng từng viết bài đăng
trên báo của phong trào này [8]
• Hoàng Yến
• Huy Phương
• Hữu Loan
• Hữu Thung
• Lê Đại Thanh
• Lê Đạt
• Nguyễn Bính
• Nguyễn Hữu Đang
• Nguyễn Mạnh Tường
• Nguyễn Thành Long
• Nguyễn Tuân
• Bùi Xuân Phái
• Cao Xuân Huy
• Chu Ngọc
• Đào Duy Anh
• Đặng Đình Hưng
• Đỗ Đức Dục
• Hoàng Cầm
• Hoàng Công Khanh
• Hoàng Huế
• Hoàng Tích Linh
• Hoàng Tố Nguyên
• Nguyễn Văn Tý
• Như Mai
• Phan Khôi
• Phan Vũ
• Phùng Cung
• Phùng Quán
• Quang Dũng
• Sĩ Ngọc
• Thanh Bình
• Thụy An
• Trần Công
• Trần Dần
• Trần Duy
• Trần Đức Thảo
• Trần Lê Văn
• Trần Thiếu Bảo
• Trần Thịnh
• Trương Tửu
• Tử Phác
• Văn Cao
• Vĩnh Mai
• Xuân Sách
• Yến Lan
Nhiều văn nghệ sĩ
phản đối nhân văn giai phẩm, viết bài “đánh” phong trào “Nhân
văn giai phẩm”:
• Chính Hữu
• Đặng Thai Mai
• Đoàn Giỏi
• Hằng Phương
• Hoài Thanh
• Hoàng Trung Thông
• Hồ Đắc Di
• Hồng Cương
• Huy Cận
• Lương Xuân Nhị
• Ngụy Như Kontum
• Nguyễn Công Hoan
• Nguyễn Đình Thi
• Nguyễn Huy Tưởng
• Nguyễn Lân
• Nguyễn Văn Bổng
• Phạm Huy Thông
• Tố Hữu
• Trần Hữu Tước
• Vũ Đức Phúc
• Xuân Diệu
• ... Nhiều người khác
Trong tập tài liệu “Bọn Nhân
Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận” in tháng 6/1959 tại Hà Nội đã tập hợp
bài viết lên án phong trào của 83 văn nghệ sỹ, với những tên tuổi như: Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy
Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di,
Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương
Xuân Nhị...
Khi bị đuổi ra khỏi ngôi nhà số 4
Lý Nam Đế, trụ sở của tạp chí “Văn nghệ quân đội” bây giờ, Phùng Quán
đến ngồi bên một gốc cây ở đường Phùng Hưng hai tiếng đồng hồ. Ông không biết
về đâu, ngủ đâu, ăn ở đâu vì không có gia đình bà con họ hàng. Phùng Quán bơ
vơ, lẩm bẩm: chỉ còn nước đi ăn mày…
Chú ruột Phùng Quán (tên hoạt
động cách mạng là Nguyễn Vạn) đang là cán bộ cao cấp ở ngay Hà Nội đã từ ông vì
tội chống đảng “nhân văn giai phẩm”; cậu họ là Tố Hữu đang là hung
thần đánh “Nhân văn giai phẩm”…
Phùng Quán tìm tới công viên tạm
trú suốt một tuần thì bạn bè tìm được ông. Lúc đó, ông mới 26 tuổi, sức dài vai
rộng, đi ăn mày, ai cho? Vả lại, đi ăn mày là nói xấu đảng, rằng chế độ tốt đẹp
thế này mà mày đi ăn mày là sao?
Đêm ngủ công viên, mưa lạnh, ướt
như chuột lột, Phùng Quán thèm được đi tù. Đi tù còn có chỗ ngủ, chỗ ăn… Đi tù
chính là thiên đường trong mơ của Phùng Quán lúc đó. Khi đuổi ông ra khỏi cơ
quan Văn nghệ quân đội, người công an bảo: đi đi, đi mà tự lo lấy cuộc sống,
đảng tha bắn, tha tù cho mày vì mày là con liệt sĩ! Cấm mày đi ăn mày, ăn mày
là tội nói xấu đảng nghe chưa?
Cha Phùng Quán là cụ Phùng Văn
Nguyện một trí thức yêu nước chống Pháp bị Pháp giết trong lao tù Đà Nẵng năm
1932. Mẹ ông là Công Tằng Tôn Nữ Thị Tứ ở vậy thờ chồng nuôi con.
Phùng Quán đi đâu cũng có công an
theo dõi. Đảng vẫn nhớ ông, ban cho ông đặc ân là liên tục được đi cải tạo lao
động suốt 20 năm ở nhiều tỉnh như Thái Bình, Thanh Hóa, Việt Trì, Thái Nguyên…
Mà đi cải tạo lao động theo Phùng Quán nói, còn khổ hơn ở tù…
“Cải tạo lao động” là một
cách ở tù mãn đời, tuy không có án nhưng với “tội nhân văn giai
phẩm” Phùng Quán đã bị loại ra khỏi xã hội loài người.
Từ nhà tù trá hình của cộng sản,
Phùng Quán bước vào một nhà tù ngọt ngào khác có tên là tình yêu. Mối tình
Phùng Quán - Vũ Thị Bội Trâm (cùng sinh năm 1932) yêu nhau trước khi Phùng Quán
bị nạn - là một mối tình kỳ lạ, bi kịch, hạnh phúc và đau thương là một.
Cô giáo dạy văn cấp 3 trường Chu
Văn An (trường Bưởi xưa) Vũ Thị Bội Trâm xinh đẹp, con nhà gia giáo,
lấy ai chẳng lấy, điên mới đòi lấy tên đại phản động “nhân văn” chống
đảng Phùng Quán. Bố mẹ, anh chị em họ hàng của chị Bội Trâm cấm chị yêu và lấy
Phùng Quán, một gã bị xã hội coi không phải là người.
Sao mày lại lấy cái thằng trên răng dưới cát-tút, không nhà cửa, không
nghề nghiệp, không lương lậu, không có đến một bộ áo quần sạch sẽ để mặc, liên
tục bị đi cải tạo lao động, cái thằng phản động chống đảng thì thà lấy chó còn
hơn. Mẹ chị Bội Trâm bảo hàng xóm nói thế. Chị Trâm đòi
tự tử. Anh chị Quán - Trâm có lúc tính ra cầu Long Biên cùng nhảy xuống sông
tìm lối thoát…
Nhưng Phùng Quán không dám tự tử
cùng bạn tình Bội Trâm vì anh hi vọng có ngày về gặp má còn đang ở Huế. Mẹ anh
chỉ có mình anh. Năm bố anh bị Pháp giết trong tù Đà Nẵng, mẹ sinh anh, nuôi
anh đến 14 tuổi thì anh trốn nhà theo Việt Minh đi chống Pháp năm 1945. Ra tới
cầu Long Biên quyết nhảy sông cùng chết với bạn tình Bội Trâm thì anh Quán nghe
tiếng má gọi Bê ơi, Quán ơi trong tai mình. Anh toát mồ hôi, bàn với
người yêu quay lại sống tiếp vì má, chờ về gặp má. Năm 1970 má anh đã mất tại
Huế mà không bao giờ được gặp lại người con trai duy nhất.
Trước ngày phát hiện bị xơ gan cổ
trướng, tôi (Trần Mạnh Hảo) ra Hà Nội. Anh Quán rủ đến chòi ngắm sóng của anh
và chị Bội Trâm ăn cơm uống rượu, thức với nhau một đêm cùng đọc thơ, tâm sự…
Đêm ấy, chỉ có hai anh em uống
say và đọc thơ cho nhau nghe. Có khi cả hai cùng nói, cùng đọc thơ, chẳng cần ai
nghe, cứ uống, cứ đọc. Anh Quán đọc bài “Lời Mẹ dặn”, “Đêm đọc
thơ Đỗ Phủ cho vợ nghe”…Anh Quán vừa đọc vừa khóc. Anh chỉ khóc với
thơ, khóc với tình yêu thôi… Công nhận, giọng đọc thơ bằng tiếng Huế của anh
Quán hay tuyệt, có thể là người đọc thơ hay nhất nước…
…Hảo à, mình có bạn thân nhất là Xuân Đài nhưng chưa hề kể những điều này
với Đài đâu! Mình chưa được sống Hảo ạ. Mới là thí dụ sống, thí dụ yêu. Năm nay
64 tuổi đời, mình chỉ thèm nhất là được làm người… Có ai coi mình là người đâu,
trừ Bội Trâm và mấy thằng bạn như Xuân Đài, Tuân Nguyễn và mấy ông anh như Văn
Cao, Phan Khôi, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt…
Mình yêu Bội Trâm và cô ấy yêu mình kinh khủng lắm. Mình đã nhốt cô ấy
vào một nhà tù dã man nhất có tên là Phùng Quán…
Mình sống chui cả đời, lấy vợ chui, đám cưới chui, nghĩ chui, viết chui,
in chui. May mà mình có bà mẹ nuôi tên là Tưởng Dơi ở Nghi Tàm.
Mình và Trâm cưới nhau chui ở nhà mẹ nuôi, chỉ có bốn người dự là Xuân
Đài, vợ chồng Tạ Vũ - Nguyễn Thị Điều, bạn Vũ Trung. Đêm tân hôn động phòng
không có vì Tạ Vũ say, nằm ngủ cùng với cô Điều trên chiếc giường tre mẹ nuôi
dành cho cô dâu chú rể…
Nói ra chuyện này, chắc anh Quán
đã say lắm: lấy vợ cả tuần chưa động
phòng. Có phòng đâu mà động. Mẹ Tưởng Dơi nằm dưới bếp, cách vài bước là chiếc
giường tre mẹ dành cho con nuôi và con dâu mới.
Chỉ cần ngồi lên là chiếc giường tre cọt kẹt là mẹ nuôi thức. Trong tâm
lý sợ sệt và ức chế tận cùng, nó không cương nổi Hảo ạ… mần răng được. Lấy vợ
mà vợ vẫn ở nhà mẹ đẻ, mình ở vất vưởng lúc công viên, lúc tá túc nhà bạn bè,
lúc về nhà mẹ nuôi, còn có chỗ nào mà làm tình với làm tội nhau Hảo ơi…
Lấy vợ cả tháng mà Bội Trâm vẫn còn trinh trắng, mình buồn lắm. Chúng
mình hẹn nhau ngoài công viên. Ngồi trong bóng cây và bụi rậm công viên che
chắn lúc 9 giờ tối, mình hôn cô ấy và nó lên bình thường. Mình đè vợ ra động
phòng ngay trên cỏ công viên… May mà công an không bắt được. Mình đã được làm
người chưa Hảo?
Suốt 20 năm, chúng mình thi thoảng vẫn hẹn hò ngoài công viên, giải quyết
chuyện vợ chồng trên cỏ, vậy mà cũng sinh được cháu Quyên con gái và cháu Quân
con trai…
Đến khi vợ được trường Chu Văn An cấp cho chỗ ở năm 1981 là cái chái nhà
kho thì mình lại phải lên Thái Nguyên cải tạo lao động ba năm…
Anh Quán kể, ngày nào anh cũng
quỳ lạy Hồ Tây, hồ Trúc Bạch đã cứu gia đình anh khỏi chết đói. Phùng Quán là
vua câu cá trộm. Anh đã câu được nhiều chục tấn cá bán đi mua gạo mua sữa nuôi
hai con. Suốt 20 năm câu cá trộm, nhiều lần anh đã bị bảo vệ bắt đánh hoặc giải
về đồn công an…Anh nổi tiếng là “cá trộm, văn chui, rượu chịu”…
Suốt 30 năm bị cấm làm người, cấm
sống, cấm nghĩ, cấm viết, cấm hạnh phúc, cấm in ấn… anh Quán đã phải nhờ người
khác đứng tên tác phẩm của mình. Truyện anh viết đứng tên em vợ anh là anh Vũ
Quang Khải; hoặc đứng tên Đào Phương, Nguyễn Huy… thì mới được in, mới có nhuận
bút kiếm cháo nuôi con. Truyện anh dự thi về Liên Xô mang tên Vũ Trọng Khải
được giải thưởng là cái xe đạp Liên Xô anh mới có xe đạp đi. Anh viết hàng chục
truyện ngắn mang tên người khác, ăn chia nhuận bút 50/ 50… Có một người đã đứng
tên cho Phùng Quán viết 70 cuốn truyện tranh in ra đàng hoàng là nhà thơ Thanh
Tịnh đồng hương Huế, thủ trưởng cũ, mà ông Thanh Tịnh không lấy một đồng nhuận
bút nào của anh. Chuyện này hồi đó mà lộ ra thì không chỉ Phùng Quán mà đại tá
Thanh Tịnh chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội cũng phải đi tù vì tội nối giáo
cho giặc.
Bằng tiền câu cá trộm, viết văn
chui suốt 30 năm, Phùng Quán đã góp với chị Bội Trâm nuôi sống mình và gia đình
trong hoàn cảnh còn khổ hơn cả ở tù.
Chị Bội Trâm yêu Phùng Quán như
người đàn bà yêu đàn ông, yêu và lấy anh để anh khỏi tự tử, yêu như nô lệ yêu
chủ nô, yêu vô điều kiện, vượt lên mọi ghen tuông thường tình. Chị Bội Trâm
biết hết các nhân tình của anh như Hương Quân, Hà Khánh Linh… Vẫn mời các tình
nhân của chồng đến nhà chơi, cùng đi chợ nấu ăn, chị chị em em vui vẻ. In ra
cuốn “Trăng Hoàng cung” Phùng
Quán viết trong cơn điên tình với nữ văn sĩ Hà Khánh Linh, Bội Trâm còn gửi
sách vào Huế cuốn này tặng Hà Khánh Linh với lời đề tặng: “Thân yêu tặng em Hà Khánh Linh, nàng thơ của
anh Quán, là hứng khởi cuối đời cho anh ấy làm thơ. Cám ơn em”…
Đọc lại cuốn sổ tay nhòe chữ của
chồng, chị Bội Trâm sau khi anh Quán mất, đã biết được mối tình đầu cháy bỏng
của chồng với thiếu nữ tên Nhủ năm 1955 ở Sầm Sơn. Chị Bội Trâm bèn nhờ người
tìm tới tay bà Nhủ còn sống ở Sầm Sơn, tặng người tình xưa của chồng toàn bộ
sách của anh, với lời đề tặng: Cám
ơn chị Nhủ mối tình đầu của anh Quán, gợi hứng cho anh viết cuốn tiểu thuyết
“Vượt Côn đảo” năm 1955. Chị Nhủ gửi tặng chị Bội Trâm 5 con mực khô to
nhất với lời nhắn: em vẫn còn yêu
anh Phùng Quán.
20 tuổi thành công vang dội với
tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo”, được
giải thưởng của Hội Văn Nghệ Việt Nam năm 1955-1957 cùng với Tố Hữu, Tô Hoài,
Nguyên Ngọc… Phùng Quán được báo chí của đảng cho lên voi với mấy chục bài báo
tôn vinh, khen ngợi là nhà văn của đảng, nhà văn nhân dân, là hạt giống đỏ cách
mạng vinh quang…
Đùng một cái, vì hai bài
thơ “Lời mẹ dặn” và “Chống tham ô lãng phí”, Phùng Quán
đang trên lưng voi của đảng bèn ngã xuống hàng chó đẻ của địch, kẻ phản động
chống đảng bẩn thỉu khả ố nhất, xấu xa ghê tởm nhất…
Xin in lại hai bài thơ này:
LỜI MẸ DẶN
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
----------
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
*
PHÙNG QUÁN
CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ
Tôi đã đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt
Tôi đã gặp
Những bà mẹ quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu ròng ròng
Bởi đồn giặc, trồng ngô trỉa lúa...
Tôi đã đi qua
Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng
Nước biển dâng cao ướp muối các cánh đồng
Hai mùa rồi, lúa không có một bông
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ;
Tôi đã gặp
Những em thơ còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu
Cơm thòm thèm độn cám và rau
Mới tháng ba đã ngóng mau ra Tết!
Để được ăn no có thịt
Một ngày... một ngày...
Tôi đã đi giữa Hà Nội
Những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm
Chị em công nhân đổ thùng
Run lẩy bẩy chui hầm xí tối
Vác những thùng phân...
Thuê một vạn một thùng
Mấy ai dám vác ?
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con...
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của nhân dân lao động
Đang buộc bụng, thắt lưng để sống
Để dựng xây, kiến thiết nước nhà
Để yêu thương, nuôi nấng chúng ta
Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm từ bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ trang kim vàng mã
dán lên quân trang đẫm mồ hôi và máu tươi Cách Mạng!
Như công nhân
Tôi quyết đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Vào lũ người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Các đồng chí ơi
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem
“Đài xem lễ” họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng bỏ dở
Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!
Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “Đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước đêm nay không đếm hết người nghèo
Thiếu cơm thiếu áo...
Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu
Đảng đã phê bình trên báo
Còn bao tên chưa ai biết ai hay?
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy...
Chúng nảy nòi, sinh sôi như dòi bọ!
Khắp đất nước đâu đâu chẳng có!
Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả
E phải nghìn số báo Nhân dân!
Tôi đã dự những phiên toà xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói
Những mẹ già, em trai, em gái...
Còng lưng rỏ mát lấn vành đai!
Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết.
Đảng cần phải lập những đội quân trừ diệt
Có tôi!
Đi trong hàng ngũ tiên phong.
*
PHÙNG QUÁN
Phùng Quán in cả hai bài trên
báo “Nhân Văn” năm 1956 và 1957
Hoàng Văn Hoan, lúc ấy giống như
vai trò phó vương, là tay mặt của ông Hồ, dưới bút danh “Trúc Chi” đã
viết một bài trên báo “Nhân Dân” chửi rủa, lên án, thóa mạ Phùng Quán hết lời.
Tiếp đó, hàng mấy chục bài báo của đám văn nô bồi bút nguyền rủa đề nghị xử bắn
tên “biểu tượng hai mặt” đểu giả phản động Phùng Quán.
“Lời mẹ dặn” của Phùng Quán là một bài thơ hay, không hề có
ý xỏ xiên nói xấu đảng. Bài thơ chỉ khuyên con người sống tử tế, thật thà: “Yêu thì nói là yêu / Ghét thì nói là ghét” sao
lại quy lên phản động chống đảng là sao ?
Hóa ra làm người thật thà tử tế
là trái ý đảng, là phản động à? Hèn gì ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố
ông nghỉ hưu để làm người tử tế. Cho nên ngày nay, bói không còn ai tử tế trong
hàng ngũ cầm quyền cũng vì đảng từng cấm nói thật, chỉ thích bọn nói điêu, bọn
nịnh nên đất nước mới thê thảm dường này!
Còn bài “Chống tham ô lãng phí” là bài
yêu đảng tận cùng, yêu vượt chỉ tiêu đảng giao, sao đảng lại bắt tội Phùng Quán
mà đầy đọa cả đời ông, đầy đọa vợ con ông đến dường này…?
… Đêm Phùng Quán mở lòng với tôi
trên “Chòi ngắm sóng” cuối năm 1994 đầu năm 1995 là lần cuối cùng
chúng tôi gặp nhau…
Hảo ơi, đời này mình chỉ thèm được làm người. Bội Trâm ơi, anh làm khổ
em, Quyên và Quân ơi, bố làm khổ hai con. Không ai cho bố làm người, không ai
cho anh làm người. Anh thèm lắm, thèm được làm người với Bội Trâm chỉ một ngày,
có một phòng riêng cho đêm tân hôn, không phải động phòng ngoài công viên như
cầm thú…
Hảo ơi, Quán chỉ thèm làm người.
Phùng Quán khóc… Đêm ấy gió mùa đông bắc thổi, như tiếng hú đòi được sống, đòi
quyền làm người của âm binh ngàn xưa đói khổ vật vờ ngủ đường ngủ bãi kéo về
lôi Phùng Quán đi…
----------
Nguồn:
PHÙNG QUÁN
THÈM ĐƯỢC LÀM NGƯỜI0
Tác
giả: Trần Minh
KHÓC PHÙNG QUÁN
Đêm khuya, chuông điện thoại reo
có vẻ giục giã... Tôi cầm ống nghe. Từ đầu dây, tiếng nói hồi hộp của anh bạn
từ Hoa Kỳ vang lên: "Anh ạ, Phùng
Quán đã qua đời!" Tim tôi thắt lại, tâm trí bàng hoàng, thẫn thờ...
Một lúc sau, tôi bỗng thốt lên: "Phùng
Quán ơi! Sau bao nhiêu bão táp của cuộc đời mà anh phải hứng chịu, cuối cùng
thì anh đã đứng vững!" Đúng thế, anh đã đứng vững!
Phùng Quán ơi! Cách đây hơn nửa
năm, tôi mừng xiết bao khi được đọc bài anh viết hồi tháng 12.1992, kể lại
chuyến anh cưỡi xe đạp đường trường phóng về đến tận Thái Bình để tìm thăm
Nguyễn Hữu Đang, và bằng những nét chấm phá tinh tế anh đã mô tả cuộc đời của
người trưởng ban tổ chức "Ngày Độc lập" (2.9.45) sau khi mãn án 15
năm tù ngồi dưới chế độ gọi là "xã hội chủ nghĩa" vì "tội gián
điệp" (!) trong vụ án văn chương quái gở nhất lịch sử nước nhà, được mệnh
danh là "vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm". Tôi rất mừng vì nghĩ rằng anh
còn "chân cứng đá mềm", còn mạnh khỏe lắm cả về thể chất lẫn tinh
thần...
Và cũng cách đây vài tháng thôi,
tôi được xem bản tài liệu "mật" của Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương
Đảng Cộng Sản Việt Nam để thanh minh trước đảng viên về "vụ án xét lại -
chống Đảng", về việc bắt Nguyễn Hộ, v.v... thì tôi thấy tên anh
"được" liệt kê vào loại "một số người trong vụ Nhân Văn - Giai
Phẩm còn có tư tưởng chống đối" (nguyên văn). Người ta viết: "... Đầu năm 1994, Đỗ Trung Hiếu đã tổ chức cho
Phùng Quán từ Hà Nội vào gặp gỡ ở nhà riêng, trong đó có cả Nguyễn Hộ, Tạ Bá
Tòng, Hồ Hiếu, Bùi Minh Quốc để nghe Phùng Quán trình bày...", cố
nhiên, theo họ là những tư tưởng "chống
đối, đả kích Đảng cộng sản Việt Nam" (những chữ trong ngoặc kép là
nguyên văn). Đọc tài liệu đó, tôi vừa lo cho anh và tất của các anh chị em
khác, lại vừa mừng cho anh đã có một chuyến đi và những cuộc gặp gỡ chắc là thú
vị và bổ ích lắm.
Thế mà hôm nay anh không còn nữa!
Đau đớn thật! Song cuộc đời "sớm còn
tối mất", sống chết là lẽ thường. Điều quan trọng là sống thế nào,
chết thế nào, phải không anh?
Nghĩ đến anh, suốt đêm tôi cứ
trằn trọc mãi, nước mắt giàn giụa, đọc đi đọc lại từ đầu đến cuối bài thơ
"Lời Mẹ Dặn" của anh
đăng trên tờ báo "Văn" số 21 ngày 17.9.1957:
LỜI MẸ DẶN
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
----------
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
*
PHÙNG QUÁN
Tôi còn nhớ rõ hồi đó, khi bài
này được đăng báo, đám "bồi bút" lồng lộn, nhao nhao la ó: "Bọn Nhân Văn ngoan cố lại ngóc đầu dậy"
(toàn là từ ngữ cải cách ruộng đất!). Còn Tố Hữu, trùm "văn nghệ xã hội
chủ nghĩa", cậu ruột nhà văn, thì nói: "Cái thằng đó chỉ huênh hoang, khoác lác thế thôi". Riêng tôi
thì coi bài thơ của anh là "Bản
tuyên ngôn cuộc đời nhà văn Phùng Quán", định rõ cách sống cũng như
phương châm sáng tác của nhà văn. Tôi luôn luôn thầm theo dõi bước chân anh...
"đi dây" trong cái chế độ độc tài, đảng trị, cực kỳ khắc nghiệt, xem
anh có "đi trọn đời trên con đường
chân thật" được không và thầm cầu mong sao để "sét nổ trên đầu không xô" anh
"ngã". Cho nên khi thấy anh
"đi trọn đời" rồi thì câu
đầu tiên tôi thốt lên là: "...Cuối
cùng thì anh đã đứng vững!" Đó là tiếng reo ca ngợi "chiến tích" vẻ vang của anh!
Phùng Quán ơi! Cha ông ta từ xưa
đã nói "cái quan luận định",
nghĩa là sau khi đậy nắp quan tài rồi thì lời bàn hay dở về một người mới xác
định được. Bây giờ thì anh đã đi trọn cuộc đời rồi mà không đường mật, công
danh, tù tội, đọa đày nào có thể làm anh khuất phục, có thể làm anh bẻ cong
ngòi bút, viết lên những điều không chân thật. Bạo lực, bão táp, sấm sét không
thể nào quật ngã được anh và anh đã đứng vững, ngẩng cao đầu để nêu tấm gương
sáng muôn đời cho trí thức, văn nghệ sĩ, cho mỗi người Việt Nam noi theo để
sống "chân thật trọn đời",
không quỳ gối, uốn lưỡi ca ngợi bọn độc tài khoác áo dân chủ, bọn "tư bản
đỏ" đội lốt công nhân, vô sản, bọn cường hào mới mạo xưng nông dân lao
động. Bài thơ anh viết đến nay đã 38 năm trời, những điều tâm niệm của anh ghi
trong bài thơ đó anh đã làm đúng, hoàn toàn đúng, không mảy may "huênh hoang, khoác lác". "Lời Mẹ Dặn" thực sự đã chỉ
phương hướng cho cuộc đời của anh, cho lẽ sống của anh: chân thật trọn đời. Điều
đó làm tên tuổi anh thêm vinh quang sáng chói, đồng thời làm hởi lòng hởi dạ
cho những ai đang đấu tranh để xóa bỏ chế độ cực quyền, xây dựng chế độ dân chủ
đích thực, trong đó mọi quyền tự do, nhân quyền và dân quyền được hoàn toàn bảo
đảm.
Phùng Quán ơi! Anh với tôi là
người cùng trên một chiến tuyến dân chủ, dù chúng ta chỉ đấu tranh bằng ngòi
bút, lời nói mà thôi; chúng ta là đồng hương, lại cùng chung số phận đau
thương, đầy oan trái; trong giờ phút này, tôi thắp một nén hương, thành kính
hướng toàn tâm toàn ý đến anh để cầu nguyện cho hương linh của anh sớm được
siêu thoát.
--------------
Nguồn: TRẦN MINH
KHÓC PHÙNG QUÁNl
Tác
giả: Nguyễn Mạnh Trinh
PHÙNG QUÁN VỊN VÀO
THƠ MÀ ĐỨNG DẬY
Phùng Quán, một khuôn mẫu đời
trong một xã hội nhiều biến động. Thuở nhỏ, trải qua “Tuổi thơ dữ dội”,
viết “Vượt Côn Ðảo,” tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tiếp
theo là chuỗi ngày trưởng thành gian nan, mà ông thường tự kể “ba mươi
năm, cá trộm, rượu chịu, văn chui.” Bị cấm viết mà vẫn nặng nghiệp cầm
bút, viết bằng hàng chục bút hiệu, viết để mà cố gắng sống còn. Cái đòn thù cơm
áo mà Ðảng và những tay lãnh đạo văn nghệ tuy độc hại nhưng không làm sờn lòng.
Làm thơ, viết văn, như một cách thế trả nợ đời. Và, lúc nào, cũng thẳng lưng:
“Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Ðường mật công danh không làm
ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi
ngã…”
Những lúc buồn nản, hoặc tâm tư
bị nhiều xáo trộn của đời sống, tôi lại nghĩ đến câu thơ Phùng Quán:
“Có những phút ngã lòng.
Tôi vịn câu thơ và đứng dậy…”
Không biết ngôn ngữ thi ca có
chất an thần hay không, nhưng lúc ấy, tôi thấy làm thơ hay đọc thơ, đã làm tôi
thoải mái khá nhiều. Thơ như một phương thức buông xả, để thấy mọi chuyện trên
đời sẽ nhỏ bé biết bao so với cái không gian bao la thăm thẳm của thơ và tâm
hồn sẽ nhẹ nhàng triệt tiêu đi cái sức ngàn cân đè nặng. Cứ thử tưởng tượng,
con người sẽ bị bào mòn đến rã rời từ thể xác đến tinh thần biết bao nhiêu với
nhịp sống quay cuồng ào ào đến chóng mặt hiện nay. Một tuần, bắt đầu một ngày
thứ Hai rồi chấm dứt một ngày cuối tuần, vụt qua chớp mắt.Thấm thoát mà hơn hai
mươi năm ở xứ người, ngoảnh lại chỉ là một thoáng. Thơ, với tôi, là khuôn trời
biếc, cho cánh diều bay lên tận trời xanh. Thơ, là cơn gió mát mùa Hạ từ ngoài
khơi thổi về mang theo hương vị của muối biển và rong rêu xa lạ. Có những khi
ngã lòng, có lẽ tôi cũng phải vịn vào những vần lục bát, những câu bảy chữ, tám
chữ thật? Bởi, nếu không có thơ, cuộc sống tôi vô vị xiết bao!…
Yêu thơ, cũng có nhiều người rất
yêu, nhưng có khi, chỉ là thái độ của người “cưỡi ngựa thưởng hoa” mà
thôi. Yêu thơ, để sống chết với thơ như Phùng Quán khá hiếm. Những câu thơ,
viết ra với tâm trạng cực kỳ chân thành với chính mình, không ngờ là mầm mống
cho những tai họa khôn nguôi cho một cuộc đời. Tôi nghĩ đến câu nói của Tố Hữu
khi nói về đứa cháu của mình “Quán nó dại và tôi cũng… dại” lúc
bị mất hết quyền hành và nghĩ lại về những việc làm đã qua.
Vì thơ, mà Phùng Quán bị biết bao
nhiêu đòn thù giáng xuống của một chế độ độc đoán không thích những người có
lòng trung thực.
Thực ra, tôi đọc Phùng Quán không
nhiều. Tiểu thuyết “Vượt Côn Ðảo” tôi chưa được đọc. Chỉ có
vài bài viết trên tạp chí Sông Hương và Cửa Việt, nhưng làm tôi xúc động, như
bài viết về Nguyễn Hữu Ðang hay kể lại cuộc xông đất đầu năm với Tố Hữu. Cũng
như những bài thơ của Nhân Văn Giai Phẩm thuở nào…
Gần đây, tôi đọc “Trăng
Hoàng Cung,” một cuốn sách kỳ lạ trong một tâm trạng cũng khá kỳ lạ.
Cuốn sách được in ở hải ngoại như một cách thổ lộ tâm sự của người trong nước.
Một cuốn sách mỏng nhưng chất chứa nhiều nỗi niềm của một người chịu nhiều dông
bão của cuộc sống.
Tôi nghĩ một cách chủ quan, tác
giả đã viết với tâm đắc của mình. Ông không để ý đến thể loại. Gọi là tùy bút
cũng được, mà thơ văn xuôi cũng không sai. Nhưng rõ rệt một điều, những trang
sách đẫm chất thơ và là những cảm nhận khá sâu sắc và chân thành về nghệ thuật.
Nhân vật, dù chỉ là thi sĩ và nàng thơ, cũng chỉ là những biểu tượng. Có khi,
thi sĩ không phải là Phùng Quán, mà là một khuôn dáng của tổng hợp giữa tưởng
tượng và hiện thực. Và có thể không có thực trên cõi đời này. Còn nàng thơ, có
phảng phất bóng dáng của một tôn nữ miền sông Hương, núi Ngự. Biết đâu, chỉ là
biểu tượng của ý nghĩ tạo hình thành.
Phùng Quán là người đã viết những
câu thơ, của một thời Nhân Văn Giai Phẩm, với tâm huyết dồn lên đầu ngọn bút:
“Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu”
Hoặc, với phong cách của một
chiến sĩ, như lời khai từ của “Trăng Hoàng Cung”:
“Hai mươi mốt tuổi, tôi, người
lính chiến bước thẳng vào làng Văn với cuốn tiểu thuyết đầu tay kể chuyện những
người vượt ngục thất bại. Ngay sau đó tôi được coi là nhà văn. Nhưng với tôi
thơ là tất cả. Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi… tôi dương thơ như ngày nào
ngoài mặt trận dương lưỡi lê đánh giáp lá cà với thói dối trá, đạo đức giả, tệ
nạn quan liêu, lãng phí, bòn rút, ăn cắp của công – tuy ngày đó mới manh nha,
nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm họa to lớn đang rình phục nhân dân tôi…”
Thơ ông viết ra, đã phải trả giá
đắt cho cuộc sống mình. Ba mươi năm của tuổi trẻ thanh xuân sẽ tươi đẹp xiết
bao, nhưng vì án văn tự mà ngược lại thành dẫy đầy những cơn ác mộng. Toàn là
vùi dập đầy ải và dồn đến ngõ đường cùng của kiếp sống. Người cầm bút mà bị bắt
buộc bẻ bút, sinh kế gia đình bị bao vây khiến có lúc ông đã phẫn nộ thốt lên
ông sống được là nhờ văn chui, rượu chịu, cá trộm,… Văn chui bởi vì viết ra ký tên
thật không chỗ nào dám đăng, phải mượn tên người khác để có chút nhuận bút còm
cầm hơi. Rượu chịu, uống để thay cho những cay đắng của cuộc đời, uống dù chẳng
đủ tiền mua. Cá trộm, ở những ao hồ chung quanh thành phố Hà Nội, phải luôn
luôn coi chừng những con mắt rình mò của các “ông” công an.
Sinh kế cùng cực đến thế mà thơ vẫn bay bổng, ăm ắp trong hồn. Thơ như chứa
thành lẫm, thành kho, miên man bất tận. Những nguồn suối, cội sông thi ca dường
muốn hội tụ về biển mẹ bao la. Nhưng cũng có lúc, thơ không làm được nữa. Thơ
dù lao động khổ nhọc vẫn không thành hình. Thi sĩ phải lên rừng đào mạch thơ
giữa thiên nhiên. Sống khổ hạnh, mọi vật dụng giản đơn thô sơ như người tiền sử
ông quyết đi tìm lại chính cuộc sống mình. Bên cạnh suối Linh Nham ồn ào tiếng
nói của thiên nhiên nhưng vắng bặt âm thanh con người, ông một mình một bóng
sống và tìm kiếm. Tự đào một huyệt đá cho mình, nguyện nếu không tìm được thơ
sẽ chôn mình ở đó. Trong ba năm, chỉ làm được một bài thơ duy nhất.
“Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm
Tự mình cất lấy ly rượu uống
Ôi rượu khổ sâm đắng lắm!
Ðắng đến tận cùng nỗi đắng thế
gian
Bạn hữu thân thiết ơi!
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong thơ tôi cứ lẫn nhiều vị
đắng
Chỉ vì
Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
Vừa cạn chén rượu đời
Cất bằng lá khổ sâm…”
Chàng thi sĩ trở về lại xứ Huế để
bắt đầu một cuộc tình. Tình yêu có hai mặt. Bên ngoài là vẻ hào nhoáng lãng
mạn, nhưng bên trong là nỗi đau thăm thẳm của đời thường. Thực tế là cuộc tình
của anh chàng Trương Chi và nàng công chúa Mỵ Nương ngày xưa. Dù chàng thi sĩ
làm thơ nhưng cũng không mang cái nét nghệ sĩ để làm nàng xiêu lòng. Với thi
sĩ, bút đòi mực, mực đòi giấy, giấy đòi thơ, chàng vẫn một mực chân thành với
chính ý nghĩ mình:
“Với nhiều người giấy không kẻ
dòng dễ viết đẹp
Nhưng với tôi
Không có gì đẹp hơn
Viết ngay viết thẳng
Là nhà văn
Tôi yêu tha thiết
Sự ngay thẳng tột cùng
Ngay thẳng thủy chung
Của mỗi dòng chữ viết…”
Làm gì có cuộc tình đẹp giữa hai
người cách biệt như thế. Dù bao nhiêu ghẻ lạnh, dù bao nhiêu đuổi xua, những
bài thơ là chứng từ của cuộc tình đơn phương lãng mạn. Phùng Quán làm thơ như
chàng nghệ sĩ đánh cá ngày xưa mượn tiếng hát để ngỏ thật lòng mình. Nhưng rốt
cuộc chỉ là ảo ảnh tan loãng vào đáy cốc. Thiên đường chỉ là tưởng tượng. Trăng
hoàng cung, như một biểu tượng. Rồi cũng tan loãng hư vô. Vầng trăng mà chàng
thi sĩ tôn thờ đã bị lấm bẩn. Không còn của riêng chàng, mà đã qua tay nhiều
kẻ. Trăng không còn trong huyền thoại và chàng thi sĩ khóc:
“Tôi khóc niềm tin yêu nát tan
Tôi khóc ngai vàng mộng tưởng
Tôi khóc Trăng Hoàng Cung bị lấm
bẩn
Tôi khóc không biết lấy gì để gột
sạch trăng…”
Tôi nghĩ Phùng Quán không chủ tâm
kể một chuyện tình. Mà đó chỉ là một cái cớ. Chẳng lẽ ông viết lại một chuyện
tình như Trương Chi -Mỵ Nương sao? Ông muốn ví von gì với những bài thơ viết không
phải với dụng ý tỏ tình? Những câu thơ như muốn bầy tỏ một ý hướng nào khác hơn
mà thi sĩ muốn bầy tỏ. Không hiểu tôi có nghĩ xa hơn những dòng chữ viết không?
“Trên vực thẳm vô cùng của hạnh
phúc
Tôi bỗng thấy mình đang đứng quá
cheo leo…”
Trăng Hoàng Cung có những nét đẹp
trong sự mâu thuẫn. Những câu thơ rất thực, của một chiến sĩ kiên cường. Nhưng
cũng có những điều lãng mạn của một người nghệ sĩ biết yêu, dám yêu và sống
chết với yêu. Hình như Phùng Quán có ý định viết một trường thi thì phải? Trăng
Hoàng Cung có rất nhiều câu thơ tâm đắc của một đời người cầm bút. Biểu tượng
vầng trăng của Tử Cấm Thành với người đẹp sông Hương kiêu sa có liên hệ gì với
thi ca, với quãng đường nhọc nhằn sáng tạo. Hạnh phúc, có khi là sợi khói mơ
hồ, rồi sẽ tan loãng khi nắng mặt trời lên. Hạnh phúc, có lẽ nào chỉ trong mộng
ảo và chẳng có ở đời thường?
Cho nên tôi cũng chẳng bận tâm
khi gọi cuốn sách này là thơ, tiểu thuyết hay tùy bút. Ngôn ngữ đâu cần tách
bạch như thế. Tôi chỉ biết mình đang lạc lối trong một không gian, thời gian
đầy ắp chất thơ. Và, những ấn tượng mạnh mẽ nhất vẫn là thái độ chân thực với
mình, với người của một nghệ sĩ. Không phải “Trăng Hoàng Cung” chỉ
có hai nhân vật thi sĩ và nàng thơ. Mà còn có chúng ta, những nhân vật của
trường thi cuộc đời đang chia sẻ nỗi niềm với một người luôn băn khoăn tìm cái
đẹp vô cùng miên viễn của nghệ thuật sáng tạo…
--------------
Nguồn: PHÙNG QUÁN
VỊN VÀO THƠ MÀ ĐỨNG DẬY/
Tác
giả: Mặc Lâm
NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN
Phùng Quán sinh tháng 1 năm 1932,
tại xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm 1945, ông tham
gia Vệ quốc quân, sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công
Liên khu IV. Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội
thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam.
Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải
thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Khi phong trào này bị đàn áp Phùng Quán bị kỷ
luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo
ở nhiều nơi.
Cho tới trước thời gian đổi mới
không một tác phẩm nào của Phùng Quán được xuất bản. Mãi tới năm 1988, cuốn
tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội”
của ông mới được xuất bản và nhận giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn
Việt Nam hai năm sau đó.
Phùng Quán không nổi tiếng từ các
tác phẩm văn xuôi mà các bài thơ ông sáng tác trước đó mới thật sự đưa ông lên
đỉnh vinh quang của sự nghiệp cầm bút. Thơ ông khắc khoải một niềm đau của
người trí thức trước những nhố nhăng của chế độ. Từ tham nhũng tiền bạc đến
tham nhũng vị trí quyền lực. Từ ăn cắp, đến giết người nhằm củng cố chiếc ghế
và quyền uy. Phùng Quán lên tiếng mạnh mẽ bằng những lời thơ đầy huyết lệ.
Thơ Phùng Quán không làm dáng.
Ông viết trực diện, khoét sâu, đập mạnh, và vỗ mặt những vấn đề xã hội đang rên
xiết. Ông tuyên chiến với hệ thống văn tự nhà nước khi người cầm cương văn hóa
hèn nhát lại cố hết sức thúc ép người khác hèn theo. Sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm
làm ông nổi tiếng và cũng làm ông kiệt sức. Có điều là, sức càng yếu ông làm
thơ càng mạnh. Hình như thơ là liều thuốc duy nhất nuôi dưỡng ông trong cái
không khí đậm đặc khủng hoảng niềm tin trong giới văn nghệ sĩ miền Bắc. Phùng
Quán viết những bài thơ hoen đẫm mồ hôi của cật lực và mặn chát nước mắt uất ức
của kẻ sĩ Bắc Hà.
Tôi
Khóc
Thơ Phùng Quán nếu được đọc trong
không khí yên ắng của một ban mai êm đềm sẽ bật ra nhiều điều mà khi ồn ào
người đọc khó nhận ra. Những mượt mà thi ca ẩn dấu phía sau cái trần trụi khô
khốc của ngôn ngữ. Đôi khi Phùng Quán tin tưởng một cách thực thà vào người nữ.
Một cách nào đó, ông ôm ấp niềm tin cuối cùng vào người mà ông gọi là “em” người
xứng đáng được ông cậy trông vẫn chỉ là “em”, tiếng em muôn thuở của thi ca:
Tôi ngã nhào trước ngõ nhà em
Ngã chúi mặt…
Miệng môi tôi đầy cát!
Nhưng tôi không buồn rửa mặt
Tôi muốn đi thẳng vào nhà em
Như bao nhiêu lần khác
Ngồi xuống và tôi đọc câu thơ
Câu đầu tiên
Cũng là câu cuối cùng
Tôi đã bị dối lừa…
Ông tái tê thú nhận mình bị lừa
trong cái đêm trăng xanh xao đầy thơ mà ông được nàng thủ thỉ như một bức tranh
thời Phục Hưng. Đẹp mờ ảo trong bối cảnh hoàng cung mộng mị. Phùng Quán viết về
một sự lừa mị điếng người đến khi quay lại với thực tế thì ông phát hiện ra
rằng việc lừa dối này xảy ra hàng ngày trên cái hoàng cung mà ông trọng vọng
thiết tha.
… Em dắt tôi đi
Trên con đường lát những phiến trăng xanh
Ôi những phiến trăng có mùi hoa sứ
Em nói với tôi
Đây là con đường Trung lộ
Xưa chỉ có vua đi
Và đêm nay anh đi…
Trong khoảnh khắc ấy
Tôi bỗng thèm tự sát
Để vĩnh viễn
Thành Thơ
Thành Đá
Thành Trăng
………
Ôi, còn có nỗi thống khổ nào hơn
Tình cờ tôi chợt hiểu
Một tháng có nhiều đêm trăng
Và thời buổi ngày nay
Vào Hoàng Cung là chuyện quá dễ dàng
Cả con bò con heo cũng đi trên Trung lộ…
Những gì em nói với tôi hôm đó
Em đã nói với nhiều người…
Ôi, những câu thơ này nó vượt quá sức tôi
Tôi không thể cất lên được thành lời
Nếu miệng môi tôi không đầy cát
Nhưng tôi vẫn không vào nhà em
Tôi quay về
Tôi khóc
Tôi khóc niềm tin yêu nát tan
Tôi khóc ngai vàng mộng tưởng
Tôi khóc Trăng - Hoàng - Cung bị lấm bẩn
Tôi khóc không biết lấy gì để gột sạch Trăng…
Bài thơ có tên “Tôi Khóc” trong thi tập “Trăng
Hoàng Cung” mà chúng ta vừa nghe không mang phong cách của Phùng Quán. Bài
thơ này biệt lập hẳn những gì mà người đọc thơ ông nhiều năm biết đến. Những
giọt nước mắt của Phùng Quán sao mà thơ ngây đến vậy, nó khiến người đọc thơ
ông cảm hoài và xao xuyến với ông trong nỗi mất mát niềm tin, niềm tin của một
thi nhân yêu đến đớn đau cái đẹp nay đã thành cổ tích.
Thế nhưng Phùng Quán không phải
lúc nào cũng dễ khóc như thế! Ông chỉ khóc khi cái đẹp bị đánh cắp, còn những
cái khác mà ông bị cướp thì ông phản ứng lại khác hơn nhiều.
Cuộc đời ông là một sâu chuỗi đau
đớn từ thể xác tới tâm hồn. Ông bị trù dập, bị khinh bỉ, bị xua đuổi khỏi cuộc
sống. Đối với nhà nước ông bị liệt vào thành phần phản động, khó thể dung tha.
Đối với thơ văn ông bị tẩy chay không được in ấn. Thế mà ông vẫn kiên cường ưỡn
ngực trước mọi thế lực. Một mình, một bài thơ, để rồi trở thành một biểu tượng.
Bài thơ tiêu biểu của ông mang tựa “Lời mẹ dặn” nay đã trở thành bất hủ.
LỜI MẸ DẶN
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
----------
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
*
PHÙNG QUÁN
Hình ảnh dùng dao viết văn lên đá
mà Phùng Quán đưa ra thật bi tráng, đẹp và gân guốc đến rợn người.
Rất nhiều người cảm nhận bài thơ
này qua cách nghĩ: Phùng Quán tha thiết đến sự thẳng thắn trong mọi tình huống
giữa cuộc đời này. Thế nhưng đối với dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu thì bài thơ mang
đậm tính phản kháng, trực tiếp chạm đến một nhân vật mà ai cũng biết, đó là chủ
tịch Hồ Chí Minh, ông nhận xét:
“Bài Lời Mẹ Dặn nó có một ý nghĩa lớn. Đối với Phùng Quán, với tôi và rất
nhiều người bởi vì bài thơ ấy ông viết năm 25 tuổi thôi nhưng anh đã nói những
điều đại kỵ đối với miền Bắc trong ấy có bốn câu “Yêu ai cứ bảo là yêu ghét ai
cứ bảo là ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều cũng không nói yêu thành ghét. Dù
ai cầm dao dọa giết cũng không nói ghét thành yêu”.
Những câu này trực tiếp nhắm vào
Hồ Chí Minh và nhắm vào giáo dục miền Bắc tức là không ai yêu Hồ Chí Minh cả
nhưng mà từ nhỏ tới lớn mọi người được dạy là ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng
em nhi đồng? Cái câu của Phùng Quán bảo “Yêu
ai cứ bảo là yêu ghét ai cứ bảo là ghét là câu chạm nọc họ kinh khủng lắm.
Cho nên đến năm 1995 thì họ muốn xoa dịu những người trong Nhân Văn Giai
Phẩm, họ hứa in cho mỗi người một tập thơ và 5 triệu tiền nhuận bút thế nhưng
họ bảo với Phùng Quán là phải bỏ bài thơ “Lời Mẹ Dặn” ra, Phùng Quán
nhất định không chịu và sau khi ông chết họ mới chịu in cho ông tập thơ này.”
Bài thơ mang tên “Tôi chỉ viết
trên giấy có kẻ giòng” là một tuyệt tác khác của ông. Khái niệm ngay thẳng được
ông áp dụng trên từng trang giấy. Thẳng và sạch trước khi nói đến chuyện viết
từng con chữ xuống trang giấy trắng tinh. Giấy kẻ giòng là một cách nói nhưng ông
thuyết phục được người đọc về thái độ nghiêm cẩn gìn giữ những điều mà ông cho
là chân lý đối với một nhà văn, nhất là nhà văn trong thời đại đầy hàng giả,
chỉ sống còn khi biết tâng bốc và cúi đầu.
TÔI CHỈ VIẾT TRÊN GIẤY KẺ CÓ DÒNG
Là nhà văn
Tôi đã viết suốt ba mươi năm
Là chiến sĩ
Tôi là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn
Tôi có thể viết như bắn
Trên giấy không kẻ giòng
Nhưng tôi vẫn viết trên giấy có kẻ giòng
Như cái thưở vỡ lòng tập viết
Với nhiều người
Giấy không kẻ giòng dễ viết đẹp
Nhưng với tôi
Không có gì đẹp hơn
Viết ngay và viết thẳng.
Là nhà văn
Tôi yêu tha thiết
Sự ngay thẳng tột cùng
Ngay thẳng thủy chung
Của mỗi giòng chữ viết.
Nhưng là nhà văn và xạ thủ
Tôi biết
Khó vô cùng bắn trăm phát trúng cả trăm
Và càng khó hơn
Viết trọn một đời văn
Giòng đầu thẳng ngay như giòng cuối
Khi bàn tay đã đuối
Khi tấm lòng đã mỏi
Khi con mắt bớt trong
Khi dũng khí đã nguội
Phùng Quán cũng nổi tiếng với bài
“Chống tham ô lãng phí” bài
thơ được đọc lại vào đầu năm 2011 sao mà cứ tưởng tác giả vừa mới sáng tác hôm
qua!
CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ
Tôi đã đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt
Tôi đã gặp
Những bà mẹ quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu ròng ròng
Bởi đồn giặc, trồng ngô trỉa lúa...
Tôi đã đi qua
Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng
Nước biển dâng cao ướp muối các cánh đồng
Hai mùa rồi, lúa không có một bông
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ;
Tôi đã gặp
Những em thơ còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu
Cơm thòm thèm độn cám và rau
Mới tháng ba đã ngóng mau ra Tết!
Để được ăn no có thịt
Một ngày... một ngày...
Tôi đã đi giữa Hà Nội
Những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm
Chị em công nhân đổ thùng
Run lẩy bẩy chui hầm xí tối
Vác những thùng phân...
Thuê một vạn một thùng
Mấy ai dám vác ?
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con...
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của nhân dân lao động
Đang buộc bụng, thắt lưng để sống
Để dựng xây, kiến thiết nước nhà
Để yêu thương, nuôi nấng chúng ta
Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm từ bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ trang kim vàng mã
dán lên quân trang đẫm mồ hôi và máu tươi Cách Mạng!
Như công nhân
Tôi quyết đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Vào lũ người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Các đồng chí ơi
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem
“Đài xem lễ” họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng bỏ dở
Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!
Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “Đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước đêm nay không đếm hết người nghèo
Thiếu cơm thiếu áo...
Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu
Đảng đã phê bình trên báo
Còn bao tên chưa ai biết ai hay?
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy...
Chúng nảy nòi, sinh sôi như dòi bọ!
Khắp đất nước đâu đâu chẳng có!
Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả
E phải nghìn số báo Nhân dân!
Tôi đã dự những phiên toà xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói
Những mẹ già, em trai, em gái...
Còng lưng rỏ mát lấn vành đai!
Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết.
Đảng cần phải lập những đội quân trừ diệt
Có tôi!
Đi trong hàng ngũ tiên phong.
*
PHÙNG QUÁN
Dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu nguyên
trưởng ban tu thư Đại học Vạn Hạnh đã có duyên với nhà thơ Phùng Quán từ trước
năm 1975 khi những tác phẩm dịch từ tác giả Boris Pasternak của ông được in ra
và Phùng Quán biết đến từ khi còn ở miền Bắc. Sau đó Phùng Quán vào Nam tìm ông
nhưng ông đã sang Mỹ. Năm 1992 và 1995 hai người gặp nhau tại Hà Nội do thư từ
liên lạc. Dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu kể lần gặp mặt sau cùng này:
“Ngày mùng 9 tháng 1 năm 1995, cái ngày tôi đi hôm trước đó tức là ngày
mùng 8 tháng 1 tôi có làm photo copy những bài thơ mới của Phùng Quán. Khi đi
qua đường thì anh ấy dừng lại giữa đường và anh ấy nhìn xuống Hồ Tây thố lộ với
tôi một điều mà tôi rất kinh hoàng, tuy nhiên ngược lại cũng rất là mừng khi
anh ấy mất.
Điều anh nói như thế này: Anh ấy có một thằng con tên là Phùng Quân nó
nghiện ngập và dính líu vào một vụ án mạng. Công an họ bắt và ngay trước Tết
thì họ thả ra cho nó ăn Tết nhưng họ gọi Phùng Quán lên giao, Ông cục trưởng
công an là tướng Phạm Chuyên gặp Phùng Quán và nói rằng sau khi con của Phùng
Quán về nhà ăn Tết sẽ gặp lại nhà thơ sau Tết và mong rằng lúc đó nhà thơ và
công an sẽ nói chung một tiếng nói! Phùng Quán lúc ấy rất lo âu nói với tôi
rằng làm thế nào một nhà thơ lại có cùng tiếng nói với công an được?
Sau khi tôi đi có mấy ngày thì Phùng Quán mất, ngày 21 tháng 1 năm 1995
anh ấy mất. Mặc dù rất là buồn nhưng tôi cũng rất mừng vì anh ấy thoát nạn đối
phó với công an.”
Ngày giỗ của Phùng Quán năm nay
chắc ông và người vợ hiền mang tên Vũ Bội Trâm sẽ không còn lạnh lẽo như trước.
Bạn hữu và những người yêu mến nhà thơ đã vận động gây quỹ xây một lăng mộ
khang trang tại khu nghĩa trang Ngoại Viên Hưng, phía Tây Thủy Dương cách Huế 6
km về phía nam ở vị trí rất thơ mộng.
Có gần 300 văn nghệ sĩ, trí thức
và những người Việt ngưỡng mộ Phùng Quán ở Việt Nam, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Ba Lan,
Úc, Thụy Sĩ , Canada… đã nhiệt tình đóng góp cho việc xây dựng ngôi mộ này cho
hai vợ chồng ông. Nhà thơ Ngô Minh là người đứng ra đảm trách việc xây mộ và
cải tang. Trưa ngày 9-1-2011, di hài nhà thơ Phùng Quán và bà Vũ Thị Bội Trâm
trở về với đất làng Thanh Thủy Thượng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế
như lời di chúc năm nào của ông: Tôi sẽ
đào nấm huyệt/ Cạnh mồ cha mẹ tôi.
Sau bao nhiêu thăng trầm, cuối
cùng thì nhà thơ cũng đã yên nghỉ. Ông không còn cơ hội để “yêu ai cứ bảo là
yêu” như khi còn trẻ, bây giờ có chăng ông sẽ cười móm mém với trên đầu là gió,
bên cạnh là thơ và hơn hết ông có một ý trung nhân theo tận chốn suối vàng…
--------------
Nguồn: NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN/
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
0 comments:
Đăng nhận xét